Cập nhật nội dung chi tiết về Ngành Sữa Việt Nam: Thách Thức Và Cơ Hội mới nhất trên website Photomarathonasia.com. Hy vọng thông tin trong bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu ngoài mong đợi của bạn, chúng tôi sẽ làm việc thường xuyên để cập nhật nội dung mới nhằm giúp bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.
(Dairy Việt Nam) Tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh, thị trường rộng lớn và môi trường đầu tư thông thoáng, hấp dẫn, là những điều kiện thuận lợi để phát triển thị trường sữa tại Việt Nam. Bên cạnh những điều kiện thuận lợi đó, ngành sữa Việt Nam cũng phải đối diện với nhiều thách thức như vấn đề an toàn vệ sinh thực phẩm, chất lượng sữa, kỹ thuật chăn nuôi, dây chuyền công nghệ, chi phí cũng như các chính sách, cơ chế khuyến khích từ Nhà nước.
Trong nhiều năm trở lại đây, nhu cầu sử dụng sữa tại Việt Nam tăng lên đáng kể. Theo Thống kê từ Hiệp hội Thức ăn gia súc Việt Nam, nhu cầu sữa tươi nguyên liệu tăng khoảng 61% , từ 500 triệu lít (năm 2010) lên đến 805 triệu lít (năm 2015). Các nhà chuyên môn đánh giá rằng tiềm năng phát triển của thị trường sữa tại Việt Nam vẫn còn rất lớn. Là một quốc gia đông dân và mức tăng dân số cao khoảng 1.2%/năm, thị trường sữa tại Việt Nam có tiềm năng lớn.
Tỷ lệ tăng trưởng GDP 6-8%/năm, thu nhập bình quân đầu người tăng 14.2%/năm, kết hợp với xu thế cải thiện thiện sức khỏe và tầm vóc của người Việt Nam khiến cho nhu cầu tiêu thụ các sản phẩm sữa luôn giữ mức tăng trưởng cao. Năm 2010, trung bình mỗi người Việt Nam tiêu thụ khoảng 15 lít sữa/năm.
Dự báo đến năm 2020, con số này sẽ tăng gần gấp đôi, lên đến 28 lít sữa/năm/người. Đặc điểm địa lý và khí hậu nhiệt đới xen với vành đai ôn đới tại Việt Nam rất thuận lợi cho phát triển đàn bò sữa. Các đồng cỏ như Hà Tây, Mộc Châu, Bình Dương… cung cấp nguồn thức ăn dồi dào, phong phú và điều kiện sinh trưởng tốt. Việc đầu tư phát triển ngành sữa vừa tạo điều kiện cho doanh nghiệp phát triển sản xuất với chi phí nhân công thấp đồng thời mang lại sinh kế cho người dân thiếu việc làm và thiếu thu nhập, góp phần xóa đói giảm nghèo, tăng cường an sinh xã hội, gắn liền lợi ích doanh nghiệp với cộng đồng.
Các thách thức của ngành sữa VN
Chăn nuôi bò sữa là ngành đòi hỏi kỹ thuật, đầu tư cao. Tuy nhiên, trên thực tế hơn, 95% số bò sữa ở nước ta được nuôi phân tán trong các nông hộ với quy mô nhỏ lẻ, thiếu chuyên nghiệp. Người dân không được hướng dẫn bài bản về kỹ thuật chăn nuôi, biện pháp phòng trừ bệnh tật. Thêm vào đó, người nuôi bò hoàn toàn thụ động trước các tác động kinh tế, xã hội khác ảnh hướng trực tiếp đến quá trình chăn nuôi như việc tăng giá của con giống, thức ăn đầu vào hay chi phí đầu ra cho sản phẩm sữa thu hoạch. Trong năm 2009, sản xuất sữa nguyên liệu từ đàn gia súc trong nước chỉ mới đáp ứng được khoảng 20-30% tổng mức tiêu thụ sữa. Ở Việt Nam, chỉ có 5% của tổng số bò sữa được nuôi tập trung ở trang trại, phần còn lại được nuôi dưỡng bởi các hộ gia đình ở quy mô nhỏ lẻ. Đến cuối năm 2009, có 19.639 nông dân chăn nuôi bò sữa với mức trung bình là 5,3 con bò mỗi trang trại.
Hậu quả là các sản phẩm sữa của Việt Nam là một trong những đắt nhất trên thế giới. Chi phí trung bình của sữa ở Việt Nam là USD1.40/litre, so với USD1.30/litre ở New Zealand và Philippines, USD1.10-1.20/litre tại Úc và Trung Quốc, và USD0.90/litre ở Anh, Hungary và Brazil, theo công bố của Tập đoàn nghiên cứu thị trường Euromonitor. Để xây dựng một hệ thống chăn nuôi bò sữa đạt chuẩn, doanh nghiệp phải đầu tư một số vốn rất lớn. Hơn nữa, muốn đáp ứng yêu cầu thị trường, các doanh nghiệp trong ngành sữa phải nhập khẩu công nghệ, nguyên liệu, thiết bị từ nước ngoài do kỹ thuật trong nước còn hạn chế ảnh hưởng đến giá thành của sản phẩm, doanh thu của doanh nghiệp.
Các công ty sữa phụ thuộc vào sữa bột nhập khẩu hơn là sản xuất sữa tươi trong nước. Sản xuất sữa phải đối mặt với sự mất cân bằng cung và cầu khi đàn bò sữa trong nước chỉ đáp ứng khoảng 20-30% tổng nhu cầu sữa trên toàn quốc. Sự phụ thuộc nhiều vào thị trường nước ngoài đối với nguyên liệu đầu vào tạo ra một nguy cơ chèn ép lợi nhuận do biến động giá của các sản phẩm sữa nhập khẩu.
Theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (Bộ NN & PTNT), Việt Nam nhập khẩu 72 phần trăm của tổng sản phẩm sữa trong năm 2009, bao gồm 50 phần trăm sữa nguyên liệu và 22 phần trăm sữa thành phẩm. Mặt khác, từ sau khi gia nhập WTO, doanh nghiệp sữa Việt Nam chịu sức ép cạnh tranh ngày một gia tăng do việc giảm thuế cho sữa ngoại nhập theo chính sách cắt giảm thuế quan của Việt Nam khi thực hiện các cam kết Hiệp định ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung trong Khu vực Mậu dịch Tự do ASEAN (cam kết CEPT/AFTA) và cam kết với Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO). Tâm lý “sính ngoại” của người Việt cũng tác động tiêu cực đến số lượng tiêu thụ các sản phẩm sữa Việt Nam. Hiện nay, các sản phẩm sữa trong nước chỉ chiếm 30% thị phần nội địa.
Vấn đề chất lượng và an toàn vệ sinh thực phẩm cũng ảnh hưởng lớn đến tâm lý người tiêu dùng. Do thiếu tiêu chí đánh giá cộng với quy trình kiểm định chất lượng sữa lỏng lẻo, nhiều loại sữa không rõ bao bì nhãn mác vẫn được bày bán một cách công khai. Vụ việc như sữa có Melamine, sữa có chất lượng thấp hơn so với công bố…, khiến cho các hoạt động tiêu thụ sữa gặp khó khăn, ảnh hưởng đáng kể tới các doanh nghiệp sản xuất sữa. Đứng trước những khó khăn, thách thức đó, một số doanh nghiệp trong ngành sữa đã tìm cách đổi mới nhằm đáp ứng nhu cầu thị trường với nhiều ý tưởng kinh doanh sáng tạo và thiết thực. Song, không phải doanh nghiệp nào cũng có đủ tiềm lực tài chính và dịch vụ hỗ trợ, tư vấn để vận dụng thành công ý tưởng kinh doanh sáng tạo của mình.
Cơ Hội Và Thách Thức Mới Với Thị Trường Bán Lẻ Việt Nam
Vài đánh giá về thị trường bán lẻ Việt Nam
Sau khi Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), thị trường bán lẻ đã mở cửa hoàn toàn, những thay đổi tích cực của thị trường đã tác động lớn đến tiêu dùng của người dân cũng như phương thức phân phối sản phẩm của các nhà sản xuất, cung cấp.
Điều này được thể hiện trong Chỉ số phát triển bán lẻ toàn cầu (GRDI) được ghi nhận bởi tập đoàn Tư vấn thị trường AT Kearney (Mỹ) – Nghiên cứu xếp hạng 30 thị trường bán lẻ hấp dẫn nhất thế giới, dựa trên cơ sở điều tra, khảo sát các nhà phân phối, bán lẻ hàng đầu thế giới.
Năm 2008, Việt Nam lần đầu tiên trở thành thị trường bán lẻ hấp dẫn nhất trong số các thị trường mới nổi, sau đó tụt xuống vị trí thứ 5 vào năm 2009, thứ 14 năm 2010, vị trí 23 năm 2011 và vị trí 28 năm 2014. Hiện nay, Việt Nam đã lọt khỏi top 30 thị trường bán lẻ hấp dẫn nhất thế giới.
Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, tăng trưởng bình quân của tiêu dùng cá nhân là 10,5%/năm, từ đó, tổng mức hàng hóa bán lẻ và doanh thu dịch vụ tiêu dùng cũng tăng dần qua các năm với tỷ lệ tăng bình quân là 15,5%/năm. Cụ thể:
Quy mô thị trường bán lẻ tăng nhanh từ 70 tỷ USD năm 2010 lên đến 158 tỷ USD năm 2016. Kênh bán lẻ hiện đại ở Việt Nam hiện chiếm khoảng 25% thị phần, thấp hơn so với các nước trong khu vực như Philippines là 33%, Thái Lan là 34%, Trung Quốc là 51%, Malaysia là 60% và Singapore lên đến 90%.
Thị trường bán lẻ Việt Nam tăng mạnh với nhiều hình thức khác nhau, đặc biệt là hình thức bán lẻ hiện đại như các siêu thị, trung tâm mua sắm, trung tâm thương mại rộng lớn.
Bên cạnh đó, các cửa hàng, hộ kinh doanh cá thể, gánh hàng rong cũng ngày càng phát triển. Hiện nay, cả nước có khoảng 800 siêu thị, trung tâm mua sắm và 150 trung tâm thương mại, gần 9.000 khu chợ và 2,2 triệu hộ kinh doanh bán lẻ trên khắp mọi miền.
Các DN trong nước chiếm phần lớn thị trường bán lẻ Việt Nam như: Hệ thống kinh doanh tổng hợp có chúng tôi Mart, Vinmart, Fivimart, SaigonCoop, SatraMart, Hapromart… Ngoài ra, thị trường còn có sự tham gia của các nhà bán lẻ nổi tiếng nước ngoài.
