Cập nhật nội dung chi tiết về Ngành Ngân Hàng Triển Khai Giải Pháp Hỗ Trợ Doanh Nghiệp Bị Ảnh Hưởng Dịch Covid mới nhất trên website Photomarathonasia.com. Hy vọng thông tin trong bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu ngoài mong đợi của bạn, chúng tôi sẽ làm việc thường xuyên để cập nhật nội dung mới nhằm giúp bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.
Để công tác phòng, chống dịch COVID-19 hiệu quả, đảm bảo duy trì hoạt động liên tục, không để gián đoạn trong mọi tình huống, lãnh đạo Chi nhánh NHNN tỉnh đã chỉ đạo toàn hệ thống trên địa bàn tỉnh xây dựng và kích hoạt phương án bảo đảm cho các hoạt động của từng đơn vị được liên tục trong điều kiện dịch COVID-19 diễn biến phức tạp. Nghiêm túc tuân thủ các biện pháp phòng, chống dịch trong hoạt động và giao dịch tiền mặt như khử trùng, sát khuẩn, vệ sinh thường xuyên tại các khu vực giao dịch tiền mặt, kho quỹ và các máy giao dịch tự động (ATM); thực hiện khử trùng tiền mặt thu về trước khi nhập kho và chi ra lưu thông. Đặc biệt theo chỉ đạo của NHNN Việt Nam, toàn hệ thống đẩy mạnh thanh toán không dùng tiền mặt, tăng cường các hoạt động trực tuyến trong giao dịch ngân hàng, nhất là thanh toán trực tuyến. Để khuyến khích người dân tăng cường sử dụng hoạt động tín dụng, các ngân hàng đã triển khai mạnh các ứng dụng thanh toán trên điện thoại di động; triển khai nhiều chương trình khuyến mãi, miễn giảm phí sử dụng dịch vụ như miễn 100% phí chuyển khoản thanh toán, chuyển tiền, mua hàng trong cùng hệ thống ngân hàng cho các giao dịch trực tuyến; cộng thêm lãi suất gửi tiết kiệm nếu gửi online… Qua đó nâng tỷ lệ doanh số thanh toán không dùng tiền mặt trong 3 tháng đầu năm chiếm 68,7% trong tổng doanh số thanh toán qua ngân hàng, cao hơn 5,5% so với cuối năm 2019.
Cán bộ Ngân hàng Nhà nước chi nhánh Ninh Thuận giải quyết kịp thời hồ sơ cho tổ chức tín dụng trên địa bàn tỉnh. Ảnh: Văn Nỷ
Đồng hành với doanh nghiệp và người vay vốn bị thiệt hại do dịch COVID-19, các ngân hàng và tổ chức tín dụng trên địa bàn tỉnh đã đồng loạt giảm lãi suất cho vay từ 0,5 đến 1%/năm, đặc biệt hiện nay các ngân hàng đã triển khai gói cho vay ưu đãi hỗ trợ khách hàng, với lãi suất giảm sâu từ 2 đến 2,5%/năm so với lãi suất cho vay thông thường. Tính đến ngày 10-4, toàn hệ thống đã cho vay ưu đãi lãi suất đối với 305 khách hàng, doanh số 1.266 tỷ đồng, gồm 57 doanh nghiệp (DN), với doanh số 589 tỷ đồng và 248 cá nhân, với doanh số 677 tỷ đồng. Bên cạnh đó, ngành Ngân hàng đã tích cực rà soát, nắm bắt tình hình thiệt hại của khách hàng bị ảnh hưởng bởi dịch COVID-19 để thực hiện các giải pháp hỗ trợ, tháo gỡ khó khăn cho khách hàng. Qua rà soát, toàn tỉnh có 4.991 khách hàng, với dư nợ 3.666 tỷ đồng có nguy cơ bị ảnh hưởng bởi dịch COVID-19, chiếm 16,3% dư nợ cho vay. Trong đó có 155 khách hàng là DN, với dư nợ 1.460 tỷ đồng và 4.836 cá nhân, với dư nợ 2.205 tỷ đồng. Trong số này, đến thời điểm ngày 10-4, đã có 1.433 khách hàng, với dư nợ 2.438 tỷ đồng trực tiếp bị thiệt hại, gồm 125 DN, số dư nợ 1.321 tỷ đồng và 1.308 cá nhân, số dư nợ 1.117 tỷ đồng. Các ngân hàng thương mại đã thực hiện cơ cấu lại thời hạn trả nợ và giữ nguyên nhóm nợ cho 54 khách hàng, với dư nợ 144 tỷ đồng, gồm 10 DN, dư nợ 88 tỷ đồng; 44 cá nhân, dư nợ 56 tỷ đồng; miễn giảm lãi vay cho 97 khách hàng, với dư nợ được miễn giảm 201 tỷ đồng, số tiền lãi miễn giảm 1,24 tỷ đồng…
Trong thời gian tới, ngành Ngân hàng tiếp tục triển khai kịp thời các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước, chỉ đạo của Chính phủ, Thống đốc NHNN Việt Nam về hỗ trợ phát triển kinh tế-xã hội của địa phương; tiếp tục triển khai các giải pháp hỗ trợ DN và người dân có vốn vay bị ảnh hưởng bởi dịch COVID-19 vượt qua khó khăn, ổn định sản xuất, kinh doanh. Bên cạnh đó, bố trí nguồn vốn để phát triển các sản phẩm cho vay phục vụ đời sống, đáp ứng nhu cầu chính đáng của người dân. Tăng cường hiệu quả công tác kiểm tra, kiểm soát, trong đó có tập trung kiểm tra, giám sát việc thực hiện cơ cấu lại thời hạn trả nợ, miễn, giảm lãi, phí, giữ nguyên nhóm nợ theo Thông tư số 01/2020/TT-NHNN của NHNN Việt Nam nhằm đảm bảo thực hiện đúng chính sách; chủ động thông tin đầy đủ, kịp thời về các giải pháp, chính sách, chương trình, gói sản phẩm hỗ trợ để khách hàng vay vốn biết và phối hợp thực hiện.
