Đề Xuất 3/2023 # Một Số Giải Pháp Phát Triển Đội Ngũ Giảng Viên Trường Cao Đẳng Hàng Hải Đáp Ứng Yêu Cầu Đổi Mới Giáo Dục # Top 3 Like | Photomarathonasia.com

Đề Xuất 3/2023 # Một Số Giải Pháp Phát Triển Đội Ngũ Giảng Viên Trường Cao Đẳng Hàng Hải Đáp Ứng Yêu Cầu Đổi Mới Giáo Dục # Top 3 Like

Cập nhật nội dung chi tiết về Một Số Giải Pháp Phát Triển Đội Ngũ Giảng Viên Trường Cao Đẳng Hàng Hải Đáp Ứng Yêu Cầu Đổi Mới Giáo Dục mới nhất trên website Photomarathonasia.com. Hy vọng thông tin trong bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu ngoài mong đợi của bạn, chúng tôi sẽ làm việc thường xuyên để cập nhật nội dung mới nhằm giúp bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.

Một số giải pháp phát triển đội ngũ giảng viên trường cao đẳng Hàng hải đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục

Written by

[7] BIMCO (2018), The Baltic and International Maritime Council Review 2018, Book Production Consultants Plc.

Bài viết đã đề xuất được các giải pháp quản lý phát triển ĐNGV đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục và hội nhập quốc tế; đáp ứng yêu cầu-nhiệm vụ trước mắt cũng như lâu dài của ngành HH Việt Nam. Cần thực hiện tốt, đồng bộ những giải pháp đã đề xuất, đồng thời kết hợp với việc thực hiện tốt những nội dung sau: Xây dựng chiến lược quản lý phát triển ĐNGV HH đến năm 2022, tầm nhìn đến năm 2030. Bổ sung, hoàn thiện cơ chế chính sách một cách đồng bộ đối với ĐNGV HH để GV yên tâm với công việc giảng dạy, say mê NCKH và tham gia tích cực vào kế hoạch đào tạo-bồi dưỡng của nhà trường, đồng thời thường xuyên tự đào tạo-bồi dưỡng. Bảo đảm bình đẳng về cơ hội đào tạo, tuyển dụng, bồi dưỡng và tôn vinh ĐNGV trong cơ sở giáo dục HH công lập và ngoài công lập.

– NCKH là một loại hình công việc rất khó, do đó nhà trường và Bộ chủ quản cần quan tâm đầu tư thực sự đúng mức cho công việc này.

c. Phương pháp thực hành và thực hành nâng cao: Phương pháp này áp dụng cho những người công tác ở xưởng nhà trường và đi tàu, những giảng viên học chuyên ngành kỹ thuật không phải là ngành Hàng hải, cần được đào tạo-bồi dưỡng về chuyên ngành Hàng hải để có thể đào tạo có chất lượng, hiệu quả.

More in this category:

« Một số vấn đề cơ bản về đào tạo trực tuyến giáo dục nghề nghiệp

Mô hình tổ chức phát triển kỹ năng nghề nghiệp của Nhật Bản »

Bàn Về Một Số Biện Pháp Quản Lý Đổi Mới Phương Pháp Dạy Học Ở Trường Thpt Đáp Ứng Yêu Cầu Đổi Mới Giáo Dục

Trong xu thế toàn cầu hóa, đồng thời với sự phát triển như vũ bão của khoa học, công nghệ và sự bùng nổ thông tin, quá trình dạy học trong các nhà trường trung học đang tồn tại mâu thuẫn giữa một bên là khối lượng tri thức ngày càng tăng lên, phức tạp hơn với thời lượng học tập có hạn, việc đổi mới phương pháp dạy học theo hướng phát huy tính tích cực, độc lập, sáng tạo của học sinh để từ đó bồi dưỡng cho học sinh phương pháp tự học, hình thành khả năng học tập suốt đời là một nhu cầu tất yếu trong các nhà trường.

Giáo dục phổ thông nước ta đang thực hiện bước chuyển từ giáo dục tiếp cận nội dung sang tiếp cận năng lực của người học, nghĩa là từ chỗ quan tâm đến việc học sinh học được cái gì đến chỗ quan tâm học sinh làm được cái gì qua việc học. Để đảm bảo được điều đó, phải đổi mới cách tiếp cận các thành tố của quá trình dạy học:

– Mục tiêu dạy học: Chuyển từ chủ yếu trang bị kiến thức sang hình thành, phát triển phẩm chất và năng lực người học;

– Chương trình dạy học: Chuyển từ tập trung, bao cấp sang phân cấp: Chương trình khung của Bộ, chương trình địa phương, chương trình nhà trường;

– Nội dung dạy học: chuyển từ nội dung kiến thức hàn lâm sang tinh giản, chọn lọc, tích hợp, đáp ứng yêu cầu ứng dụng vào thực tiễn và hội nhập quốc tế;

