Cập nhật nội dung chi tiết về Nâng Cao Chất Lượng Dịch Vụ Vận Tải mới nhất trên website Photomarathonasia.com. Hy vọng thông tin trong bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu ngoài mong đợi của bạn, chúng tôi sẽ làm việc thường xuyên để cập nhật nội dung mới nhằm giúp bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.
Nghị quyết số 02-NQ/TU ngày 5/2/2016 của Tỉnh ủy về phát triển dịch vụ tỉnh Quảng Ninh giai đoạn 2016-2020 đặt mục tiêu, tỷ trọng đóng góp của ngành dịch vụ vận tải trong GRDP chiếm từ 6-8%. Tuy nhiên, đến năm 2020, con số này mới chỉ đạt 4,9%. Vì vậy, ngành GTVT đang tích cực triển khai nhiều giải pháp, xây dựng các kế hoạch cụ thể để nâng cao chất lượng dịch vụ vận tải, nâng tỷ trọng trong GRDP.
2 tuyến cao tốc Hạ Long – Hải Phòng và Hạ Long – Vân Đồn kết nối vùng, tạo động lực phát triển kinh tế cho Quảng Ninh. Ảnh: Đỗ Phương.
Quảng Ninh hiện đã phát triển đầy đủ 5 loại hình dịch vụ vận tải, gồm: Đường bộ, đường thủy nội địa, đường biển, đường sắt, hàng không. Trong đó, vận tải đường bộ là tuyến huyết mạch, được đầu tư hạ tầng đồng bộ, đột phá trong suốt 5 năm trở lại đây với 135 tuyến vận tải hành khách cố định liên tỉnh; 16 tuyến vận tải hành khách nội tỉnh; 11 tuyến xe buýt nội tỉnh; gần 2.000 phương tiện vận tải khách bằng taxi của 37 doanh nghiệp. Ngoài ra, còn có thêm 14 tuyến với 60 phương tiện của 8 doanh nghiệp vận tải hành khách bằng xe điện, chủ yếu cung cấp dịch vụ, hoạt động trong các điểm tham quan du lịch.
Trước tiềm năng phát triển của vận tải đường bộ và mục tiêu nâng cao chất lượng dịch vụ, Sở GTVT đã phối hợp chặt chẽ với Hiệp hội Vận tải ôtô, triển khai các biện pháp khuyến khích, nâng cao chất lượng đội ngũ phương tiện, đa dạng hóa các loại hình vận tải, đáp ứng nhu cầu của nhân dân và du khách. Song song với đó là triển khai cơ chế giám sát thông qua việc siết chặt công tác quản lý, đảm bảo các yêu cầu về chất lượng, an toàn kỹ thuật và bảo vệ môi trường, quyền lợi của hành khách…
Cùng với đó, để người dân, du khách đi lại an toàn, thuận lợi, hạn chế tối đa các vụ tai nạn giao thông, từ nguồn vốn sự nghiệp giao thông, Sở GTVT đã làm tốt vai trò của mình trong quản lý và bảo trì các tuyến đường, phát hiện những tồn tại trong hạ tầng giao thông, kịp thời thực hiện bảo trì, sửa chữa, thay thế… nhất là các điểm gây mất an toàn giao thông.
Bốc xếp hàng hóa tại Công ty TNHH Cảng Container Quốc tế Cái Lân.
Cùng với dịch vụ vận tải đường bộ, dịch vụ đường biển là một lợi thế chiến lược của kinh tế Quảng Ninh. Hiện đường biển của tỉnh đang đảm nhận khoảng 8,3% khối lượng vận chuyển hàng hóa và 11,3% khối lượng vận chuyển hành khách, chiếm 40,5% tổng lượng hàng hóa thông qua các cảng biển khu vực phía Bắc.
Đến nay, Quảng Ninh có 11 dịch vụ cảng biển cơ bản, thuộc 3 nhóm: Dịch vụ công, dịch vụ kinh doanh trực tiếp, dịch vụ kinh doanh gián tiếp. Doanh thu dịch vụ cảng biển giai đoạn 2016-2020 đạt khoảng 50.000 tỷ đồng. Tuy nhiên, do thương hiệu cảng biển Quảng Ninh chưa được khách hàng trong nước và trên thế giới biết đến, dẫn đến việc quan tâm phát triển và nâng cao chất lượng dịch vụ cảng biển trong thời gian qua còn nhiều bất cập, chưa tương xứng với tiềm năng, lợi thế của tỉnh.