Nhật Nguyên
Hà Nội: Nhiều Giải Pháp Hỗ Trợ Doanh Nghiệp Vượt Qua Khó Khăn Do Dịch Covid
Tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp, kịp thời ứng phó với dịch bệnh
Theo Sở Kế hoạch và Đầu tư Hà Nội, do ảnh hưởng của dịch Covid-19, hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu, lưu thông, vận chuyển hàng hóa, hành khách và nhiều lĩnh vực dịch vụ bị ảnh hưởng rõ rệt. Nhiều doanh nghiệp phải thu hẹp sản xuất kinh doanh hoặc tạm ngừng hoạt động. Riêng 3 tháng đầu năm, số doanh nghiệp đăng ký ngừng hoạt động là 4.240 đơn vị (tăng 36% so với cùng kỳ năm 2019). Trong bối cảnh đó, thành phố Hà Nội đã triển khai hàng loạt giải pháp hỗ trợ doanh nghiệp, giữ ổn định kinh tế – xã hội.
Giám đốc Sở Kế hoạch và Đầu tư Hà Nội Nguyễn Mạnh Quyền cho biết, trước diễn biến phức tạp của dịch Covid-19, thành phố Hà Nội đã xây dựng 3 kịch bản điều hành phát triển kinh tế, xã hội, bảo đảm an ninh, quốc phòng ứng phó với dịch Covid-19. Trên cơ sở đó, ban hành và triển khai các giải pháp cấp bách tháo gỡ khó khăn cho sản xuất, kinh doanh, bảo đảm an sinh xã hội.
Cụ thể, thành phố đã bổ sung 1.020 tỷ đồng nguồn vốn ngân sách ủy thác qua chi nhánh Ngân hàng Chính sách xã hội cho vay đối với người nghèo và các đối tượng chính sách nhằm hỗ trợ giải quyết việc làm, phát triển nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới, nâng cao đời sống nông dân. Ngoài ra, UBND thành phố đã xây dựng một số nhóm chính sách hỗ trợ đặc thù của Hà Nội trình HĐND thành phố thông qua để thực hiện, như: Hỗ trợ doanh nghiệp chi phí trả kết quả thực hiện thủ tục đăng ký kinh doanh; hỗ trợ 50% tiền thuê nhà trong 3 tháng đối với sinh viên đang thuê nhà tại các khu nhà ở Pháp Vân – Tứ Hiệp, Mỹ Đình II và công nhân thuê nhà tại khu nhà ở xã Kim Chung…
Đặc biệt, thành phố triển khai 5 nhóm nhiệm vụ, giải pháp cấp bách tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh, bảo đảm an sinh xã hội ứng phó với dịch Covid-19. Đó là, đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, ứng dụng công nghệ thông tin, mở rộng các dịch vụ công trực tuyến mức độ 3, 4 theo hướng hỗ trợ người dân và doanh nghiệp tối đa; hỗ trợ kinh phí cho doanh nghiệp thành lập mới; thực hiện chương trình kết nối ngân hàng – doanh nghiệp (dư nợ cho vay đến nay ước đạt 546 nghìn tỷ đồng); triển khai các gói hỗ trợ cho vay sản xuất, kinh doanh như: Cơ cấu lại thời hạn trả nợ, miễn giảm lãi vay, giữ nguyên nhóm nợ, giảm phí… đối với khách hàng gặp khó khăn do ảnh hưởng của dịch Covid-19.
Trên cơ sở quy hoạch phát triển cụm công nghiệp đến năm 2020, có xét đến năm 2030 (159 cụm với 3.204,31 ha), đến nay đã có 70 cụm đang hoạt động với diện tích là 1.328,64ha, hỗ trợ khoảng 3.600 doanh nghiệp về mặt bằng sản xuất. Các ngành cũng đang thu hút các nhà đầu tư xây dựng 68 cụm công nghiệp, với diện tích là 1.016,72ha, tổng vốn đầu tư khoảng 19.600 tỷ đồng để hỗ trợ về mặt bằng sản xuất tập trung cho các doanh nghiệp trong thời gian tới.