Trong năm 2016, một số thương vụ đầu tư lớn vào Việt Nam như: Aeon đầu tư 500 triệu USD xây dựng hệ thống siêu thị, trung tâm mua sắm; Tập đoàn TCC Holdings của Thái Lan mua lại Metro Cash và Carry Việt Nam với giá 655 triệu EUR; Tập đoàn Central Group của Thái Lan mua lại Big C với giá 1,4 tỷ USD. Trong năm 2017, 7 Eleven và một số nhà phân phối hàng đầu thế giới sẽ mở cửa hàng đầu tiên tại Việt Nam.
Theo dự báo của Viện Nghiên cứu Thương mại (Bộ Công Thương), giai đoạn 2016 – 2020, tốc độ tăng trưởng thương mại bán lẻ của Việt Nam sẽ đạt 11,9%/năm, quy mô thị trường khoảng 179 tỷ USD vào năm 2020, trong đó bán lẻ hiện đại chiếm trên 45% so với mức 25% của năm 2016. Đến năm 2020, theo quy hoạch, cả nước sẽ có khoảng 1.200 – 1.500 siêu thị, 180 trung tâm thương mại, 157 trung tâm mua sắm.
Thống kê cho thấy, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng trong nước trong giai đoạn 2007-2016 tăng trung bình khoảng 20%/năm, (gần 7 lần từ khi Việt Nam vào WTO).
Theo Bộ Công Thương, thị phần bán lẻ hiện đại chỉ mới chiếm khoảng 25% tổng mức bán lẻ; Các siêu thị, trung tâm thương mại hầu hết tập trung tai các thành phố lớn và khu vực nội thành, khu vực nông thôn và ngoại thành còn bỏ ngỏ rất nhiều. Đối thủ cạnh tranh bán lẻ của các DN Việt Nam chưa nhiều. Theo dự báo, thị trường bán lẻ hàng thực phẩm sẽ phát triển mạnh đến năm 2020 với sức tiêu thụ tăng bình quân 5%/năm.
Với dự báo đó, Bộ Công Thương đã xếp ngành công nghiệp thực phẩm vào nhóm ngành đang có lợi thế cạnh tranh và có định hướng, chiến lược phát triển trên cơ sở sử dụng công nghệ tiên tiến, hiện đại, khai thác, sử dụng tối đa nguyên liệu trong nước, tạo sản phẩm đa dạng, đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm theo tiêu chuẩn Việt Nam và quốc tế, có khả năng cạnh tranh cao để hình thành ngành kinh tế mạnh, hội nhập vững chắc trong khu vực và thế giới.
Những thách thức đặt ra
Từ ngày 01/01/2009, Việt Nam đã mở cửa gần như hoàn toàn thị trường bán lẻ trong nước cho các nhà cung cấp nước ngoài. Điều này đồng nghĩa với sự cạnh tranh tăng lên rất nhiều và thị trường bán lẻ Việt Nam đã có sự thay đổi về chất.
Trong thời gian ngắn, hệ thống phân phối hiện đại ở Việt Nam đã phát triển nhanh chóng, với hơn 700 siêu thị và trung tâm mua sắm thì nhà bán lẻ nước ngoài chiếm đến 40%, 125 trung tâm thương mại thì khu vực có vốn đầu tư nước ngoài chiếm 25%.
Số lượng cửa hàng của một số thương hiệu lớn đã tăng nhanh, trong năm 2016, Vinmart: 1.000, Circle K: 200, Familly mart 73, vinmart: 36, Big C: 32, Fivimart: 30… đặt các DN bán lẻ trong nước trước những thách thức to lớn như: tăng cường năng lực cạnh tranh, sử dụng các công cụ được phép để bảo vệ tốt nhất lợi ích của người tiêu dùng.
Thị trường bán lẻ Việt Nam còn nhiều khiếm khuyết, thiếu tính liên kết giữa các lực lượng tham gia thị trường bán lẻ.
Hệ thống chuỗi siêu thị, cửa hàng bán lẻ thiếu tính chuyên nghiệp từ công nghệ quản trị chuỗi, tổ chức trưng bày hàng hóa, giá cả thiếu cạnh tranh, nguồn hàng chưa phong phú, đa dạng, mức độ kiểm soát chất lượng hàng hóa chưa đáp ứng được yêu cầu, mạng lưới chưa rộng khắp và tương xứng với nhu cầu của khách hàng.
Thói quen của người tiêu dùng cũng là thách thức lớn đối với các DN bán lẻ. Bên cạnh đó, các DN bán lẻ trong nước còn gặp phải nhiều vướng mắc từ chính sách và thực thi chính sách của Nhà nước. Các DN bán lẻ nước ngoài thường được ưu ái hơn khi cần mặt bằng kinh doanh.
Để thị trường bán lẻ Việt Nam tiếp tục phát triển ổn định, các DN trong nước củng cố được vị thế top 30 thị trường bán lẻ hấp dẫn nhất thế giới, cần có chiến lược mạnh mẽ và phù hợp, tận dụng các cơ hội tiềm năng từ hội nhập quốc tế.
1. Tổng cục Thống kê, tình hình kinh tế – xã hội năm 2010 – 2016; 2. Động thái và thực trạng kinh tế – xã hội Việt Nam 5 năm 2011-2015; 3. Chính phủ (2012) Quy hoạch tổng thể phát triển thương mại Việt Nam giai đoạn 2011-2020 và định năm 2030.
Năng Lượng Bền Vững: Thách Thức Và Cơ Hội Cho Doanh Nghiệp Việt
Theo dự báo, đến năm 2030, thế giới sẽ phải đối mặt với nguy cơ thiếu năng lượng trầm trọng và phải cần khoảng 10,5 nghìn tỷ euro đầu tư cho ngành này. Vì vậy, việc sử dụng năng lượng hiệu quả, thân thiện với môi trường để đảm bảo an ninh năng lượng và phát triển bền vững là vô cùng quan trọng. Tuy nhiên, thực hiện được điều này không đơn giản.