Bởi vậy, để phát huy tối đa giá trị của dịch vụ cảng biển, Tỉnh ủy đã ban hành Chương trình hành động số 27-CTr/TU ngày 27/3/2019 về chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn năm 2045; Nghị quyết số 15-NQ/TU ngày 23/4/2019 về phát triển cảng biển và dịch vụ cảng biển trên địa bàn tỉnh đến năm 2025 và định hướng đến năm 2030. Cùng với đó, tập trung phát triển các dịch vụ logistics, đại lý tàu biển, vận tải đường biển, môi giới hàng hải, cung ứng tàu biển, kiểm đếm hàng hóa…
Sở GTVT cũng đã xây dựng cơ chế giám sát chất lượng hoạt động dịch vụ cảng biển, khuyến khích các doanh nghiệp cùng ngành, nghề tham gia vào các hiệp hội để hỗ trợ, giúp nhau phát triển, hướng tới tổ chức các chương trình xúc tiến, thu hút nguồn hàng bằng những lợi thế cạnh tranh. Đồng thời, ưu tiên đẩy nhanh tiến độ đầu tư sớm đưa vào sử dụng các dự án, công trình hạ tầng kết nối quan trọng, như đường cao tốc, sân bay và các cảng biển mới.
Thu hút các nhà đầu tư chiến lược, có tiềm lực, thương hiệu mạnh đầu tư quy mô lớn, đồng bộ, hiện đại để xây dựng các cảng biển quan trọng như Nam Tiền Phong, Con Ong – Hòn Nét, Hải Hà, Vạn Ninh; ưu tiên đầu tư phát triển dịch vụ cảng biển, trọng tâm là hình thành một số khu trung tâm logistics tại Quảng Yên, Móng Cái…
Cảng hàng không quốc tế Vân Đồn được đầu tư hiện đại, kết nối vận tải giữa các địa phương trong nước và quốc tế.
Cùng với dịch vụ vận tải đường bộ, đường biển, trên địa bàn tỉnh cũng đang ngày càng phát triển vận tải đường thủy nội địa và đường hàng không. Sở GTVT đã định hướng nâng cao chất lượng dịch vụ vận tải kết hợp siết chặt các quy định về vận chuyển hành khách và hàng hóa, tăng cường đảm bảo an toàn giao thông; quản lý chặt chẽ hoạt động tàu tham quan du lịch vịnh Hạ Long và các tuyến biển đảo được tăng cường; tổ chức niêm yết giá vé trên các tuyến, kiểm soát chặt chẽ giá cước vận tải trên địa bàn đảm bảo quyền lợi của người dân và doanh nghiệp. Đồng thời, tập huấn cho người điều hành vận tải của các doanh nghiệp kinh doanh vận tải, thường xuyên kiểm tra xử lý nghiêm các vi phạm về kinh doanh vận tải…
Theo ông Bùi Hồng Minh, Phó Giám đốc Sở GTVT, định hướng đến năm 2025, tỷ trọng đóng góp của ngành dịch vụ vận tải trong GRDP là 6-8%. Bên cạnh việc đầu tư xây dựng, hoàn thiện hạ tầng giao thông, ngành GTVT sẽ tích cực phối hợp với các sở, ngành khác để khai thác tối đa hiệu quả của các dịch vụ vận tải sẵn có, nhất là dịch vụ cảng biển và dịch vụ vận tải hàng không.
Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý vận tải, nhằm phát triển hài hòa các phương thức vận tải, giảm giá thành, nâng cao chất lượng dịch vụ vận tải, phục vụ tốt nhu cầu đi lại của nhân dân, hành khách. Đồng thời, đổi mới, áp dụng hiệu quả những cách làm hay để tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức, công dân và doanh nghiệp trong quá trình giải quyết các thủ tục hành chính.
Hoàng Quỳnh
Giải Pháp Nâng Cao Chất Lượng Dịch Vụ Vận Tải Hkcc Bằng Xe Buýt Tại Hà Nội
Tóm tắt:Từ khóa: Xe buýt, VTHKCC, chất lượng dịch vụ vận tải. Sau khi nêu sự cần thiết nghiên cứu, đánh giá chất lượng dịch vụ vận tải hành khách công cộng (VTHKCC) bằng xe buýt thời gian qua tại TP. Hà Nội, bài báo đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng dịch vụ VTHKCC bằng xe buýt trong thời gian tới tại Thủ đô Hà Nội. Keywords: Bus, public passenger transport, quality of transport services. 1. Sự cần thiết nghiên cứu 2. Đánh giá chất lượng dịch vụ VTHKCC bằng xe buýt
Abstract: After stating the need to study, evaluate the service quality of public passenger transport by the bus the last time in the Hanoicity, the paper proposes a number of measures to improve quality of bus service in the near future in the Hanoi capital.