Về nghiên cứu khoa học – công nghệ, thành phố đã có cơ chế hỗ trợ cụ thể, như: Kinh phí thực hiện hợp đồng tư vấn về sở hữu trí tuệ; khai thác và phát triển sản phẩm trí tuệ; tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật, đo lường, chất lượng từ 50 đến 100 triệu đồng/doanh nghiệp; hỗ trợ nghiên cứu, chuyển giao và đổi mới công nghệ cho các đề tài nghiên cứu của doanh nghiệp khoảng 1 tỷ đồng/dự án…
Đối với doanh nghiệp khởi nghiệp và khởi nghiệp sáng tạo, thành phố đã triển khai đề án Hỗ trợ khởi nghiệp trên địa bàn thành phố đến năm 2020 và đề án Hỗ trợ khởi nghiệp sáng tạo trên địa bàn thành phố Hà Nội giai đoạn 2019-2025. Doanh nghiệp thành lập mới được hỗ trợ phí công bố thông tin lần đầu, kinh phí làm dấu và chuyển trả kết quả cho doanh nghiệp, khoảng 420.000 đồng/doanh nghiệp. Mỗi năm thành phố dành khoảng 20 tỷ đồng hỗ trợ kinh phí thực hiện các chương trình đào tạo nguồn nhân lực cho doanh nghiệp nhỏ và vừa; hỗ trợ kinh phí đào tạo kiến thức khởi nghiệp sáng tạo 20 triệu đồng/doanh nghiệp/năm); hỗ trợ kinh phí doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo tham gia các cơ sở ươm tạo, khu làm việc chung…
Trong bối cảnh dịch Covid-19, thành phố Hà Nội đã thúc đẩy phát triển mạnh các ngành có ưu thế, có cơ hội phát triển như: Sản xuất nông nghiệp; sản xuất các sản phẩm phục vụ phòng, chống dịch (thiết bị bảo vệ sức khỏe, khẩu trang; hóa chất vệ sinh, khử trùng; thiết bị y tế); thúc đẩy phát triển mạnh các lĩnh vực dịch vụ: Thông tin, truyền thông; thương mại điện tử; thanh toán online; giáo dục trực tuyến…
Đến nay, các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp, thúc đẩy hoạt động sản xuất kinh doanh của thành phố đang được triển khai quyết liệt, đồng bộ, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội của Thủ đô, ứng phó với dịch Covid-19.
Thúc đẩy đầu tư công, kích hoạt đầu tư tư nhân
Trong bối cảnh dịch Covid-19 diễn biến phức tạp, thành phố Hà Nội xác định đẩy nhanh tiến độ giải ngân vốn đầu tư công là một trong những giải pháp quan trọng để bảo đảm giữ tăng trưởng kinh tế – xã hội.
Tại hội nghị “Đối thoại với doanh nghiệp trong bối cảnh tác động của dịch Covid-19 trên địa bàn thành phố” vừa được tổ chức, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Thành ủy Hà Nội Vương Đình Huệ cho biết, trong giai đoạn 5 năm qua, Hà Nội có hơn 107 nghìn tỷ đồng, chiếm 10% đầu tư công của cả nước. Hà Nội đã quyết tâm tháo gỡ tất cả những vướng mắc để giải ngân gần 40 nghìn tỷ đồng vốn đầu tư công trong năm 2020, từ đó góp phần tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp. Đây là nguồn lực lớn để kích hoạt đầu tư tư nhân và các nhà đầu tư có thể phối hợp với Hà Nội để triển khai các khoản đầu tư công này.
Theo Bí thư Thành ủy, đây là giai đoạn mà thành phố xác định sẽ gỡ mọi vướng mắc, khó khăn cho đầu tư công và đầu tư tư nhân; sẵn sàng lắng nghe để tháo gỡ khó khăn trong công tác giải phóng mặt bằng, điều chỉnh quy hoạch, tháo gỡ các thủ tục để cho các chính sách, dự án của doanh nghiệp đầu tư trên địa bàn thành phố được kích hoạt, thông suốt.
Bên cạnh đó, thành phố Hà Nội tiếp tục triển khai hiệu quả hoạt động hỗ trợ doanh nghiệp theo Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa; Nghị quyết số 35/NQ-CP ngày 16-5-2016 của Chính phủ về hỗ trợ và phát triển doanh nghiệp đến năm 2020; Nghị quyết 02/NQ-CP ngày 1-1-2020 của Chính phủ về tiếp tục thực hiện những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia năm 2020.
Phát Triển Công Nghiệp Hỗ Trợ Ngành Ô Tô: Thực Trạng Và Giải Pháp
Hiện nay, mới chỉ một vài nhà cung cấp trong nước có thể tham gia vào chuỗi cung ứng của các nhà sản xuất, lắp ráp ô tô tại Việt Nam. Nguồn: Internet.
Bài viết đánh giá thực trạng phát triển công nghiệp hỗ trợ ngành ô tô Việt Nam, nhận diện khó khăn, thách thức đặt ra, từ đó đề xuất một số giải pháp để phát triển lĩnh vực này trong thời gian tới.