Với tốc độ tiêu thụ năng lượng hiện tại thì nguồn năng lượng truyền thống của thế giới được dự báo sẽ nhanh chóng bị cạn kiệt. Theo dự báo, đến năm 2035 tiêu thụ năng lượng toàn cầu sẽ tăng 53%, và các doanh nghiệp khắp nơi trên thế giới đang không ngừng nghiên cứu tìm nguồn năng lượng sạch. Cũngtheo báo cáo của APEC, nếu không giảm cường độ sử dụng, nhu cầu năng lượng trong khu vực sẽ tăng tương đương với tăng trưởng kinh tế, tức là khoảng 225% cho đến năm 2035. Bên cạnh đó, hiện nay thói quen sử dụng nhiên liệu hóa thạch đã làm tăng các mối quan tâm về môi trường. Việc đốt nhiên liệu hóa thạch tạo ra khoảng 21,3 tỉ tấn carbon dioxide hàng năm. Cacbon đioxit là một trong những khí nhà kính làm tăng lực phóng xạ và góp phần vào sự nóng lên toàn cầu , làm cho nhiệt độ trung bình bề mặt của Trái Đất tăng. Thế giới đang hướng tới sử dụng các nguồn năng lượng tái tạo là một trong những cách giúp giải quyết vấn đề tăng nhu cầu năng lượng.
Việt Nam cũng đang đứng trước thách thức về nguy cơ thiếu hụt năng lượng trong vòng một thập kỷ tới. Giai đoạn 2010-2020 có thể xuất hiện sự mất cân đối giữa khả năng cung cấp và nhu cầu sử dụng các nguồn năng lượng nội địa, và Việt Nam chuyển từ nước xuất khẩu thành nước nhập khẩu năng lượng, mức độ phụ thuộc vào năng lượng nhập khẩu ngày một tăng.
Bên cạnh đó, một nghiên cứu về hơn 190 quốc gia cho thấy Việt Nam đứng thứ 23 trong số các nền kinh tế dễ bị tổn thương nhất đối với biến đổi khí hậu. Điều đó cho thấy tác động tiêu cực mà các vấn đề môi trường có thể gây ra đối với người thu nhập thấp và sinh kế của họ. Sự bất cân đối giữa cung và cầu năng lượng như hiện nay đang đe dọa trực tiếp đến nền kinh tế và xã hội.
Nguồn năng lượng tái tạo dồi dào
Khu vực nông thôn là khu vực ẩn chứa những mỏ năng lượng tái tạo tuyệt vời như: năng lượng sinh học, thủy điện, năng lượng mặt trời, gió hay địa nhiệt… Giá trị của những nguồn này có thể được nâng cao nhờ các thiết bị có quy mô phù hợp với nhu cầu của cộng đồng và phải được khai thác trong những điều kiện kỹ thuật và kinh tế tốt để đáp ứng nhu cầu của người dân và doanh nghiệp. Tiềm năng về năng lượng biogas là xấp xỉ 10 tỷ m3 mỗi năm thông qua các hoạt động nông nghiệp. Kỹ thuật của cả nhà máy thủy điện nhỏ chỉ thu được khoảng 30MW, thấp hơn nhiều so với tiềm năng thủy điện hiện có 4.000 MW. Năng lượng mặt trời dồi dào với bức xạ mặt trời trung bình 5kWh/m2 mỗi ngày trong cả nước. Định hướng địa lý của Việt Nam với khoảng 3400km đường bờ biển cũng cung cấp năng lượng gió dồi dào với ước tính khoảng 500-1000 kWh/m2 mỗi năm. Giá trị của nguồn tài nguyên này có thể được tăng cường bằng cách đầu tư cho cơ sở hạ tầng thích hợp tương ứng với nhu cầu của cộng đồng.
Bên cạnh nhu cầu tiêu thụ lớn và nguồn năng lượng tái tạo dồi dào, các doanh nghiệp đầu tư lĩnh vực năng lượng tại Việt Nam lại đang phải đối mặt với rất nhiều thách thức.
Thách thức lớn nhất về tăng cường hoạt động công để khuyến khích và hỗ trợ doanh nghiệp phát triển thị trường tiết kiệm năng lượng và năng lượng tái chế. Hiện nay, trong nông nghiệp đang tồn tại các vấn đề như: Lao động được hưởng lợi rất ít, chưa thu được nhiều lợi nhuận từ chuỗi giá trị gia tăng.
Ngoài ra, khó khăn với các doanh nghiệp đặc biệt là khu vực doanh nghiệp tư nhân Việt Nam là chưa có cơ chế, chính sách phù hợp để khuyến khích cũng như tạo điều kiện cho doanh nghiệp triển khai các mô hình như: Các dự án về năng lượng tái tạo, tái chế rác thải sinh hoạt và rác trong nông nghiệp thành năng lượng…
Bên cạnh đó, xét về quy mô thì các doanh nghiệp tư nhân Việt Nam có quy mô nhỏ, thiếu kinh nghiệm, không có tổ chức tư vấn cụ thể để hỗ trợ phát triển thị trường, thiếu sự liên kết đồng bộ… Nhưng trên tất cả là thiếu vốn. Nhiều doanh nghiệp có ý tưởng, có dự án sáng tạo nhưng lại không đủ tiềm lực tài chính để thực hiện.