Chất lượng VTHKCC có vai trò quan trọng trong GTVT đô thị. Thể hiện trình độ phát triển kinh tế – xã hội của đô thị, sự phát triển, hội nhập quốc tế về GTVT, nâng cao trình độ dân trí, văn minh GTVT đô thị… Các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực VTHKCC luôn phải quan tâm đến chất lượng dịch vụ VTHKCC bằng xe buýt nhằm giữ vững, chiếm lĩnh, mở rộng thị trường, nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh dịch vụ nói chung, dịch vụ VTHKCC bằng xe buýt nói riêng. Đến nay đã có một số nghiên cứu về chất lượng, nâng cao chất lượng dịch vụ VTHKCC bằng xe buýt nhưng bối cảnh quốc tế, trong nước liên tục thay đổi đòi hỏi các giải pháp đề xuất phải phù hợp với tình hình phát triển kinh tế – xã hội, có tính khả thi, phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh phát triển mới của Hà Nội nói riêng, các đô thị nói chung.
Theo số liệu của Sở GTVT Hà Nội, mạng lưới tuyến VTHKCC bằng xe buýt của Hà Nội đến nay có 91 tuyến gồm 72 tuyến buýt có trợ giá (trong đó có 67 tuyến buýt đặt hàng, 5 tuyến đấu thầu), 11 tuyến buýt không trợ giá và 8 tuyến buýt kế cận bao phủ khắp địa bàn 30 quận, huyện, thị xã của Thành phố và kết nối với các địa phương lân cận như Bắc Ninh, Bắc Giang, Hà Nam, Hải Dương, Hưng Yên. Kết quả thực hiện trên 72 tuyến trợ giá, vận hành 3.964.779 lượt, với 91.587.121km, vận chuyển được 489,6 triệu lượt hành khách, tăng 6,7% so với năm 2013, tăng 2% chỉ tiêu kế hoạch năm 2014; doanh thu đạt 872,9 tỷ đồng (tăng 20% so với năm 2013), tăng 0,5% chỉ tiêu kế hoạch năm 2014, trợ giá giảm 4% so với năm 2013.
Bên cạnh kết quả đạt được, chất lượng VTHKCC còn có hạn chế, bất cập sau:
Về hạ tầng phục vụ xe buýt: Hiện đang gặp nhiều khó khăn trong cải thiện, phát triển hạ tầng do hạn chế về quỹ đất và quy hoạch phát triển chưa đồng bộ. Trên mạng lưới rất khó tổ chức giao thông, tách làn hỗn hợp, tạo làn riêng cho xe buýt, không có quỹ đất để hình thành những điểm trung chuyển liên tuyến, nội mạng, điểm đầu cuối ổn định. Tại các khu đô thị mới, các tuyến đường mới đầu tư xây dựng nhưng ngay từ khâu chuẩn bị dự án chưa dành quỹ đất cho hoạt động xe buýt. Hạ tầng trên tuyến thường xuyên bị chiếm dụng, xâm phạm.
Về nguồn nhân lực: Còn thiếu so với yêu cầu nên ảnh hưởng nhất định đến kết quả thực hiện, trong đó nhân lực chất lượng cao và lực lượng kiểm tra, giám sát rất cần được quan tâm. Công tác quản lý và đạo tạo lái xe đang phân tán, chất lượng lái xe, nhân viên bán vé không đồng đều; đội ngũ lái xe, nhân viên phục vụ còn có sai phạm, chưa hoàn thành tốt nhiệm vụ; hiện tượng vi phạm pháp luật giao thông, hành vi ứng xử thiếu văn minh lịch sự.
Về phương tiện: Cơ chế chính sách về đầu tư phương tiện, cách tính toán và xây dựng đơn giá hiện chỉ phù hợp cho việc đầu tư những xe buýt ở mức độ trung bình, chưa khuyến khích doanh nghiệp đầu tư những xe chất lượng cao, thân thiện với môi trường, ít ô nhiễm khí thải, tiếng ồn nhằm nâng cao chất lượng phương tiện, qua đó nâng cao chất lượng dịch vụ.
Lực lượng kiểm tra giám sát: Quá trình hoạt động cũng gặp nhiều khó khăn do còn thiếu người, thiếu trang thiết bị phục vụ (xe ô tô) và các cơ chế, chế tài đảm bảo cho hoạt động nghiệp vụ (ví dụ quy chế xử lý vi phạm…).
3. C3.1. Giải pháp hoàn thiện cơ sở hạ tầng giao thông ác giải pháp nâng cao chất lượng dịch vụ VTHKCC bằng xe buýt
Về các yếu tố khác: Mạng lưới tuyến chưa phủ khắp, chưa được phân bố đồng đều; thời gian chuyến đi của hành khách có xu hướng tăng, an ninh trật tự trên các tuyến chưa bảo đảm; phục vụ các đối tượng khách đặc biệt như người khuyết tật chưa được quan tâm thỏa đáng.