Thực trạng phát triển công nghiệp hỗ trợ ngành ôtô Việt Nam
Hiện nay, mới chỉ một vài nhà cung cấp trong nước có thể tham gia vào chuỗi cung ứng của các nhà sản xuất, lắp ráp ô tô tại Việt Nam. So với Thái Lan, số lượng nhà cung cấp của Việt Nam trong ngành công nghiệp ô tô vẫn còn rất ít. Thái Lan có gần 700 nhà cung cấp cấp 1, nhưng Việt Nam chỉ có chưa đến 100. Thái Lan có khoảng 1.700 nhà cung cấp cấp 2, 3, trong khi Việt Nam chỉ có chưa đến 150. Phụ tùng linh kiện ô tô hiện đang sản xuất tại Việt Nam chủ yếu là các phụ tùng thâm dụng lao động, công nghệ giản đơn, như kính, săm…
Để phục vụ lắp ráp trong nước, trong giai đoạn 2010 – 2016, Việt Nam đã nhập khẩu các loại phụ tùng, linh kiện khác nhau, với tổng giá trị nhâp khẩu bình quân mỗi năm khoảng 2 tỷ USD, chủ yếu từ Nhật Bản (23%), Trung Quốc (23%), Hàn Quốc (16%) và Thái Lan (16%). Mặc dù chưa phát triển, nhưng xuất khẩu phụ tùng linh kiện ô tô của Việt Nam thời gian gần đây cũng đạt được mức tăng trưởng bình quân 18% giai đoạn 2010-2016. Giá trị xuất khẩu đã tăng từ 0,7 tỷ USD năm 2010 lên 3,5 tỷ USD năm 2016. Phụ tùng xuất khẩu chủ yếu là cụm dây diện (HS8544), chiếm trên 50% và thị trường chủ yếu là Nhật Bản (50%) và Hoa Kỳ (13%). Phụ tùng xuất khẩu lớn thứ hai là linh kiện hộp số (HS870840) chiếm 10% tổng kim ngạch xuất khẩu phụ tùng, linh kiện ô tô, và điểm đến chủ yếu là Nhật Bản, Mexico, và Trung Quốc.
Các chủng loại xe tải, xe khách từ 10 chỗ ngồi trở lên, xe chuyên dụng sản xuất trong nước đã đạt tỷ lệ nội địa hóa cao, đạt mục tiêu đề ra đáp ứng về cơ bản thị trường nội địa (xe tải đến 07 tấn đáp ứng khoảng 70% nhu cầu, với tỷ lệ nội địa hóa trung bình 55%; xe khách từ 10 chỗ ngồi trở lên, xe chuyên dụng đáp ứng khoảng 90% nhu cầu, với tỷ lệ nội địa hóa đạt từ 20% đến 50%). Tuy nhiên, tỷ lệ nội địa hoá đối với xe cá nhân dưới 9 chỗ ngồi còn thấp (mục tiêu đề ra là 40% vào năm 2005, 60% vào năm 2010, tuy nhiên đến nay mới đạt bình quân khoảng 7-10%).
Sau gần 20 xây dựng và phát triển, đến nay, công nghiệp hỗ trợ cho ngành ô tô Việt Nam vẫn còn kém phát triển cả về số lượng, năng lực, số lượng chủng loại và chất lượng sản phẩm… Các linh kiện lắp ráp ôtô tại Việt Nam chủ yếu vẫn phải dựa vào nhập khẩu.
Theo Bộ Công Thương, tính đến nay, cả nước mới chỉ có khoảng 300 doanh nghiệp (DN) công nghiệp hỗ trợ ngành ô tô. Bình quân mỗi DN lắp ráp ô tô tại Việt Nam có 2 nhà sản xuất linh kiện phụ trợ cho mình. Hơn 90% các DN cung cấp linh kiện ô tô tại Việt Nam là các DN có vốn đầu tư nước ngoài. Trong khi, mới chỉ có một số DN trong nước tham gia vào mạng lưới cung ứng cho sản xuất, lắp ráp ô tô. Trong khi để làm ra một chiếc ô tô, phải cần từ 30.000 – 40.000 chi tiết, linh kiện.
Thực tế trên cho thấy, năng lực sản xuất của ngành công nghiệp hỗ trợ ô tô Việt Nam còn thấp, thể hiện rõ qua 3 yếu tố chính đó là vốn, công nghệ, và kinh nghiệm. Kết quả là chưa đáp ứng được yêu cầu chất lượng sản phẩm, giá và tiến độ giao hàng. Hơn nữa, Việt Nam chưa có đầy đủ hạ tầng cần thiết để phát triển công nghiệp hỗ trợ ô tô, từ đó, gây trở ngại cho các nhà sản xuất sản phẩm hỗ trợ toàn cầu muốn đầu tư hoặc liên kết đầu tư. Các yếu tố khác bất lợi cho công nghiệp hỗ trợ ô tô Việt Nam là tình trạng thiếu nguyên liệu, công nghệ khuôn mẫu kém phát triển…
Tại sao công nghiệp hỗ trợ ngành ô tô Việt Nam chưa phát triển?
Theo đánh giá của nhiều chuyên gia, có nhiều nguyên nhân dẫn đến công nghiệp hỗ trợ ngành ô tô ở Việt Nam chưa phát triển tương xứng với tiềm năng và kỳ vọng.
Việt Nam chưa có các DN đứng đầu chuỗi sản xuất tầm cỡ khu vực và quốc tế đóng vai trò dẫn dắt phát triển và lan tỏa trong ngành công nghiệp. Dung lượng thị trường hạn chế chưa đảm bảo quy mô công suất sản xuất kinh tế đối với sản phẩm. Thị trường nội địa nhỏ lại bị phân tán bởi nhiều model khác nhau. Bên cạnh đó, các DN công nghiệp hỗ trợ chưa đủ khả năng tiếp cận các chuỗi sản xuất ô tô ở nước ngoài. Hiện tại, lượng tiêu thụ ô tô tại Việt Nam trong những năm gần đây khoảng 300.000 xe/năm, con số này lại phân bổ vào rất nhiều dòng xe khác nhau (theo thống kê của Bộ Công Thương, hiện nay có hơn 100 loại xe mà các DN đang sản xuất và lắp ráp tại Việt Nam). Trong khi về lý thuyết mỗi mẫu xe muốn gia tăng tỷ lệ nội địa hoá phải đạt sản lượng tối thiểu là 50.000 xe/năm. Tập quán kinh doanh của các DN toàn cầu thường sử dụng các DN đã từng cung ứng sản phẩm công nghiệp hỗ trợ trong chuỗi sản xuất của họ hoặc các DN cùng quốc tịch, ít tạo điều kiện cho các DN Việt Nam tham gia chuỗi giá trị của các tập đoàn đa quốc gia.