Cơ hội lớn giải quyết thách thức cho DN Việt Nam
Nhìn nhận được những cơ hội và thách thức đó, Quỹ Thách thức Doanh nghiệp Việt Nam (VBCF) đã được thành lập nhằm hỗ trợ các doanh nhiệp tư nhân đang hoạt động tại Việt Nam xây dựng mô hình kinh doanh sáng tạo cùng người thu nhập thấp và có thể mang lợi ích kinh tế cho doanh nghiệp cũng như tác động tích cực cho xã hội thông qua mô hình Kinh doanh cùng người thu nhập thấp . VBCF tập trung hỗ trợ 3 lĩnh vực được xác định là những ngành chủ chốt đối với sự phát triển bền vững và tăng trưởng vì người nghèo gồm Nông nghiệp, Tăng trưởng xanh, Cơ sở hạ tầng quy mô nhỏ và dịch vụ cơ bản.
Trong lĩnh vực tăng trưởng xanh, phát triển năng lượng bền vững tại Việt Nam, VBCF khuyến khích các doanh nghiệp có ý tưởng kinh doanh mang tính đổi mới và khả thi về thương mại có thể giải quyết được các thách thức như:
1)Giới thiệu các giải pháp năng lượng và phát thải thấp bền vững thu hút sự tham gia hoặc đem lại lợi ích cho người thu nhập thấp
2)Giảm ô nhiễm môi trường và cải thiện điều kiện kinh tế của cộng đồng thông qua chuyển đổi phế thải thành năng lượng…
Với người thu nhập thấp, các doanh nghiệp được VBCF hỗ trợ phải cam kết tạo công ăn việc làm ổn định, đồng thời góp phần bảo vệ môi trường thiên nhiên, tạo ra các nguồn năng lượng sạch, năng lượng tái tạo… Với các doanh nghiệp, VBCF giúp các doanh nghiệp tư nhân biến hoài bão của mình thành các sáng kiến kinh doanh hiện thực. Doanh nghiệp sẽ giảm thiểu được các chi phí nhờ trực tiếp đưa người thu nhập thấp tham gia vào chuỗi kinh doanh của mình, tạo nên một mô hình kinh doanh bền vững các bên cùng có lợi như khẩu hiệu của VBCF: ” Giàu doanh nghiệp- Lợi cộng đồng “.
Các doanh nghiệp quan tâm có thể liên hệ với Quỹ Thách Thức Doanh nghiệp Việt Nam để nộp đề xuất hoặc tìm hiểu thêm thông tin.
Nguồn: Tạp chí Vietnam Business Forum
Việt Nam Sau 3 Năm Gia Nhập Wto: Vận Hội Và Thách Thức
DIỄN ĐÀN KINH TẾ
VIỆT NAM SAU 3 NĂM GIA NHẬP WTO: VẬN HỘI VÀ THÁCH THỨC
Năm 2010, Việt Nam đã tròn 3 năm gia nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO). Theo nguyên Phó Thủ tướng Vũ Khoan, đánh giá lại quá trình 3 năm Việt Nam gia nhập WTO rất khó, vì trong thời gian này khủng hoảng kinh tế thế giới đã bóp méo nền kinh tế toàn cầu và nền kinh tế Việt Nam; tuy nhiên vẫn cần phải đánh giá lại để định hướng chiến lược, dự báo phát triển cho các năm tiếp theo.
Việt Nam sau 3 năm gia nhập WTO: Vận hội và thách thức
* Thưa ông! Có thể nói là sau 3 năm ra nhập WTO chúng ta thu được rất nhiều thành tựu có tác động lan tỏa tới nền kinh tế. Những đánh giá, nhận xét của ông về hiệu ứng của WTO đối với sự phát triển của nền kinh tế nước ta?
– Việc chúng ta tham gia WTO chỉ là một trong những biện pháp để phát triển kinh tế, chứ nó không thể thay thế hết tất cả các biện pháp khác. Do đó việc chúng ta nhìn lại mấy năm vừa qua và bóc tách ra cái gì là do tác động của việc ra nhập tổ chức WTO, cái gì là do những nhân tố khác là rất khó. Điểm khó nữa là chúng ta đã gặp điều không may. Tức là gia nhập tổ chức WTO vào lúc tình hình kinh tế thế giới bị đảo lộn, trải qua cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ nặng nề, suy thoái kinh tế rất nghiêm trọng. Do đó để đánh giá một cách chuẩn xác, cái gì là nhờ gia nhập tổ chức WTO, cái gì là không quả là không đơn giản. Nhưng cũng có thể nhìn thấy tình hình đất nước chúng ta sau khi Việt Nam ra nhập tổ chức WTO, coi như là từ đầu năm 2007 đi thì nó cũng có những biểu hiện tích cực. Biểu hiện thứ nhất là xuất khẩu của chúng ta tiếp tục tăng và với tốc độ trên 20%/năm, với thị trường ngày càng được mở rộng. Thứ 2 cũng có thể cảm nhận một cách đặc biệt rõ nét tức là đầu tư nước ngoài đổ vào Việt Nam bùng nổ vào năm 2007 và nhất là năm 2008 với tốc độ chúng tôi cũng không ngờ tới. Điều đó đã nói nên sức hấp dẫn của thị trường Việt Nam càng mạnh hơn nữa sau khi Việt Nam đã hội nhập kinh tế thế giới. Đấy là 2 thành tựu mà chúng ta