3.2. Giải pháp về con người
Nguyên nhân của những hạn chế, yếu kém: Quy hoạch cũ khó cải tạo, hạ tầng giao thông chưa phát triển, chưa theo kịp tốc độ phát triển đô thị; thiếu quỹ đất dành cho giao thông động, giao thông tĩnh, nhất là điểm trung chuyển; chưa có loại phương tiện khối lớn như đường sắt đô thị; quản lý nhà nước, quản lý doanh nghiệp còn có bất cập, chưa theo kịp tình hình.
Cần có cơ cấu đầu tư thích hợp vào các điểm đầu, điểm cuối, điểm dừng đỗ dọc tuyến nhằm đảm bảo an toàn cho xe buýt dừng đỗ, ra vào đón trả khách thuận tiện và đảm bảo an ninh trật tự trên xe, trên tuyến cho hoạt động của xe buýt. Điểm đầu cuối phải được thiết kế sao cho đảm bảo về mỹ quan đô thị, đảm bảo khả năng thông qua của xe buýt, đảm bảo quay trở đầu xe dễ dàng và có thể kết nối với các phương thức vận tải khác. Khi bố trí các điểm đầu cuối nên lựa chọn nơi có lưu lượng hành khách tập trung cao nhất, gần các nhà ga, bến cảng, cảng hàng không, sân bay để hành khách dễ dàng trong việc tiếp chuyển, nối chuyến. Hiện nay, Hà Nội đã có 2 điểm trung chuyển (Long Biên và Nhổn) đã bước đầu tạo điều kiện thuận lợi cho hành khách chuyển tuyến. Tuy nhiên, để nâng cao tính thuận tiện, tiện nghi, an toàn cho hành khách tại các điểm trung chuyển xe buýt, cần phát triển tiếp và mở rộng thêm các trạm trung chuyển về số lượng, quy mô và diện tích; đảm bảo sự kết nối giữa các tuyến buýt, đặc biệt giữa các tuyến buýt với các tuyến đường sắt đô thị đang được xây dựng và sắp được đưa vào khai thác; bổ sung thêm thông tin tại các trạm trung chuyển bằng hệ thống các đèn Led hoặc bố trí nhân viên hướng dẫn trực tiếp tại các điểm trung chuyển nhằm thông tin cho hành khách một cách tập trung nhất đối với dịch vụ về các tuyến buýt của Hà Nội.
3.3. Giải pháp về nâng cao chất lượng đoàn phương tiện
Đối với làn đường dành riêng cho xe buýt, cần khai thác tối đa, hiệu quả làn đường dành riêng hiện có như: Cấm, hạn chế phương tiện cá nhân đi vào làn đường dành riêng, nâng cao chất lượng mặt đường, bảo đảm êm thuận; lắp đặt thêm hệ thống biển báo, tín hiệu ưu tiên cho xe buýt trên đoạn tuyến (Nguyễn Trãi – Hà Đông); nghiên cứu xây dựng thêm các tuyến có làn đường dành riêng cho xe buýt, đặc bịêt là trên các đoạn tuyến có nhiều tuyến buýt đi qua, đường đủ điều kiện về bề rộng để mở làn dành riêng.
Lái xe và nhân viên bán vé là hai đối tượng thường xuyên tiếp xúc với hành khách. Lái xe cần phải được đào tạo về văn hóa ứng xử bên cạnh việc đòi hỏi về trình độ, bằng cấp trong hoạt động vận tải. Nhân viên bán vé tiếp cận với hành khách nhiều hơn lái xe nên văn hóa ứng xử của đội ngũ này là hết sức quan trọng. Để nâng cao được chất lượng VTHKCC bằng xe buýt thì trình độ, ý thức, trách nhiệm đội ngũ lao động trực tiếp này cần được nâng lên. Để thực hiện được điều này thì cần: Thực hiện tốt công tác tuyên truyền, giáo dục, tổ chức trao đổi, chia sẻ kinh nghiệm, thái độ ứng xử của đội ngũ lái xe và nhân viên bán vé trong những tình huống cụ thể để nâng cao tinh thần trách nhiệm, thái độ phục vụ hành khách; công tác đào tạo cần được quan tâm và chú trọng với nội dung đào tạo chủ yếu hướng về mục tiêu nâng cao chất lượng phục vụ, nâng cao trách nhiệm đạo đức nghề nghiệp đối với lái, phụ xe…, qua đó nâng cao nhận thức của đội ngũ lao động trực tiếp này.
3.4. Giải pháp tăng cường công tác kiểm tra, giám sát chất lượng dịch vụ
Thực hiện tốt việc nâng lương – nâng bậc cho lái xe, nhân viên bán vé, thợ bảo dưỡng sửa chữa và lao động gián tiếp theo kế hoạch đề ra, đảm bảo thu nhập của người lao động không ngừng được nâng cao qua các năm; chú trọng xây dựng và phát triển đội ngũ lao động giỏi trên các lĩnh vực quản lý đầu tư của dự án, quản lý vận hành các công nghệ tiên tiến; kịp thời khen thưởng về vật chất, tinh thần cho các cá nhân, tổ chức có thành tích tốt trong lao động kinh doanh dịch vụ và xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm quy chế.