Nguyên nhân khách quan
Xuất phát điểm các DN nhỏ và vừa Việt Nam thấp, chủ yếu tập trung vào lĩnh vực dịch vụ, chưa đảm nhận tốt vai trò của hệ thống này, đặc biệt trong công nghiệp hỗ trợ ngành ô tô là ngành thâm dụng vốn và kỹ thuật. Phần lớn các DN sản xuất linh kiện phụ tùng ô tô ở Việt Nam chưa đáp ứng được yêu cầu của chuỗi sản xuất toàn cầu và khách hàng. Cùng với đó, nguồn lực đầu tư và hỗ trợ của Nhà nước cho các DN công nghiệp hỗ trợ nói chung và công nghiệp hỗ trợ ngành ô tô nói riêng chưa đủ mạnh và hiệu quả, chưa tương xứng với quy mô và vai trò của ngành này.
Bên cạnh đó, các chính sách phát triển công nghiệp hỗ trợ còn chậm được ban hành và chưa đồng bộ, nhất quán mặc dù quan điểm của Đảng và Nhà nước đã xác định vai trò, vị trí của công nghiệp hỗ trợ trong phát triển kinh tế. Quản lý nhà nước về công nghiệp hỗ trợ còn yếu, công nghiệp hỗ trợ chưa được xác định trong hệ thống thống kê quốc gia; chưa có tiêu chuẩn quốc gia về công nghiệp hỗ trợ, chưa có cơ sở dữ liệu về công nghiệp hỗ trợ. Trong khi đó, các chính sách thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài còn chưa tạo điều kiện thuận lợi cho DN công nghiệp hỗ trợ trong nước phát triển, tham gia vào chuỗi sản xuất toàn cầu của các tập đoàn đa quốc gia. Mối liên kết giữa DN công nghiệp hỗ trợ với các DN sản xuất lắp ráp ô tô còn lỏng lẻo, đặc biệt là với các DN đầu tư trực tiếp nước ngoài. Hơn nữa, chất lượng nguồn nhân lực thấp. Công nghiệp hỗ trợ ngành ô tô yêu cầu nguồn nhân lực chất lượng cao. Trong khi đó, nội dung đào tạo tại các trường kỹ thuật lạc hậu, không gắn với thực tiễn sản xuất, cùng với sự mất cân đối trong phát triển kinh tế tạo ra tâm lý lao động xã hội chỉ quan tâm đến các ngành thương mại và dịch vụ khiến nguồn nhân lực cho phát triển công nghiệp và công nghiệp hỗ trợ thiếu cả về lượng và chất.
Giải pháp thúc đẩy phát triển công nghiệp hỗ trợ ngành ô tô
Để thúc đẩy các DN công nghiệp hỗ trợ ngành ô tô phát triển vững chắc, cần thực hiện đồng bộ các nhóm giải pháp sau:
Về phát triển thị trường ô tô trong nước
Thị trường nội địa cho các sản phẩm công nghiệp hỗ trợ ô tô của Việt Nam chủ yếu là các công ty lắp ráp ô tô, do vậy phát triển thị trường ô tô trong nước là một trong những giải pháp quan trọng. Thị trường ô tô Việt Nam có sự phát triển mạnh, để tăng cường xu hướng này, tạo sự tăng trưởng lành mạnh và vững chắc cần có các chính sách làm nền tảng.
Thứ nhất, cải thiện cơ sở hạ tầng. Việc cải thiện cơ sở hạ tầng bao gồm việc mở rộng hệ thống đường giao thông, xây dựng các điểm đỗ xe, quy hoạch lại giao thông nhất là ở các thành phố lớn.
Thứ hai, có chính sách nhất quán, rõ ràng đối với thị trường ô tô. Hiện nay, mặc dù có nhiều cơ quan nhà nước cùng tham gia hoạch định chính sách cho ngành ô tô Việt Nam, nhưng các cơ quan này thường trong tình trạng mâu thuẫn về phương hướng phát triển. Chính phủ cần thể hiện quyết tâm phát triển thị trường để phát triển công nghiệp ô tô, theo đó các cơ quan nhà nước phải thực hiện theo đúng chủ trương đó. Sự mâu thuẫn giữa các cơ quan nhà nước ảnh hưởng tiêu cực đến ngành ô tô, các chính sách thường mang tính cục bộ dựa trên quan điểm của cơ quan ban hành. Cần có một cơ quan thống nhất để phát triển ngành ô tô.