– Phương pháp dạy học: Chuyển từ chủ yếu truyền thụ một chiều, học sinh tiếp thu thụ động (hoạt động dạy của giáo viên là trung tâm) sang tổ chức hoạt động học cho học sinh, học sinh tự lực, chủ động trong học tập (hoạt động học của học sinh là trung tâm, giáo viên là người hỗ trợ, hướng dẫn);

– Hình thức dạy học: Các giờ học chuyển từ chủ yếu diễn ra trên lớp học truyền thống sang việc đa dạng hóa các hình thức dạy học, kết hợp cả trong và ngoài lớp học, ngoài nhà trường: dạy học tại di sản, dạy học gắn với sản xuất kinh doanh, tăng cường các hoạt động xã hội, tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin, nghiên cứu khoa học, hoạt động trải nghiệm sáng tạo…Từ chủ yếu dạy học toàn lớp sang kết hợp giữa dạy học nhóm nhỏ, cá nhân với toàn lớp học;

– Kiểm tra đánh giá: Từ chủ yếu kiểm tra việc ghi nhớ kiến thức sang đánh giá năng lực; từ chủ yếu đánh giá kết quả học tập sang kết hợp đánh giá kết quả học tập với đánh giá quá trình, đánh giá sự tiến bộ của học sinh;

– Các điều kiện dạy học: Chuyển từ việc chủ yếu khai thác các điều kiện giáo dục trong phạm vi nhà trường sang việc tạo điều kiện cho học sinh được học tập qua các nguồn học liệu đa dạng, phong phú trong xã hội, nhất là qua Internet; … phát triển năng lực tự học, tự nghiên cứu và chuẩn bị tâm thế cho học tập suốt đời

Từ thay đổi cách tiếp cận các thành tố của quá trình dạy học, đòi hỏi công tác quản lý trong nhà trường cũng phải thay đổi: chuyển từ thực hiện kiểu quản lí bao cấp (cả tư duy lẫn hành động), áp đặt mệnh lệnh từ trên xuống; thực hiện rập khuôn, máy móc theo quy định của cấp trên, cơ chế quản lí hạn chế khả năng sáng tạo của giáo viên và học sinh, thiếu tính tự chủ, chưa đáp ứng tính phù hợp vùng miền,… sang đổi mới quản lý theo định hướng dân chủ hóa, phân cấp quản lí, giao quyền tự chủ để phát huy tính chủ động, sáng tạo phù hợp thực tế của các nhà trường, của giáo viên.

Một số biện pháp quản lý đổi mới phương pháp dạy học dựa theo lý thuyết Quản lý sự thay đổi

Quản lý sự thay đổi thực chất là kế hoạch hóa và chỉ đạo triển khai sự thay đổi để đạt được mục tiêu đề ra. Quản lý đổi mới phương pháp dạy học trong trường trung học dựa theo Quản lý sự thay đổi thường trải qua ba giai đoạn:

Giai đoạn chuẩn bị đổi mới phương pháp dạy học: Là giai đoạn chuẩn bị tâm thế cho mọi thành viên sẵn sàng và có đủ khả năng để thực hiện việc đổi mới phương pháp dạy học: về thái độ, kiến thức, kỹ năng tạo động cơ thay đổi và tạo cảm giác an toàn để họ sẵn sàng cho thay đổi. Chuẩn bị các điều kiện tối thiểu để triển khai đổi mới phương pháp dạy học.

Giai đoạn phát triển bền vững kết quả đổi mới phương pháp dạy học: Xóa bỏ các rào cản, hỗ trợ thúc đẩy đổi mới PPDH. Tìm các biện pháp duy trì “cái thay đổi” đã đạt được để nhà trường phát triển bền vững với những “cái mới” đã hình thành, tức là duy trì “cái mới” đã đạt được.

Có thể đơn cử một số biện pháp cụ thể hóa ba giai đoạn trên:

1. Xây dựng kế hoạch chiến lược đổi mới phương pháp dạy học

Để nhận diện chính xác vấn đề cần thay đổi trong nhà trường, cần xác định được trạng thái hiện tại của nhà trường. Trạng thái hiện tại là trạng thái chứa các yếu tố cần phải thay đổi để nhà trường phát triển bền vững, thực chất là đánh giá thực trạng của nhà trường. Việc xác định chính xác trạng thái hiện tại sẽ giúp nhà trường đề ra được lộ trình đúng, xây dựng được kế hoạch chiến lược rõ ràng và có giải pháp phù hợp. Việc xây dựng một kế hoạch chiến lược rõ ràng giúp định hướng các quyết định và hướng tất cả mọi người cùng hành động vì một mục đích chung.

Chọn bước đi cụ thể, thích hợp để đạt được kết quả phù hợp với các giai đoạn của quá trình thực hiện đổi mới phương pháp dạy học với các lưu ý về động lực và rào cản thực tế trong từng giai đoạn cụ thể: chuẩn bị, thực hiện, đánh giá, điều chỉnh và phát huy tác dụng của những đổi mới đã đạt được.