Một trong số những yêu cầu quan trọng đối với phương tiện VTHKCC trong thành phố nói chung và xe buýt nói riêng là phải đảm bảo tiêu chuẩn an toàn kỹ thuật, bảo vệ môi trường. Tuy nhiên, đây là hạn chế lớn nhất của xe buýt Hà Nội, do vậy cần phải có quy định cũng như tiêu chuẩn rõ ràng đối với các loại phương tiện về tiêu chuẩn kỹ thuật, khí thải, tiếng ồn.
3.5. Giải pháp cung cấp kênh thông tin cho hành khách
Để thực hiện tốt được mục tiêu trên thì cần chú trọng tới một số nội dung quản lý phương tiện: Nâng cao chất lượng bảo dưỡng sửa chữa để duy trì tình trạng kỹ thuật phương tiện (luôn hoạt động tốt), hạn chế mức độ hao mòn phương tiện trong quá trình khai thác sử dụng, phục hồi các tính năng khai thác kỹ thuật, nâng cao tuổi thọ phương tiện; nâng cao công tác quản lý vật tư – phụ tùng phục vụ bảo dưỡng sửa chữa; nâng cao ý thức sử dụng phương tiện của lái xe và nhân viên bán vé nhằm giữ xe an toàn, tránh để xảy ra các vụ va chạm, TNGT; đầu tư, đổi mới, bổ sung phương tiện, loại bỏ các phương tiện đã quá cũ hoặc đã sử dụng lâu, tình trạng kỹ thuật đã xuống cấp hay hư hỏng.
Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát nhằm kiểm soát tốt các tiêu chí phục vụ hành khách của xe buýt như: Chạy sai lộ trình, xe không dừng đón trả khách đúng quy định, chất lượng phương tiện kém, thất thoát doanh thu, thái độ phục vụ của lái, phụ xe không đúng mực…
4. Kết luận
Hiện nay, trung tâm quản lý và điều hành GTĐT đã có website với hệ thống mạng lưới buýt tương đối đầy đủ để thông tin tới hành khách. Tuy nhiên, web vẫn còn một số hạn chế nhất định về việc thông tin cho hành khách. Cần bổ sung, chỉnh sửa các nội dung sau: Các tuyến có tổ chức hình thức xe buýt đặc biệt như buýt nhanh, thí điểm BRT… Cần có sự thông báo về lịch trình tuyến; có phần diễn đàn (forum) giải đáp các thắc mắc của hành khách cũng như trao đổi kinh nghiệm khi sử dụng dịch vụ xe buýt; xuất bản các ấn phẩm giới thiệu về VTHKCC của thành phố theo hướng kết hợp với các nội dung về địa điểm du lịch, các phương thức VTHKCC khác như bản đồ, sổ tay VTHKCC…
Tài liệu tham khảo
Tuy nhiên, để nâng cao chất lượng dịch vụ và đảm bảo cung cấp đầy đủ thông tin cho hành khách, thông tin cho các bộ phận quản lý cần tăng cường kênh thông tin qua trang website; cần nâng cao chất lượng kênh thông tin, có đường dây nóng (hotline); tiếp nhận đơn thư phản ánh và giải quyết một cách nhanh chóng, tốt nhất những phản hồi từ phía khách hàng về chất lượng dịch vụ xe buýt; tiếp nhận và xử lý tốt thông tin nhằm nắm bắt, nhìn nhận, điều chỉnh kịp thời những đóng góp, ý kiến phản hồi về chất lượng dịch vụ xe buýt; thông tin trên phương tiện, tại các điểm đầu cuối, điểm trung chuyển, điểm dừng phải rõ ràng, đảm bảo cho hành khách dễ dàng tiếp nhận và tiếp cận được dịch vụ vận tải.
Cần tiếp tục ứng dụng công nghệ GPS vào quản lý điều hành và kiểm soát các tiêu chí chất lượng phục vụ xe buýt, chủ động rà soát và kịp thời phát hiện những hư hỏng đối với hệ thống giám sát và hệ thống âm thanh trên xe về thông báo điểm dừng cho hành khách, thay thế và bổ sung những trang thiết bị mới đáp ứng được tiêu chuẩn kỹ thuật đối với hệ thống thiết bị giám sát hành trình và âm thanh trên phương tiện sao cho đồng bộ với hệ thống mạng lưới tuyến buýt, nâng cao năng lực của nhân viên điều hành, nhân viên trực tiếp làm việc trên xe để khai thác và sử dụng hệ thống hiệu quả; kịp thời phát hiện thông tin và nhanh chóng khắc phục các sự cố trên tuyến như: Tắc đường, hư hỏng phương tiện, vi phạm lộ trình, đóng mở cửa xe, bán vé trong quá trình hoạt động; ứng dụng và tích hợp công nghệ bảng điện tử led với thiết bị điều hành để thông tin cho hành khách; ứng dụng hệ thống bộ đàm kết nối giữa trung tâm điều hành, bộ phận điều độ của các doanh nghiệp với phương tiện hoạt động trên tuyến cùng với hệ thống GPS, bộ đàm cũng là một công cụ hỗ trợ đắc lực cho công tác quản lý điều hành và xử lý các sự cố xảy ra trên tuyến một cách nhanh chóng, kịp thời.