có thể ghi nhận được. Từ đó, dòng tiền ngoại hối đổ vào Việt Nam: kể cả qua đầu tư, rồi là xuất khẩu, rồi là kiều hối, lao động tất cả những điều đó làm cho dự trữ ngoại tệ của chúng ta tăng lên đáng kể. Cái thứ 3 tôi cho rằng nó vô hình thôi nhưng mà lại cực kỳ quan trọng và có ý nghĩa rất là lớn: Tức là các doanh nghiệp của chúng ta đã bước đầu đã học được cách hội nhập với thế giới và cũng đã phát huy được tác dụng của mình, đồng thời cũng ứng phó được với những tác động không thuận của nền kinh tế thế giới. Tất nhiên còn nhiều vấn đề, nhưng mà ra trận lần đầu như thế được thì rất đáng ghi nhận. Cái thứ 4 đó là hệ thống pháp lý của chúng ta, khung khổ pháp lý của chúng ta, cơ chế chính sách của ta về lĩnh vực kinh tế được cải thiện lên rất nhiều so với trước khi chúng ta gia nhập tổ chức WTO. Trong quá trình ra nhập tổ chức này, chúng ta cũng đã phải đổi mới, hoàn thiện, nâng cao hệ thống pháp lý của chúng ta rồi. Thế thì chính điều đó đã cởi trói cho các doanh nghiệp trong và ngoài nước. Nó làm cho cơ chế kinh tế của chúng ta thông thoáng, minh bạch hơn rất nhiều. Đấy cũng là một kết quả mà chúng ta tuy không cân đong, đếm được nhưng lại rất quan trọng. Kết quả thứ 5 nữa là, với việc gia nhập tổ chức WTO thì vị thế quốc tế của chúng ta tăng hơn hẳn. Cũng cùng với lúc đó thì chúng ta được bầu vào ủy viên không thường trực hội đồng bảo an liên hợp quốc hai năm liền, rồi Việt Nam được tín nhiệm là nước Chủ tịch của Asean, rồi chúng ta đại diện cho Asean dự diễn đàn rất lớn là G20… Những điều đó chúng ta không thể tưởng tượng được nếu mà chúng ta không hội nhập với thế giới. Có thể kể ra rất nhiều rất nhiều sự kiện nói nên vị thế quốc tế của Việt Nam. Nhìn một cách tổng quát thì có thể ghi nhận việc chúng ta gia nhập tổ chức WTO là một trong những biện pháp để phát triển kinh tế, một trong những biện pháp để hội nhập với thế giới và nó mang ý nghĩa quan trọng và có những tác dụng rất là cụ thể. Thế nhưng chỉ nói một chiều những thuận lợi đó thôi thì chưa đủ. Vẫn còn có những khó khăn và nhiều thách thức.
* Trước khi chúng ta ra nhập WTO thì chúng ta đều biết rằng là khi vào tổ chức này sẽ phải đối mặt với nhiều cơ hội và thách thức. Hiện nay, theo ông đánh giá: sau 3 năm như vậy thì những thách thức mà chúng ta gặp phải mà chúng ta chưa vượt qua được là như thế nào?
– Phải nói thách thức mà chúng ta đang gặp phải không chỉ phát sinh ở việc chúng ta gia nhập WTO mà nó nằm trong nội tại nền kinh tế. Những thách thức đó càng bộc lộ rõ nét hơn khi chúng ta hội nhập với thế giới, khi chúng ta gia nhập WTO. Tôi nói ví dụ như là vấn đề kết cấu hạ tầng của chúng ta rất là yếu kém. Chúng ta biết rất rõ và cũng có rất nhiều cố gắng nhưng tìm được lời giải thích đáng. Khi bùng nổ quan hệ xuất nhập khẩu, bùng nổ quan hệ đầu tư thì cái yếu kém đó bộc lộ càng rõ. Hay là việc chúng ta đang chứng kiến một hiện tượng mà mọi người rất là lo lắng, nó bộc lộ sự yếu kém của nền kinh tế chúng ta chưa sẵn sàng ứng phó với sự triển mạnh mẽ như vậy. Hoặc là vấn đề nhập siêu, năm vừa qua nhập siêu của chúng ta rất là lớn, do chúng ta cũng đẩy mạnh xuất khẩu nhưng cơ hội phát triển xuất khẩu, phát triển kinh tế tăng lên thì nhập siêu cũng tăng. Tức là cái “bệnh cũ” của nền kinh tế nó bộc lộ ra một cách rất là rõ ràng. Cái thứ 2 nữa khả năng cạnh tranh của Việt Nam càng bộc lộ sự yếu kém. Tất cả những cái tôi kể trên cũng là những cái yếu kém của khả năng cạnh tranh thế nhưng, ý tôi muốn nói ở đây là khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp thì chúng ta cũng trụ vững được, cũng vẫn là phát triển, không đến lỗi là thua trên sân nhà như nhiều người nói. Nhưng rõ ràng là chúng ta có thể lợi dụng được nhiều cơ hội hơn nếu chúng ta có khả năng cạnh tranh mạnh. Tức là về năng lực nắm bắt tình hình, dự báo tình hình, rồi tiếp cận thị trường, xây dựng thương hiệu… Thì tất cả những điều đó nếu chúng ta làm tốt hơn thì chắc chắn là cơ hội sẽ tốt hơn rất nhiều.