Từ kế hoạch chiến lược chia thành các giai đoạn trung hạn và ngắn hạn, có thể chia theo các năm học, theo học kỳ. Xác định mục tiêu dài hạn, trung hạn và ngắn hạn từng năm học, đề ra các biện pháp cụ thể cho từng năm. Xác định các hoạt động đổi mới phương pháp dạy học cần hoàn thành của nhà trường đáp ứng các mục tiêu ngắn hạn, từng bước thực hiện mục tiêu trung hạn tiến tới hoàn thành mục tiêu dài hạn.

Trong quản lý đổi mới phương pháp dạy học, việc phải chọn được đúng người để thành lập được nhóm tiên phong rất quan trọng. Cần tạo một nhóm tiên phong dẫn đường đủ mạnh để có thể dẫn dắt đổi mới phương pháp dạy học thành công. Nhóm tiên phong phải đảm bảo 4 yếu tố: Quyền hạn (có nhiều cá nhân chủ chốt, đặc biệt là các nhà quản lý chính để cho nhóm bảo thủ không thể dễ dàng phá bỏ sự đổi mới tiến bộ); Chuyên môn (nhóm phải là những người có kinh nghiệm, năng lực cao về chuyên môn để có thể ra những quyết định thông minh và đúng đắn); Sự tin cậy (gồm những người đủ uy tín và có được lòng tin cao từ những người khác trong nhà trường để đảm bảo rằng những tuyên bố của nhóm sẽ được mọi người lắng nghe nghiêm túc); Có khả năng lãnh đạo (nhóm hội tụ được cả những nhà lãnh đạo có khả năng dẫn dắt công cuộc đổi mới).

Việc thành lập nhóm tiên phong cần thực hiện ngay khi bắt đầu xây dựng kế hoạch. Đội ngũ này sẽ cùng với hiệu trưởng tham gia vào đánh giá thực trạng nhà trường, phân tích bối cảnh để cùng xây dựng kế hoạch chiến lược. Đồng thời nhóm cũng sẽ là những người đầu tiên thực thi kế hoạch đổi mới phương pháp dạy học của nhà trường. Khi tạo ra những thành công đầu tiên sẽ tạo động lực và thu hút những người còn đang lưỡng lự đi theo, dần dần sẽ làm giảm dần những đối tượng phản đối kế hoạch đổi mới phương pháp dạy học của nhà trường.

Để tạo ra sự đồng thuận cần làm tốt công tác truyền thông bằng việc cung cấp đầy đủ, kịp thời thông tin, tuyên truyền cho mọi người cùng thấy được sự cần thiết và lợi ích của việc đổi mới phương pháp dạy học. Kinh nghiệm cho thấy mọi sự thay đổi sẽ gặp phải các phản ứng từ nhiều phía nếu công tác truyền thông không tốt, chưa làm cho xã hội hiểu và chia sẻ với các đổi mới của ngành.

Hình thức tuyên truyền: Sử dụng nhiều diễn đàn khác nhau theo nguyên tắc “Lặp lại, lặp lại và lặp lại”; Thuyết phục bằng sự làm gương của hiệu trưởng, phó hiệu trưởng, tổ trưởng chuyên môn và thành công bước đầu của đội tiên phong trong thực hiện đổi mới phương pháp dạy học.

Đối tượng tuyên truyền:

+ Trong nhà trường: Đối tượng cần được tuyên truyền, phổ biến về đổi mới phương pháp dạy học bao gồm cả giáo viên, tất cả nhân viên trong nhà trường và học sinh.

+ Ngoài nhà trường: Cha mẹ học sinh, các tổ chức đoàn thể, chính quyền địa phương trên địa bàn nơi trường đóng, các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất, dịch vụ…

4. Nhận diện, xóa bỏ các rào cản của đổi mới phương pháp dạy học

Tùy từng cơ sở giáo dục cụ thể, các rào cản sẽ khác nhau. Qua thực tế đổi mới phương pháp dạy học ở trường trung học có một số rào cản cơ bản về tâm lý, động cơ; rào cản về các nguồn lực; rào cản về chuyên môn:

– Tâm lý ngại thay đổi, thói quen, sức ỳ lớn của một bộ phận cán bộ quản lý và giáo viên, chưa có động lực đổi mới. Hiểu chưa đúng bản chất của các phương pháp dạy học và kỹ thuật dạy học tích cực nên vận dụng máy móc;

– Tâm lý dạy học đáp ứng kiểu kiểm tra, thi cử theo hướng nặng về ghi nhớ nội dung kiến thức;

– Chương trình và nội dung dạy học hiện hành thiết kế theo định hướng nội dung gây khó khăn khi đổi mới phương pháp dạy học;

– Dự giờ đánh giá giờ dạy chủ yếu thiên về đánh giá các hoạt động dạy của giáo viên, chưa quan tâm các hoạt động học của học sinh;

– Cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ cho việc đổi mới phương pháp dạy học còn nhiều hạn chế.

Mỗi nhà trường cần căn cứ vào thực trạng cụ thể trường mình để nhận diện được các rào cản của nhà trường, rào cản nào là quan trọng nhất, rào cản nào cần ưu tiên tháo gỡ trước và sắp sếp theo thứ tự, có lộ trình phù hợp.