Sự tăng trưởng dân số và tăng trưởng về quy mô của một thành phố nói riêng, đô thị nói chung cần phải có các phương tiện giao thông hiện đại: Đi lại bằng các xe ô tô con và xe máy, đi lại bằng phương tiện GTVT khối lớn (như MRT), xe buýt chạy trên các làn đường dành riêng (BRT), đường sắt đô thị (như METRO, đường sắt nhẹ đi ngầm, trên cao…) và đường sắt nội ngoại ô hoặc dịch vụ đường sắt khu vực nhằm đa dạng hóa và nâng cao chất lượng dịch vụ VTHKCC là cấp thiết. Bên cạnh đó, không thể thiếu dịch vụ VTHKCC bằng xe buýt tại các đô thị nói chung, thành phố nói riêng. Nhằm phục vụ tốt hơn và để người dân có nhiều lựa chọn hơn thì cần phải nâng cao chất lượng VTHKCC bằng xe buýt, bảo đảm đạt tiêu chuẩn của khu vực, quốc tế trong quá trình hội nhập ngày càng sâu rộng vào Tổ chức thương mại, kinh tế thế giới o
[1]. Trần Phương Lan (2008), Vận dụng một số phương pháp thống kê nghiên cứu chất lượng dịch vụ hành khách của hãng Hàng không quốc gia Việt Nam, LATS kinh tế, Đại học Kinh tế quốc dân Hà Nội.
[2]. Nguyễn Mạnh Quân (2004), Xây dựng hệ thống chỉ tiêu đánh giá và quản lý chất lượng sản phẩm vận tải hàng không ở Việt Nam, LATS kinh tế, Trường Đại học GTVT.
[3]. Nguyễn Hồng Thái (1999), Những biện pháp nâng cao chất lượng dịch vụ vận tải hành khách bằng ô tô, LATS Kinh tế, Trường Đại học Kinh tế quốc dân Hà Nội.
[4]. Nguyễn Thị Hồng Mai (2014), Nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống VTHKCC trong đô thị, Luận án TSKT, Trường Đại học GTVT.
Nâng Cao Chất Lượng Dịch Vụ Logistics Hàng Không
Thị trường vận tải hàng không đang đứng trước cơ hội phát triển mạnh mẽ. Tuy nhiên, để tăng cường khả năng kết nối với những loại hình vận tải khác cũng như nâng cao năng lực cạnh tranh, ngành Hàng không Việt Nam cần nhiều giải pháp để tháo gỡ những khó khăn, bất cập, góp phần nâng cao chất lượng dịch vụ logistics. Thực trạng thị trường vận tải hàng không Việt Nam
Ngành Hàng không Việt Nam hiện đang sử dụng, khai thác hoạt động bay thường lệ tới 21 cảng hàng không, sân bay trải dài từ Bắc vào Nam. Trong vài năm trở lại đây, cùng với sự tăng trưởng của nền kinh tế quốc dân, thị trường vận tải hàng hóa bằng đường hàng không Việt Nam có sự tăng trưởng mạnh với tốc độ trung bình từ 15,6%/năm trong giai đoạn từ năm 2011 – 2017. Tổng thị trường hàng hóa năm 2017 ước đạt xấp xỉ 1,13 triệu tấn, tăng 25,9% so với năm 2016. Sản lượng vận chuyển của các hãng hàng không Việt Nam năm 2017 ước đạt 318 nghìn tấn hàng hóa, tăng 11,3% so với năm 2016.
Thị trường nội địa giai đoạn 2011 – 2017 tăng trưởng trung bình đạt 10%/năm. Năm 2017, tổng lượng hàng nội địa đạt xấp xỉ 230,5 nghìn tấn, tăng 14,6% so năm 2016. Sản lượng vận chuyển hàng hóa quốc tế luôn tăng trưởng ở mức cao, giai đoạn 2011 – 2017 đạt 17,4%/năm. Cơ cấu hàng đi/đến chủ yếu là linh kiện điện tử, may mặc, nông sản, thủy sản… Khối lượng hàng hóa đi/đến CHKQT Nội Bài chiếm 59% thị phần, CHKQT Tân Sơn Nhất chiếm 40,3% thị phần hàng hóa quốc tế đi/đến Việt Nam.