Thứ ba, điều chỉnh các chính sách về thuế và phí để giúp các DN giảm chi phí, dẫn đến giảm giá xe, người dân có nhiều cơ hội để sở hữu ô tô. Song song với chính sách mở rộng phát triển cần có những chính sách bảo vệ thị trường trước sự phát triển nhanh chóng của xe nhập khẩu. Cần kiểm soát chặt chẽ hơn đối với việc quản lý xe nhập khẩu, nhất là hạn chế gian lận thương mại. Tăng cường nghiệp vụ cho cơ quan hải quan trong việc định giá xe ô tô nhập khẩu. Đối với xe cũ nhập khẩu xây dựng những quy định, tiêu chuẩn kỹ thuật, đồng thời rà soát lại biểu thuế nhập khẩu xe cũ…
Thị trường ô tô trong nước phát triển tạo lực cầu nội địa ổn định cho ngành công nghiệp hỗ trợ. Các giải pháp đối với ngành công nghiệp hỗ trợ ô tô cần hướng vào việc đáp ứng các nhu cầu nội địa của các công ty lắp ráp trong nước. Từ đó, tạo cơ sở phát triển ổn định và mở rộng sản xuất tiến tới xuất khẩu các sản phẩm công nghiệp hỗ trợ. Cần xây dựng và hỗ trợ thành lập các trung tâm tiếp thị, quảng bá sản phẩm công nghiệp hỗ trợ ô tô.
Đến nay, cả nước chỉ có khoảng 300 doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ ngành ô tô. Bình quân mỗi doanh nghiệp lắp ráp ô tô tại Việt Nam có 2 nhà sản xuất linh kiện phụ trợ cho mình. Hơn 90% các doanh nghiệp cung cấp linh kiện ô tô tại Việt Nam là các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
Đây cũng là nơi cung cấp các thông tin chi tiết về năng lực, trình độ, khả năng đáp ứng của các nhà cung cấp, qua đó các công ty lắp ráp trong nước, hoặc các công ty sản xuất linh kiện hàng đầu có thể tìm kiếm đối tác để đầu tư sản xuất, phát triển sản phẩm tại Việt Nam. Các trung tâm này sẽ đẩy mạnh tiếp thị ngành công nghiệp hỗ trợ ô tô Việt Nam ra nước ngoài, góp phần làm tăng khả năng xuất khẩu trực tiếp các sản phẩm công nghiệp hỗ trợ cũng như tìm kiếm cơ hội hợp tác với các công ty sản xuất linh kiện hàng đầu thế giới. Các công ty Việt Nam có thể là nhà cung cấp cho các công ty này, hoặc có thể trở thành đối tác tham gia vào chuỗi cung toàn cầu cho ngành ô tô.
Khuyến khích các công ty nước ngoài đầu tư sản xuất các sản phẩm có hàm lượng công nghệ cao tại Việt Nam.
Bên cạnh đó, hỗ trợ việc nghiên cứu ứng dụng sản phẩm, thành lập các trung tâm nghiên cứu ứng dụng sản phẩm công nghiệp hỗ trợ ô tô. Các trung tâm này có thể do nhà nước đầu tư có sự liên kết chặt chẽ với các công ty lắp ráp và các nhà cung cấp hàng đầu thế giới, hoặc do các công ty đầu tư với sự trợ giúp của Chính phủ. Kinh nghiệm của Thái Lan trong việc thành lập các trung tâm nghiên cứu từ nguồn vốn ngân sách hoặc hỗ trợ DN dựa trên chi phí đầu tư vào nghiên cứu, phát triển có thể hữu ích cho Việt Nam. Xây dựng hệ thống các tiêu chuẩn chất lượng sản phẩm theo tiêu chuẩn quốc tế làm căn cứ cho việc định hướng phát triển. Việc này một mặt nhằm tăng khả năng công nghệ cho ngành công nghiệp hỗ trợ, tạo tiền đề để xúc tiến xuất khẩu, còn nhằm ngăn chặn nguy cơ xuất hiện các sản phẩm kém chất lượng ảnh hưởng tới sự phát triển của công nghiệp hỗ trợ.
Về thu hút đầu tư, công nghệ
– Thành lập các khu, các cụm công nghiệp sản xuất linh kiện ô tô, phát triển DN vừa và nhỏ tham gia sản xuất các sản phẩm hỗ trợ hoặc cung cấp nguyên phụ liệu cho việc sản xuất linh phụ kiện. Các công ty lắp ráp ô tô Việt Nam thường tập trung ở ngoại vi Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh, các cụm công nghiệp hỗ trợ ô tô cũng nên được thành lập gần các địa điểm này, làm cơ sở hình thành tổ hợp ô tô, theo đó các công ty lắp ráp ở trung tâm, xung quanh là các công ty cung cấp các sản phẩm công nghiệp hỗ trợ. Điều này giúp các công ty có thể dễ dàng tiếp nhận những trợ giúp của công ty lắp ráp, tăng cường sự hợp tác giữa các công ty trong tổ hợp. Bên cạnh đó, mở rộng hạ tầng giao thông từ các cụm công nghiệp nối với sân bay cảng biển, tạo điều kiện thuận lợi cho việc xuất khẩu sản phẩm công nghiệp hỗ trợ…
– Ban hành các chính sách khuyến khích đầu tư vào ngành công nghiệp hỗ trợ ô tô. Hơn nữa, các chính sách này còn phải đảm bảo sự khuyến khích đầu tư với quy mô lớn, với mức độ ưu đãi sẽ dựa trên quy mô của dự án đầu tư. Điều này sẽ giúp cải thiện tình trạng thiếu vốn trong ngành công nghiệp hỗ trợ ô tô, đồng thời tăng khả năng cạnh tranh nhờ lợi thế quy mô. Để khắc phục tình trạng thiếu vốn đầu tư trong ngành công nghiệp hỗ trợ, Chính phủ có thể tạo điều kiện cho các DN tiếp cận với nguồn vốn vay ưu đãi cho đầu tư phát triển. Các nguồn vốn này có thể trực tiếp từ Ngân hàng Phát triển Việt Nam hoặc từ các ngân hàng thương mại.