Với một số rào cản kể trên, hiệu trưởng cần có lộ trình để từng bước xóa bỏ các rào cản, tạo điều kiện cho việc thực hiện đổi mới phương pháp dạy học được thuận lợi.

(i) Tăng cường bồi dưỡng giáo viên tại công việc thông qua sinh hoạt chuyên môn theo nghiên cứu bài học.

Sinh hoạt chuyên môn theo nghiên cứu bài học là một quá trình các giáo viên tham gia vào các khâu từ chuẩn bị, thiết kế bài học sáng tạo, dạy thử nghiệm, dự giờ, suy ngẫm và chia sẻ các ý kiến sâu sắc về những gì đã diễn ra trong việc học tập của học sinh. Đây là hoạt động học tập lẫn nhau, học tập trong thực tế, là nơi thử nghiệm và trải nghiệm những cái mới của giáo viên. Trong quá trình thử nghiệm đó, giáo viên sẽ học được nhiều điều để phát triển năng lực chuyên môn, nghiệp vụ. Đây chính là phương pháp bồi dưỡng giáo viên tại công việc “Training on the job”.

Tổ chuyên môn phải trở thành một trung tâm bồi dưỡng giáo viên thu nhỏ. Các giáo viên cốt cán trong nhà trường không chỉ chịu trách nhiệm với việc học hành của học sinh, mà còn với cả sự phát triển chuyên môn của các đồng nghiệp. Họ cùng nhau hợp tác để xây dựng các bài học hay hơn và những cách giảng dạy mới. Họ cũng thường xuyên đánh giá xem công việc của mình có thật sự phát huy hiệu quả trong lớp học hay không. Những giáo viên nhiều kinh nghiệm sẽ có trách nhiệm hỗ trợ những giáo viên khác ít kinh nghiệm trong trường nâng cao năng lực chuyên môn. Những giáo viên này lại tiếp tục giúp đỡ các giáo viên mới hơn phát triển năng lực.

Trong quản lý sự thay đổi đối với đổi mới phương pháp dạy học, rào cản lớn nhất, khó thay đổi nhất là thói quen, thay đổi nhận thức và phá vỡ “sức ỳ” của giáo viên. Nghiên cứu bài học là một mô hình bồi dưỡng, phát triển năng lực chuyên môn, nghiệp vụ cho mỗi giáo viên và là công cụ hữu hiệu làm thay đổi nhà trường một cách bền vững, xây dựng môi trường niềm tin, tạo “văn hóa thích ứng ” cho đội ngũ giáo viên.

(ii) Đổi mới kiểm tra, đánh giá học sinh thúc đẩy đổi mới phương pháp dạy học

Từ thực tế hoạt động kiểm tra, đánh giá hiện nay chủ yếu chú ý đến yêu cầu tái hiện kiến thức và đánh giá qua điểm số đã dẫn đến tình trạng giáo viên và học sinh duy trì dạy học theo lối “đọc-chép” thuần túy, học sinh học tập thiên về ghi nhớ, nhớ càng nhiều kiến thức càng tốt, ít quan tâm vận dụng kiến thức dẫn đến hệ quả là nhiều học sinh thụ động trong việc học tập; khả năng sáng tạo và năng lực vận dụng tri thức đã học để giải quyết các tình huống thực tiễn cuộc sống còn hạn chế; chưa đáp ứng đầy đủ mục tiêu đặt ra của Luật Giáo dục là “Giúp học sinh phát triển toàn diện về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các kỹ năng cơ bản, phát triển năng lực cá nhân, tính năng động và sáng tạo”.

Đánh giá kết quả học tập theo năng lực chú trọng khả năng vận dụng sáng tạo tri thức trong những tình huống ứng dụng khác nhau. Như vậy, thông qua việc hoàn thành một nhiệm vụ trong bối cảnh thực tế, có thể đồng thời đánh giá được cả kỹ năng nhận thức, kỹ năng thực hiện và những giá trị, tình cảm của học sinh. Theo dõi, kiểm tra quá trình và từng kết quả thực hiện nhiệm vụ của học sinh/nhóm học sinh theo tiến trình dạy học; quan tâm tiến độ hoàn thành từng nhiệm vụ của học sinh để áp dụng biện pháp cụ thể, kịp thời giúp đỡ học sinh vượt qua khó khăn. Chấp nhận sự khác nhau về thời gian và mức độ hoàn thành nhiệm vụ của các học sinh.

(iii) Giao quyền tự chủ cho tổ chuyên môn xây dựng và thực hiện chương trình giáo dục

Việc dạy học hiện nay chủ yếu được thực hiện trên lớp theo bài/tiết trong sách giáo khoa, trong phạm vi một tiết học, không đủ thời gian triển khai đầy đủ các hoạt động học của học sinh theo tiến trình sư phạm của một phương pháp dạy học tích cực, vì vậy đổi mới phương pháp dạy học nếu vẫn yêu cầu thực hiện theo chương trình cứng như trước đây thì không thể thực hiện được, đây là một rào cản, nếu có sử dụng phương pháp dạy học tích cực thì chỉ mang tính hình thức, đôi khi máy móc dẫn đến kém hiệu quả, chưa thực sự phát huy được tính tích cực, tự lực, sáng tạo của học sinh; hiệu quả khai thác sử dụng các phương tiện dạy học và tài liệu bổ trợ theo phương pháp dạy học tích cực bị hạn chế.