Các hãng hàng không Việt Nam trong thời gian qua đã cố gắng mở rộng khai thác giành thị phần và ổn định ở mức 19 – 20% vào giai đoạn năm 2011 – 2013. Tuy nhiên, do các hãng hàng không nước ngoài tăng cường mở rộng hoạt động khai thác hàng hóa đi/đến Việt Nam nên thị phần vận chuyển của các hãng hàng không Việt Nam giảm mạnh xuống chỉ còn 12 – 13% vào giai đoạn năm 2014 – 2016 và năm 2017 thị phần vận chuyển chỉ đạt 9,7%.
Một số giải pháp nâng cao chất lượng dịch vụ logistics
Trên cơ sở Quy hoạch phát triển GTVT hàng không Việt Nam đến năm 2020, định hướng đến năm 2030, Cục Hàng không Việt Nam đề xuất một số giải pháp như sau:
Phát triển đội tàu bay theo hướng sử dụng các thế hệ tàu bay áp dụng công nghệ mới, tiết kiệm nhiên liệu, thân thiện với môi trường;
Mở rộng khai thác thị trường hàng không, tiếp tục phát triển vận tải hàng không trở thành phương thức vận tải an toàn và thuận tiện theo hướng thị trường mở, gắn liền với thị trường vận tải hàng không khu vực và thế giới;
Tăng thị phần vận chuyển của loại hình vận chuyển hàng không chi phí thấp.
Các hãng hàng không tiếp tục giảm chi phí/giá thành, đặc biệt là chi phí quản lý, nâng cao hiệu quả vận tải hàng không;
Nghiên cứu, phát triển vận tải đa phương thức, trong đó có vận tải hàng không; tăng cường vai trò của vận tải hàng không trong dây chuyền logistics Việt Nam, ưu tiên kết nối vận tải đa phương thức đối với vận chuyển hàng hóa;
Bàn Giải Pháp Nâng Cao Chất Lượng Dịch Vụ Y Tế
Sáng 7-12, tại Đà Nẵng, Bộ Y tế khai mạc Hội nghị tập huấn công tác quản lý đầu tư xây dựng và trang thiết bị y tế.
Hội nghị nhằm tăng cường năng lực thực hiện công tác đầu tư xây dựng, mua sắm, quản lý tài sản trong quá trình sử dụng tại các cơ sở y tế
Tham dự khai mạc có Thứ trưởng Bộ Y tế Trương Quốc Cường, đại diện lãnh đạo các Cục/Vụ thuộc Bộ Y tế, Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Xây dựng và cán bộ kỹ thuật xây dựng, thiết bị của 9 Sở Y tế, các đơn vị trực thuộc Bộ Y tế và các ban quản lý dự án ngành y tế.
Hội nghị tập trung các vấn đề: Nâng cao năng lực quản lý đầu tư xây dựng và trang thiết bị y tế; Tập huấn phổ biến các văn bản quy phạm pháp luật mới lĩnh vực quản lý đầu tư xây dựng và trang thiết bị y tế; Đánh giá công tác đầu tư xây dựng của các đơn vị thuộc Bộ Y tế nửa đầu giai đoạn trung hạn 2016-2020 và các giải pháp tăng cường quản lý đầu tư xây dựng, hoàn thành kế hoạch đầu tư trung hạn 2016-2020.
Hội nghị nhằm tăng cường năng lực thực hiện công tác đầu tư xây dựng, mua sắm, quản lý tài sản trong quá trình sử dụng tại các cơ sở y tế. Qua đó, giúp đơn vị nắm bắt được những vấn đề còn tồn tại, hạn chế tại cơ sở để có các biện pháp khắc phục, điều chỉnh. Đồng thời, giúp lãnh đạo, cán bộ các đơn vị triển khai các quy định, quy trình đầu tư xây dựng, mua sắm và quản lý tài sản góp phần giảm tình trạng quá tải khám chữa bệnh, nâng cao chất lượng dịch vụ y tế.
Thứ trưởng Bộ Y tế Trương Quốc Cường
Phát biểu khai mạc, Thứ trưởng Trương Quốc Cường cho biết: “Ngành Y tế đang triển khai mạnh mẽ đổi mới hệ thống y tế, với dịch vụ y tế cung ứng theo hướng dễ tiếp cận về khoảng cách địa lý, về khả năng chi trả, về văn hóa giao tiếp, đồng thời đảm bảo chất lượng, công bằng, hiệu quả theo yêu cầu của xã hội. Cùng với các giải pháp về nhân lực, phương pháp quản lý, quản trị, đổi mới cơ chế tài chính, ứng dụng công nghệ thông tin, cung ứng dược phẩm, thì công tác đầu tư, quản lý cơ sở hạ tầng, trang thiết bị y tế cũng đang hết sức được quan tâm, đẩy mạnh. Đầu tư, hoàn thiện hệ thống cơ sở vật chất là điều kiện để mở rộng, nâng cao kỹ thuật chuyên môn, tăng cường chất lượng khám chữa bệnh, đáp ứng sự mong đợi, sự hài lòng của người bệnh về dịch vụ y tế”.