* Có thể nói động lực cho nước ta phát triển trong những năm qua đó là xuất khẩu. Nhìn nhận lại những năm ra nhập WTO thì xuất khẩu của chúng ta rất thuận lợi, mặc dù năm 2009, xuất khẩu có bị giảm đi do khủng hoảng kinh tế thế giới nhưng so với nhiều quốc gia khác thì mức xuất khẩu của chúng ta rất cao. Tuy nhiên, có thể nói là cơ cấu ngành hàng của chúng ta còn hạn chế và trong những năm tới nếu chúng ta không có những thay đổi về chiến lược xuất khẩu thì khó có thể nâng thêm được nữa tỷ trọng xuất khẩu lên. Vậy thì ông đánh giá như nào về vấn đề này và cách thức chúng ta phải thay đổi cách tiếp cận với chiến lược xuất khẩu, lấy xuất khẩu làm động lực phát triển sẽ phải như thế nào?
– Sự yếu kém trong xuất khẩu của chúng ta đã tồn tại từ lâu rồi và nó bộc lộ ra rõ hơn nữa trong những năm chúng ta hội nhập với kinh tế thế giới nhưng nếu chỉ bó hẹp trong xuất khẩu thì triển của chúng ta. Ở đây có mấy khía cạnh về mô hình là vấn đề rất lớn và bây giờ người ta cũng nói rất nhiều về việc tái cấu trúc, chính là ý nói tái cấu thì một là chúng ta phát triển theo chiều rộng rất là nhiều, tập trung rất nhiều đầu tư, rất là nhiều vốn, nhiều nhân công vào sự phát triển. Vốn chúng ta đã huy động đến 42% GDP là mức cao nhất. Hiện nay trên thế giới, có lẽ không thể huy động cao hơn được. Thế nhưng hiệu quả đem lại thì không nhiều. Vốn đầu tư bây giờ thành cái mốt thời thượng, người ta hay nói đến ICOR thì tất nhiên ICOR của chúng ta kém thì cũng có nhiều nhân tố chứ không thể đổ hết cho nền kinh tế không hiệu quả. Cái thứ hai nữa là cơ cấu kinh tế. Trong từng lĩnh vực, ví dụ như trong công nghiệp: công nghiệp chế biến chế tạo lại chiếm tỉ trọng rất ít, công nghiệp khai thác chiếm tỉ trọng rất là cao. Hay là kể cả trong nông nghiệp, chủ yếu đều là nguyên liệu thô. Vậy thì cái đó nó dội vào yếu tố xuất khẩu thôi. Đấy là điều do bản thân cơ cấu kinh tế chưa hiện đại, chưa phù hợp. Cái đầu là mô hình phát triển quá nặng về chiều rộng. Cái thứ hai là cơ cấu chưa phù hợp. Cái thứ ba là mối quan hệ giữa phân bổ thị trường trong nước và ngoài nước thế nào cho hợp lý. Chúng ta hướng mạnh đến xuất khẩu là đúng rồi, vì thu nhập của dân ta còn hạn chế, thế nhưng tỷ lệ đó là bao nhiêu là phù hợp thì cũng là một câu chuyện dài. Chúng ta càng xuất thì lại càng phải nhập nhiều. Như hàng dệt may, bông, rồi vải cũng chẳng có thậm chí cái cúc cũng không có, chỉ cũng không có, chỉ có một ít lao động thôi thì làm sao mà có giá trị gia tăng cao được. Thành thử ra, cơ cấu về phân bổ thị trường cũng là câu chuyện. Thế rồi cơ cấu giữa doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp ngoài nhà nước. Hiện nay doanh nghiệp ngoài nhà nước phát triển rất cao. Doanh nghiệp của nhà nước thì lớn, chiếm những lĩnh vực rất quan trọng nhưng sự đóng góp của mỗi lĩnh vực đó nó như thế nào để cơ cấu kinh tế có lợi hơn… Tất cả đây không phải là câu chuyện cơ cấu xuất nhập khẩu, mà nó là toàn bộ cơ cấu của nền kinh tế. Nếu không có điều chỉnh lại, không có tái cấu trúc lại thì chúng ta sẽ “tắc tịt”, tốc độ có thể vẫn tăng lên nhưng hiệu quả đem lại không tăng hoặc thậm chí thụt đi. Đấy là câu chuyện lớn mà tôi nghĩ là sắp tới chúng ta đang hướng tới Đại hội XI của Đảng, chắc chắn đây là đề tài sống còn vì chúng ta đang đứng ở ngưỡng cửa từ nước thu nhập thấp sang thu nhập trung bình nên chúng ta không chuyển đổi được mô hình phát triển mà vẫn như cũ thì chúng ta tiếng là có thể “nhúc nhích” lên một ít đô la trên đầu người thế nhưng mà hiệu quả mang lại vẫn là thấp.
* Một thành tựu lớn nữa mà chúng ta nhìn thấy ở đây là việc thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI. Rõ ràng trong những năm gia nhập WTO thì vốn thu hút của chúng ta rất nhiều, rất nhiều các dự án lớn được chúng ta cấp phép. Nhưng mà ở đây có câu hỏi đặt ra là tính hiệu quả của những dự án mà chúng ta cấp phép. Bởi vì có nhiều chuyên gia cho rằng nhiều dự án về đất đai là chính và nó không mang lại sự lan tỏa trong nền kinh tế về những công nghệ cao hay là những chất xám khoa học kĩ thuật, những dự án về khai thác tài nguyên thiên nhiên. Vậy thì ý kiến của ông về vấn đề này là như nào?