(iv) Đổi mới việc dự giờ, đánh giá giờ dạy của giáo viên

Bên cạnh việc quản lý giờ lên lớp của giáo viên qua việc dự giờ thăm lớp, Hiệu trưởng cần hướng dẫn việc đổi mới cách đánh giá giờ dạy. Đây là hoạt động có tác dụng quyết định đến việc thực hiện thường xuyên và hiệu quả đổi mới phương pháp dạy học của giáo viên.

Cách đánh giá giờ dạy truyền thống thường tập trung vào hoạt động của giáo viên, ít quan tâm đến phân tích hoạt động học của học sinh. Vì vậy, các giờ dạy thường được luyện tập kỹ trước khi dạy, dẫn tới giờ dạy thao giảng mang tính chất hình thức, đối phó. Giáo viên chỉ chăm chú vào việc sao cho dạy hết bài quy định nên không chú ý nhiều đến hoạt động học của học sinh.

Việc nhận xét đánh giá giờ dạy theo hướng đổi mới hiện nay cần căn cứ vào hiệu quả hoạt động học cho học sinh, vì vậy các tiêu chí xây dựng cần dựa trên việc quan sát hoạt động học của học sinh và việc tổ chức hoạt động học cho học sinh của giáo viên.

(v) Đổi mới cách tiếp cận các điều kiện vật chất hỗ trợ quá trình dạy học

Phương tiện, đồ dùng dạy học cũng là yếu tố quan trọng giúp giáo viên có điều kiện đổi mới phương pháp dạy học một cách tốt nhất để đạt yêu cầu mong muốn.

Theo tiếp cận truyền thống, cơ sở vật chất, thiết bị dạy học của các nhà trường đều trông chờ vào sự trang bị của cấp trên. Một thời gian dài, việc quản lý sử dụng, bảo quản cơ sở vật chất, thiết bị dạy học chưa được chú ý nên thiếu, hỏng, không đồng bộ dẫn tới không hiệu quả. Tâm lý ỉ lại làm cho các nhà trường thấy khó khăn khi thực hiện đổi mới phương pháp dạy học.

Với cách tiếp cận mới, hiệu trưởng cần biết phối hợp với các ban ngành, các cơ quan, doanh nghiệp, các cơ sở sản xuất, dịch vụ tại địa phương tạo cơ hội cho giáo viên và học sinh được học tập tại thực địa, sử dụng cơ sở vật chất, thiết bị dạy học của các đơn vị đó như là phương tiện thực tế để dạy và học. Với cách này, không nhất thiết phải đợi trang bị đầy đủ cơ sở vật chất, thiết bị dạy học mới thực hiện đổi mới phương pháp dạy học. Hơn nữa bằng cách đó, việc dạy học gắn với thực tiễn cuộc sống được phát huy.

Bên cạnh đó, hiệu trưởng cần biết tận dụng các cơ hội để khai thác nguồn kinh phí theo phương thức xã hội hoá, tìm kiếm các nguồn lực bên ngoài xã hội; tăng cường công tác chỉ đạo, tổ chức, xây dựng nền nếp của các hoạt động khai thác, sử dụng và bảo quản thiết bị dạy học sao cho có hiệu quả, tránh lãng phí.

Trong sử dụng các nguồn kinh phí, cần lựa chọn ưu tiên và đầu tư có trọng điểm cho từng giai đoạn một cách hợp lý, tránh dàn trải tốn kém, đặc biệt là trang bị các phương tiện hiện đại dùng chung. Quan tâm bồi dưỡng và tạo điều kiện cho đội ngũ giáo viên nhà trường tự nghiên cứu học tập thực hành để cập nhật, tiếp cận phương tiện hiện đại, giúp giáo viên sử dụng có hiệu quả các phương tiện đó cho quá trình đổi mới phương pháp dạy học và tích cực tự làm thiết bị, đồ dùng dạy học.

5. Đánh giá việc thực hiện đổi mới phương pháp dạy học, điều chỉnh kế hoạch khi cần thiết

Quá trình đổi mới nhà trường, đổi mới PPDH trrong nhà trường phổ thông không có điểm dừng. Điểm kết thúc của giai đoạn này sẽ tiếp tục là điểm khởi đầu của giai đoạn thay đổi tiếp theo. Đánh giá thường xuyên xác nhận tính đúng đắn của lộ trình, đánh giá theo giai đoạn để điều chỉnh và duy trì kết quả. Đánh giá nhằm tìm ra những mặt ưu điểm, mặt hạn chế để điều chỉnh việc lập kế hoạch, tổ chức, lãnh đạo chỉ đạo thực hiện. Lấy thông tin phản hồi từ học sinh để điều chỉnh hoạt động giảng dạy và quản lý khi cần thiết.