Quang cảnh hội nghị
Cũng tại hội nghị, Thứ trưởng Bộ Y tế Trương Quốc Cường cũng đã chỉ đạo các đơn vị của Bộ Y tế chủ động phối hợp với các đơn vị sự nghiệp, các chủ đầu tư, ban quản lý dự án để hoàn thành các dự án đúng tiến độ và đưa ra nhiều giải pháp để giải quyết những khó khăn, thách thức của công tác đầu tư xây dựng đối với các dự án đã được phê duyệt, các dự án đã hoàn thành đưa vào sử dụng, tình hình thực hiện, giải ngân của các dự án, các dự án xây dựng trên cơ sở mới…
Qua đó, đánh giá những khó khăn, vướng mắc trong triển khai; đề xuất các giải pháp khắc phục, kiến nghị các Bộ chuyên ngành tổng hợp báo cáo Chính phủ, Quốc hội xem xét bổ sung, sửa đổi.
Ngoài ra, Hội nghị đã tổ chức trao khen thưởng các đơn vị, cá nhân có thành tích trong công tác quản lý, thực hiện đầu tư xây dựng và thiết bị y tế.
Hội nghị diễn ra trong 3 ngày từ ngày 7 đến 9-12-2018.
Theo báo cáo, năm 2018, Bộ Y tế tiếp tục ưu tiên bố trí 138,1 tỷ đồng để hoàn thành 7 dự án vào năm 2018 gồm: Dự án Cải tạo, nâng cấp bệnh viện Y học cổ truyền Trung ương; Xây dựng Bệnh viện Tuệ Tĩnh 100 giường – Học viện Y dược cổ truyền Việt Nam; Xây dựng, cải tạo, nâng cấp Viện Vệ sinh Dịch tễ Trung ương; Xây dựng cơ sở 2- Trường Đại học Kỹ thuật Y dược Đà Nẵng; Nâng cấp trang thiết bị Bệnh viện Nội tiết Trung ương; 2 dự án xây dựng hệ thống xử lý nước thải của Viện Vệ sinh dịch tễ Trung ương và Trường Cao đẳng Dược Hải Dương.
NGỌC PHÚC
Tính đến 18 giờ ngày 1-1-2021 đã có 83.915.018 ca xác nhận mắc Covid-19, có 1.827.941 ca tử vong trên thế giới (Mỹ: 20.445.654 ca mắc, 354.215 tử vong; Ấn Độ: 10.286.709 ca mắc, 149.018 ca tử vong; Brazil: 7.675.973 ca mắc, 194.976 ca tử vong; Nga: 3.186.336 ca mắc, 57.555 ca tử vong). Tại Việt Nam, có 1.474 trường hợp mắc bệnh, trong đó có 1.325 ca đã được chữa khỏi, 35 ca tử vong.
Sáng 26-11, tại TPHCM, Hệ thống Trung tâm Tiêm chủng vaccine Việt Nam (VNVC) phối hợp cùng các cơ quan quản lý y tế đưa vào hoạt động Trung tâm khám, tư vấn, điều trị dinh dưỡng, y học vận động Nutrihome tại quận 2.
Theo “Danh sách 100 nơi làm việc tốt nhất Việt Nam 2020” được công bố bởi Tổ chức cộng đồng mạng nghề nghiệp Anphabe và Công ty nghiên cứu thị trường Intage, Vinamilk năm thứ 3 liên tiếp giữ vững vị trí số 1 là nơi làm việc tốt nhất Việt Nam. Ngoài ra, Vinamilk cũng lập “hat-trick” khi dẫn đầu tại 2 bảng xếp hạng khác là “Top 50 Doanh nghiệp Việt có thương hiệu nhà tuyển dụng hấp dẫn” và “Nơi làm việc tốt nhất trong ngành hàng tiêu dùng nhanh”.
Thuốc giảm đau là các thuốc nhằm điều trị triệu chứng, làm giảm các cơn đau cấp tính hoặc mạn tính. 2 nhóm thuốc phổ biến nhất có thể được phép bán không cần đơn tại các hiệu thuốc là paracetamol và nhóm kháng viêm không chứa steroid, viết tắt là NSAIDs (Nonsteroidal anti-inflammatory drugs).
Bạn đang đọc nội dung bài viết Nâng Cao Chất Lượng Dịch Vụ Vận Tải trên website Photomarathonasia.com. Hy vọng một phần nào đó những thông tin mà chúng tôi đã cung cấp là rất hữu ích với bạn. Nếu nội dung bài viết hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!