– Tạo điều kiện thuận lợi cho các DN trong và ngoài nước có các dự án chuyển giao công nghệ và khuyến khích chuyển giao công nghệ tiên tiến vào Việt Nam. Hỗ trợ chi phí mua bản quyền cho các DN trong nước để phát triển công nghiệp hỗ trợ ô tô. Khuyến khích các công ty trong và ngoài nước thiết lập các quy trình quản lý chất lượng, bảo vệ môi trường theo các tiêu chuẩn quốc tế.
– Củng cố vai trò của hiệp hội các nhà sản xuất ô tô, thành lập hiệp hội các nhà sản xuất linh phụ kiện ô tô. Các hiệp hội sẽ đóng vai trò là đầu mối để thông tin với Chính phủ hoặc với các hiệp hội khác trong việc phát triển ngành. Hiệp hội cũng là nơi cung cấp các thông tin để kết nối các DN trong việc tiêu thụ sản phẩm, hợp tác đầu tư, chuyển giao công nghệ.
– Phát triển nguồn nhân lực cho công nghiệp hỗ trợ ô tô. Để thực hiện điều này, cần mở rộng các cơ sở dạy nghề cơ khí ô tô hiện có và nâng cao chất lượng đào tạo nghề nhất là ở khía cạnh gắn với thực tiễn. Việc nâng cao chất lượng đào tạo nghề có thể được tiến hành bằng sự liên kết giữa các cơ sở dạy nghề với các công ty trong ngành công nghiệp hỗ trợ. Đồng thời, có chính sách khuyến khích sự hợp tác này cũng như khuyến khích các công ty tự phát triển các chương trình đào tạo nâng cao chất lượng đội ngũ lao động.
Hoàng Văn Châu (2010), Công nghiệp hỗ trợ: Kinh nghiệm của các nước và giải pháp cho Việt Nam, NXB Văn hóa truyền thông;
Đại học Ngoại thương và Sở Công Thương Hà Nội (2010), Phát triển công nghiệp hỗ trợ phục vụ các doanh nghiệp FDI tại Hà Nội, Kỷ yếu hội thảo, tháng 7/2010;
Ohno, Kenichi (2007), “Xây dựng công nghiệp hỗ trợ tại Việt Nam”, NXB Lao động;
Ohno, Kenichi (2009), “Tránh bẫy thu nhập trung bình: Đổi mới hoạch định chính sách công nghiệp ở Việt Nam”, Kỉ yếu Hội thảo “Phát triển công nghiệp hỗ trợ: Kinh nghiệm của Nhật Bản và một số nước Châu Á” do Trường Đại học Ngoại thương và Trung tâm hợp tác nguồn nhân lực Việt Nam – Nhật Bản VJCC tổ chức vào tháng 10/2009 tại Hà Nội;
Ohno, Kenichi (2005), Designing a Comprehensive and Realistic Industrial Strategy, in Kenichi Ohno and Nguyen Van Thuong (eds.) Improving Industrial Policy Formulation. The Publishing House of Political Theory, pp. 1-28;
Thailand Board of Investment, ASEAN supporting industry database, www.asidnet.org.
Nhiều Giải Pháp Hỗ Trợ Doanh Nghiệp Ngành Công Thương Của Thành Phố Hồ Chí Minh
Theo Sở Công thương Thành phố Hồ Chí Minh, chỉ số sản xuất công nghiệp (SXCN) của thành phố trong tháng 5 tăng 5,5% so với tháng trước và tăng 4,4% so với tháng cùng kỳ năm 2012. Trong đó, công nghiệp chế biến tăng 5,5% so với tháng trước và tăng 4,4% so với tháng cùng kỳ. Lũy kế 5 tháng đầu năm nay, SXCN tăng 4,6% so cùng kỳ năm 2012. Trong 26 ngành sản xuất, có 22 ngành sản xuất có sản lượng tăng, trong đó một số ngành có mức tăng cao hơn mức tăng chung toàn ngành như: chế biến thực phẩm, đồ uống, da giày… Có 4 ngành giảm là khai khoáng khác, thuốc lá, ô tô và sản phẩm công nghiệp khác. Riêng chỉ số tồn kho toàn ngành đến thời điểm 1/5 giảm 0,26% so với thời điểm 1/4.
Sản lượng sản xuất công nghiệp của Thành phố trong tháng 5 tiếp tục đạt cao hơn các tháng đầu năm 2013. Chỉ tính riêng tháng 5, mức tăng sản lượng đạt cao hơn tốc độ lũy kế 4 tháng đầu năm. Do đó, tốc độ tăng trưởng lũy kế 5 tháng vẫn giữ được xu hướng tháng sau cao hơn tháng trước. Cụ thể, 3 tháng đầu năm SXCN tăng 3,6%, 4 tháng tăng 4,0%, 5 tháng tăng 4,6%.