Các tiêu chí đánh giá tập trung vào một số nội dung:

– Thay đổi cách chuẩn bị giờ dạy của giáo viên;

– Thay đổi cách tổ chức hoạt động học của học sinh;

– Thay đổi cách đánh giá học sinh;

– Thay đổi cách đánh giá giờ dạy;

– Thay đổi về phương pháp học của học sinh…

Thông qua đánh giá các mặt, phân tích kết quả đạt được, những mặt chưa đạt, xác định nguyên nhân, rút ra bài học kinh nghiệm cho chu kỳ đổi mới tiếp theo. Việc đánh giá không phải chỉ thực hiện khi kết thúc một giai đoạn mà phải được đặt ra cả trong quá trình thực hiện đổi mới để kịp thời có những điều chỉnh khi cần thiết, vì quản lý sự thay đổi mang tính “động”. Việc xây dựng một kế hoạch cần đảm bảo cả 2 yếu tố là ổn định và linh hoạt, điều này phù hợp với quy luật vận động của sự vật hiện tượng nói chung và bản thân yếu tố phương pháp dạy học cũng mang tính linh hoạt nói riêng.

Để đảm bảo thành quả của đổi mới được duy trì, củng cố cần lưu ý:

– Tuyên dương, khen thưởng, truyền thông nhân rộng điển hình và chia sẻ kinh nghiệm; nêu gương dạy tốt, khích lệ đổi mới.

– Tiếp tục bồi dưỡng nâng cao chất lượng đội ngũ, hướng dẫn người mới thông qua sinh hoạt tổ chuyên môn theo nghiên cứu bài học để họ có thể kế tục việc đổi mới.

– Lập, duy trì và bổ sung ngân sách để có quỹ phục vụ cho đổi mới PPDH.

– Lưu trữ hồ sơ giúp cho việc nhìn lại quá trình đổi mới PPDH của nhà trường, đánh giá và rút ra các bài học kinh nghiệm cho những thành công và những thất bại. Thậm chí cả bài học kinh nghiệm cho việc xử lý những tình huống xung đột nảy sinh.

– Đưa thay đổi vào phương hướng phấn đấu, vào kế hoạch chiến lược phát triển nhà trường để đảm bảo tính kế thừa.

Bộ Giáo dục và Đào tạo, Tài liệu tập huấn cán bộ quản lý trường trung học về quản lý đồng bộ đổi mới phương pháp dạy học và kiểm tra đánh giá kết quả học tập của học sinh, 2013.

Đảng Cộng sản Việt Nam, Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 4/11/2013 về đổi mới cản bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, Năm 2013.

Đặng Xuân Hải, Nguyễn Sỹ Thư, Quản lý giáo dục, quản lý nhà trường trong bối cảnh thay đổi, NXBGDVN, 2012.

Trần Kiểm, Những vấn đề cơ bản của Khoa học quản lý giáo dục, NXB ĐHSP, Hà Nội, 2011.

John P. Kotter và Dan S. Cohen, Linh hồn của sự thay đổi (The heart of change), Bản dịch của NXB Trẻ, 2002.

Gary Yukl (2013), Leadership in Organizations, (Eighth Edition), Pearson Education Limited.

Một Số Biện Pháp Nâng Cao Chất Lượng Bồi Dưỡng Giáo Viên Thpt Trước Yêu Cầu Đổi Mới Giáo Dục

                               TS Phạm Thị Kim Anh

                                Viện NCSP-Trường ĐHSP Hà Nội

                               ĐT; 0988184413. Email:phamkimanh279@yahoo.com.vn

     

1. Mở đầu

Theo “Kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng GV phổ thông thực hiện chương trình, sách giáo khoa giáo dục phổ thông mới” ban hành tháng 5/2018, Bộ GD&ĐT yêu cầu: “Bảo đảm tất cả GV cơ sở GDPT trên cả nước hoàn thành chương trình bồi dưỡng trước thời gian bắt đầu triển khai áp dụng chương trình, sách giáo khoa GDPT mới. Kế hoạch được thực hiện tuần tự đối với từng cấp học. Đối với cấp THPT, GV được bồi dưỡng từ năm học 2021-2022 [6,tr1]

Mục đích của bồi dưỡng là giúp các GV bổ sung kịp thời các kiến thức, kỹ năng, phương pháp, kỹ thuật dạy học mới, và có thể phát triển về chuyên môn, nghiệp vụ phù hợp với yêu cầu của chương trình GDPT mới đòi hỏi. Sự phát triển đó thể hiện ở những thay đổi của bản thân người GV trong thực tế hoạt động nghề nghiệp. Những thay đổi đó bao gồm cả về thái độ, nhận thức và hành vi dạy học, giáo dục theo yêu cầu mới.