– Trước tiên tôi phải nói là chúng ta khẳng định việc thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài mà chúng ta gọi tắt là FDI có hiệu quả. Vì nếu nhìn lại sự phát triển kinh tế của chúng ta trong những năm đổi mới từ năm 86 đến nay. Không có cái này thì chắc là chúng ta không có những thành tựu như bây giờ. Tính đến ngày hôm nay thì FDI cũng đóng góp hơn 30% công nghiệp của chúng ta, về thu ngân sách cũng chiếm tỉ trọng trên dưới 10%, đóng góp cho GDP cũng 15-17%, đóng góp cho xuất khẩu hơn 50%… Nếu không có cái này thì có những con số đó không? Chắc chắn là không có. Chúng ta trước hết phải ghi nhận đây là nguồn lực chúng ta không thể bỏ qua, không thể bỏ phí. Vấn đề là chúng ta sử dụng nguồn lực đó như nào thôi. Cũng không thể trách ai được trong những năm tháng ban đầu, kinh nghiệm không có, thế hệ chúng tôi là thế hệ được tiếp cận đổi mới ngay từ đầu. Có biết gì đâu, tôi cũng làm kinh tế đối ngoại ở Bộ Ngoại giao rồi sau làm Bộ trưởng Bộ Thương mại rồi làm ở Chính phủ nhưng mà hiểu biết về thế giới, hiểu biết về cơ chế trên thế giới này: tài chính, tiền tệ, đầu tư…, thấy nó vô cùng phức tạp, mình thì đang thiếu thốn đủ mọi bề. Mình mở ra được như thế thôi cũng hài lòng nhưng mà có biết bao nhiêu điều sau này mới tỉnh ngộ ra. Thế nên là không nên đòi hỏi một sớm, một chiều mọi thứ sẽ ổn thỏa được. Thế nhưng, bây giờ đã đến giai đoạn phát triển mới rồi và mình đã có kinh nghiệm phát triển hơn 20 năm rồi thì đã đến lúc phải chỉnh sửa lại ở cái cơ cấu. Tôi hoàn toàn đồng ý, vấn đề là cơ cấu đầu tư và cơ cấu ấy cho công nghệ chế tạo, chế biến và đã thỏa đáng chưa hay là phần khai thác còn nhiều. Ví dụ như trong lĩnh vực bất động sản, đó cũng là một hình thức kinh doanh. Đừng có thành kiến gì với nó cả. Các nước và ta cũng vậy. Kinh doanh bất động sản là một lĩnh vực bình thường. Vấn đề là cơ chế ở ta như thế nào đó để việc kinh doanh bất động sản đó có lợi cho đất nước ta. Hỗ trợ các doanh nghiệp của ta và chúng ta vẫn tuân thủ các điều luật quốc tế, đấy là vấn đề cần thiết. Và rất đúng khi chúng ta nói việc đầu tư thời gian qua đã đem lại công nghệ cao chưa, thì còn là hạn chế, chủ yếu mới là gia công, rất nhiều doanh nghiệp của ta chủ yếu la gia công: đóng giầy, chế biến, lắp ráp… Chứ còn việc chế tạo thực, kể cả công nghiệp phụ trợ cũng rất là ít. Thế thì ở giai đoạn mới này chúng ta muốn thành nước công nghiệp, muốn thành nước hiện đại thì rõ ràng là phải chỉnh sửa cơ cấu này đi bằng những cơ chế chính sách chứ không phải bằng mệnh lệnh được. Những cơ chế chính sách về thuế, về lãi suất, rồi tất cả những vấn đề kinh tế đó để lái cơ cấu đầu tư của nước ngoài đúng hướng là hỗ trợ công nghiệp chế tạo, chế biến, rồi mang lại công nghệ cao cho đất nước, mang lại giá trị gia tăng cao. Tôi muốn lại nhắc lại rằng, chúng ta phải bằng các biện pháp kinh tế chứ không phải bằng các giải pháp hành chính.
* Khi mở cửa có một tác động mà nhiều quốc gia đang gặp phải đó là chênh lệch giàu nghèo giữa các tần lớp trong xã hội. Đối với nước ta ông có lo ngại về điều này hay không?
– Lo ngại quá đi chứ. Nếu mà để cho phân hóa giàu nghèo mạnh quá thì sẽ gây ra bất ổn xã hội. Nếu thả lỏng và mặc kệ sự phân hóa đó thì xã hội sẽ bất ổn. Vấn đề là phải tìm ra điểm cân bằng giữa phát triển và công băng. Nghệ thuật của lãnh đạo là tìm được điểm cân bằng ấy.
*Vâng xin cám ơn ông!
Đức Vân
CÁC BÀI ĐÃ ĐĂNG
Biện pháp tăng cường giám sát các tập đoànBình ổn thị trường bằng cách mở rộng số lượng và quy mô sản phẩmThị trường tiền tệ diễn biến thuận lợiMobiFone và Vinaphone giảm cướcACC được chào bán 4 triệu cổ phần ra công chúngCó thể bị cấm XK nếu bán phá giá gạoSắp sát hạch cấp chứng chỉ hành nghề kinh doanh chứng khoánXuất, nhập khẩu với các nước ASEAN: Mức thâm hụt vẫn nghiêng về VNThêm một tỉnh thực hiện thông quan điện tửTrên 60% số người mua bất động sản ở Hà Nội để “đầu cơ”
Bạn đang đọc nội dung bài viết Ngành Sữa Việt Nam: Thách Thức Và Cơ Hội trên website Photomarathonasia.com. Hy vọng một phần nào đó những thông tin mà chúng tôi đã cung cấp là rất hữu ích với bạn. Nếu nội dung bài viết hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!