Đây là tháng thứ 5 liên tiếp, ngành công thương TPHCM duy trì được đà tăng trưởng, bất chấp tình hình kinh tế đối mặt với nhiều khó khăn. Sở Công thương thành phố nhận định nguyên nhân chính kích thích tăng trưởng là nhờ Chính phủ, các bộ ngành và thành phố triển khai nhiều giải pháp hỗ trợ tháo gỡ khó khăn, thúc đẩy sản xuất kinh doanh cho doanh nghiệp, song song với sự nỗ lực, cố gắng của doanh nghiệp, từ đó SXCN trên địa bàn đang phục hồi dần đà tăng trưởng, quy mô sản xuất tiếp tục được mở rộng.
Tính đến thời điểm đầu tháng 5, tổng dư nợ tín dụng trên địa bàn đạt 873,4 ngàn tỷ đồng, tăng 1,4% so tháng trước và tăng 15,1% so cùng kỳ. Qua so sánh cho thấy, tín dụng ở các lĩnh vực sản xuất kinh doanh đã có dấu hiệu phục hồi. Lãi suất cho vay giảm góp phần làm giảm chi phí đầu vào cho doanh nghiệp.
Đáng chú ý, dù tình hình kinh tế còn nhiều khó khăn nhưng một số ngành, lĩnh vực vẫn tạo ra những đột phá. Cụ thể, riêng ngành dệt may, trong 5 tháng qua tăng 5,4% so cùng kỳ năm 2012. Nhiều doanh nghiệp dệt may đã có đơn hàng đến hết quý 2-2013. Chưa kể, nhiều doanh nghiệp tận dụng kinh nghiệm sản xuất hàng xuất khẩu đã mở rộng sản xuất hàng nội địa bằng cách chú trọng thay đổi quy cách, mẫu mã sản phẩm nhưng chất lượng không thay đổi so với hàng xuất khẩu. Hầu hết doanh nghiệp đã tăng cường khai thác thị trường nội địa để cung cấp các sản phẩm chất lượng cao, giá cả hợp lý và cũng là để duy trì sản xuất liên tục, tạo việc làm ổn định cho người lao động. Đối với lĩnh vực sản xuất thực phẩm, đồ uống, các doanh nghiệp đã chủ động đẩy mạnh sản xuất và dự trữ hàng để đáp ứng nhu cầu thị trường. Lũy kế 5 tháng qua, sản xuất thực phẩm tăng 10,1% và đồ uống tăng 12,0% so cùng kỳ. Hay ngành sản xuất sản phẩm điện tử, tháng 5 tiếp tục tăng 1,8% so với tháng 4 và lũy kế 5 tháng, sản xuất sản phẩm điện tử tăng 2,3% so cùng kỳ…
Riêng lĩnh vực thương mại, ước tính 6 tháng đầu năm, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ đạt 287.910 tỷ đồng, tăng 10,3% so với cùng kỳ năm trước. Quy mô tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ thành phố tháng 5 cao hơn tháng 4 và các tháng trước; tốc độ tăng trưởng tháng 5 cao hơn tháng 4 và lũy kế 4 tháng đầu năm. Loại trừ yếu tố biến động giá, lượng hàng hóa và dịch vụ tiêu thụ có xu hướng tăng cao dần, cho thấy sức mua của người dân dần được cải thiện.
Để tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh, hỗ trợ thị trường, giải quyết nợ xấu theo tinh thần tại Nghị quyết số 02/NQ-CP ngày 07/1/2013 của Chính phủ, trong thời gian tới ngành công thương sẽ tiếp tục tập trung triển khai chương trình tiếp xúc, giới thiệu cơ chế, chính sách và tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp; phối hợp các sở, ban ngành, Hiệp hội Doanh nghiệp thành phố, Ủy ban nhân dân các quận, huyện, Trung tâm Xúc tiến thương mại và đầu tư (ITPC), Quỹ bảo lãnh tín dụng, các tổ chức tín dụng… nắm bắt khó khăn, vướng mắc của doanh nghiệp; giới thiệu các cơ chế, chính sách của Nhà nước; có biện pháp hỗ trợ doanh nghiệp nâng cao năng lực cạnh tranh, quảng bá thương hiệu, mở rộng thị trường, liên kết hợp tác đầu tư.
Bên cạnh đó, Sở Công thương sẽ triển khai thực hiện chương trình “Kênh thông tin nắm bắt tình hình khó khăn của doanh nghiệp trên địa bàn thành phố” nhằm tạo thêm kênh thông tin phân tích, đánh giá một cách khách quan về những khó khăn, vướng mắc và nhu cầu hỗ trợ của doanh nghiệp địa bàn. Từ đó, tham mưu cho UBND thành phố kịp thời có các biện pháp chỉ đạo điều hành, tháo gỡ khó khăn, hỗ trợ các doanh nghiệp ổn định và phát triển sản xuất kinh doanh. Đồng thời, tiếp tục phát triển hệ thống kênh phân phối, nhất là kênh phân phối hàng bình ổn thị trường, tập trung phát triển các điểm bán tại các quận, huyện vùng ven, các khu dân cư ngoại thành, khu chế xuất, khu công nghiệp và chợ truyền thống (Bích Thủy).
Bạn đang đọc nội dung bài viết Ngành Ngân Hàng Triển Khai Giải Pháp Hỗ Trợ Doanh Nghiệp Bị Ảnh Hưởng Dịch Covid trên website Photomarathonasia.com. Hy vọng một phần nào đó những thông tin mà chúng tôi đã cung cấp là rất hữu ích với bạn. Nếu nội dung bài viết hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!