Vậy làm thế nào để công tác bồi dưỡng GV đạt được mục đích như trên? Điều này rất cần có những thay đổi bứt phá trong quan điểm chỉ đạo cũng như việc tổ chức bồi dưỡng GV. Theo Nguyễn Vinh Hiển: “Phải kế thừa, phát huy những bài học kinh nghiệm đã có; khắc phục các hạn chế, yếu kém; đồng thời cần đổi mới đối với tất cả các thành tố: mục tiêu, nội dung, hình thức và phương pháp bồi dưỡng, kiểm tra đánh giá, công tác quản lý và những điều kiện thực hiện phù hợp” [9, tr1]

Để góp phần nâng cao chất lượng công tác bồi dưỡng GV, trong bài báo này chúng tôi tập trung vào đổi mới các thành tố trong khâu bồi dưỡng GV, nhất là trong tổ chức và quản lí bồi dưỡng

2. Nội dung

2.1. Khảo sát nhu cầu, phân loại đối tượng, lập kế hoạch bồi dưỡng sát với yêu cầu và năng lực của GV

Các nghiên cứu [2],[3], [10], [11], [13] đã chỉ ra rằng: Việc bồi dưỡng GV phổ thông trong những năm qua tuy đã có nhiều đổi mới, từ nội dung tới cách thức tổ chức và đã góp phần nâng cao năng lực cho đội ngũ chúng tôi nhiên, còn bộc lộ nhiều hạn chế, bất cập và chưa đem lại những hiệu quả  thiết thực. Theo chúng tôi, nguyên nhân cơ bản là khi thiết kế và tổ chức các chương trình bồi dưỡng chưa đánh giá và xác định được nhu cầu cần bồi dưỡng của GV, chưa hiểu rõ GV đang thiếu gì, cần bồi dưỡng nội dung gì và bồi dưỡng thế nào? Dẫn đến tình trạng bồi dưỡng áp đặt, đồng loạt, đại trà cho mọi đối tượng GV với những nội dung định sẵn, không sát với thực tế. Điều này khiến cho nhiều GV thiếu tin tưởng vào hiệu quả các chương trình bồi dưỡng và buộc phải trải qua những khoá bồi dưỡng vô bổ, ít có tác dụng [3]. Lí luận và thực tiễn đã chỉ ra rằng, nhu cầu bồi dưỡng của GV rất đa dạng, tùy thuộc vào từng nhóm đối tượng cụ thể cũng như trình độ năng lực của mỗi GV. Đặc biệt, số năm kinh nghiệm giảng dạy có tương quan tỷ lệ nghịch với nhu cầu cần được bồi dưỡng. Không có nhu cầu nào là chung cho mọi GV. Vì vậy, công việc đầu tiên là phải tiến hành khảo sát, đánh giá nhu cầu để thấy rõ cái đang cần, đang thiếu và đang yếu của GV. Từ đó phân loại đối tượng, xây dựng kế hoạch bồi dưỡng cho sát với yêu cầu thực tiễn của GV.

Để làm tốt điều này, cần phải thực hiện các việc sau:

– Thứ nhất, xây dựng phiếu điều tra, tiến hành khảo sát năng lực và nhu cầu của GV ở trường THPT. Qua việc trả lời những câu hỏi cụ thể, GV sẽ tự soi rọi, đánh giá hoạt động DH- GD của bản thân để nêu rõ những khó khăn, hạn chế, yếu kém; tự đặt ra nhu cầu cho mình. Trên cơ sở các thông tin mà GV cung cấp, xác định nhu cầu thực tế của GV, phân loại nhu cầu theo từng đối tượng.

-Thứ hai, xác định mục tiêu và lập kế hoạch bồi dưỡng

Khi các nhu cầu bồi dưỡng của GV đã được xác định, bước tiếp theo là phải chuyển các yêu cầu này thành các mục tiêu bồi dưỡng hay các kết quả mong muốn của hoạt động bồi dưỡng.

2.2. Phân công và phân cấp bồi dưỡng một cách rõ ràng

           Để tránh được sự “tam sao thất bản” và khắc phục được nhược điểm, hạn chế của “mô hình thác nước” trong bồi dưỡng GV từ cấp quốc gia xuống tỉnh, huyện, hiện nay Bộ GD&ĐT đã chỉ đạo thực hiện theo kiểu phân tầng ở 2 cấp: Cấp Trung ương và cấp địa phương.

 Ở cấp địa phương sẽ bồi dưỡng GV đại trà thông qua đội ngũ GV cốt cán và bằng nhiều hình thức, trong đó chú trọng hình thức bồi dưỡng trực tuyến.

Với cách phân cấp như vậy, việc bồi dưỡng GV ở các địa phương sẽ tránh được  những nhược điểm của cách bồi dưỡng trước đây và GV được tiếp thu kiến thức, kĩ năng trực tiếp từ đội ngũ GV cốt cán cũng như học được ở mọi lúc, mọi nơi qua bồi dưỡng trực tuyến.

       Tuy nhiên, đây cũng chưa phải là cách làm mới và tối ưu. Bởi lẽ việc sử dụng đội ngũ GV cốt cán để bồi dưỡng cho GV cấp địa phương cũng chỉ diễn ra theo đợt/chu kì và theo những yêu cầu của Bộ/ngành với những nội dung đã định sẵn và nó không thể thực hiện một cách thường xuyên, liên tục. Do đó, cần mạnh dạn trao quyền tự chủ cho các cơ sở GD ở địa phương chủ động trong việc lập kế hoạch, triển khai bồi dưỡng GV tại cơ sở, đồng thời phải trao cho các trường ĐHSP có chất lượng cao chịu trách nhiệm trong việc bồi dưỡng GV. “Các trường ĐHSP phải chịu trách nhiệm cả 3 công đoạn trong một quá trình: Tạo ra sản phẩm, đưa vào sử dụng và bảo dưỡng (bảo trì) sản phẩm. Nghĩa là việc bồi dưỡng GV là trách nhiệm của trường sư phạm”. [1, tr 33-40].

     2.3. Xây dựng nội dung chương trình bồi dưỡng thiết thực, chuyên sâu và dựa trên nhu cầu của GV

Theo Lê Đức Giang, Kiều Phương Chi–Viện Sư phạm Tự nhiên,Trường Đại học Vinh: chương trình bồi dưỡng chưa giúp được nhiều cho GV trong việc chuẩn bị dạy học theo định hướng của CTGD  phổ thông mới, chưa chú trọng bồi dưỡng năng lực thực hành thí nghiệm cho giáo viên Vật lý, Hóa học và Sinh học [8]. Còn theo nhận xét của Đinh Quang Báo-Nguyên hiệu trưởng trường ĐHSP Hà Nội: “Nội dung chương trình bồi dưỡng chưa gãi đúng chỗ ngứa của GV”[2,tr 34 ]. Điều đó cho thấy, những nội dung bồi dưỡng chưa đem lại cho GV những điều cần thiết nhất. Do đó cần phải xây dựng nội dung chương trình bồi dưỡng sao cho thiết thực, dựa trên nhu cầu, mong muốn của GV.

Ông Hoàng Đức Minh- Cục trưởng Cục Nhà giáo và CBQL giáo dục (Bộ GD&ĐT) cho biết: “Việc bồi dưỡng theo Chuẩn cần gắn kết chặt chẽ với nhu cầu mỗi cá nhân – hướng tới việc bồi dưỡng theo các nội dung tự chọn của mỗi người một cách thiết thực, hiệu quả qua việc hỗ trợ bằng phương thức bồi dưỡng ứng dụng CNTT. Người học có thể học mọi lúc, mọi nơi, bất kể thời gian nếu có điều kiện, qua hệ thống tài liệu được thiết kế “treo” trên mạng Internet” [13]

Tới đây, theo kế hoạch của Bộ GD&ĐT, nội dung chương trình và tài liệu bồi dưỡng ở cả cấp trung ương và địa phương  đều cùng thống nhất thực hiện 2 nội dung:

 -Hướng dẫn dạy học môn học theo CT GDPT mới;

– Hướng dẫn sử dụng hệ thống tài liệu bồi dưỡng giáo viên qua mạng (do CT ETEP biên soạn).

Điều đó là cần thiết, song chưa đủ. Theo chúng tôi, cần xây dựng những chuyên đề chuyên sâu tập trung vào 3 mảng nội dung chính:

b)Bồi dưỡng năng lực DH và năng lực GD cho GV ( năng lực nghiệp vụ sư phạm)

c)Bồi dưỡng phát triển các giá trị, đạo đức nghề nghiệp ( phẩm chất đạo đức)

            Trong việc bồi dưỡng năng lực DH và năng lực GD cho GV, theo chúng tôi, cần tập trung vào những điểm yếu, những khó khăn mà GV đang gặp phải theo yêu cầu đổi mới. Các nghiên cứu của Hoàng Thị Kim Huệ [5], Phạm Thị Kim Anh [4], Nguyễn Danh Nam [14] đã chỉ rõ:

-Về năng lực dạy học, cần tập trung bồi dưỡng các kĩ năng:

+ Kĩ năng thiết kế và tổ chức DH theo định hướng phát triển năng lực người học.

+Kĩ năng thiết kế và tổ chức DH-GD bằng trải nghiệm.

+ Kĩ năng sử dụng các phương pháp và kỹ thuật DH tích cực, hiện đại.

+ Kĩ năng sử dụng công nghệ thông tin và sử dụng thiết bị DH có hiệu quả.

+ Kĩ năng thuyết trình, truyền thụ kiến thức sao cho HS hứng thú, có cảm hứng và yêu thích môn học.

+ Kĩ năng đặt câu hỏi, dẫn dắt, nêu vấn đề trong DH.

+ Kĩ năng tương tác với HS một cách cực.

+ Kĩ năng xử lý các tình huống DH.

+ Cách lấy ví dụ để liên hệ, ứng dụng kiến thức bài học vào thực tiễn cuộc sống.

+ Kĩ năng sử dụng một số phương pháp và hình thức kiểm tra- đánh giá mới,

+ Kĩ năng thiết kế các đề kiểm tra -đánh giá theo tiếp cận phát triển năng lực HS.

+ Kĩ năng và cách thức phát triển chương trình môn học.

+  Hướng dẫn và tổ chức HS nghiên cứu khoa học, tự học …vv.

Đây là những vấn đề GV đang có nhu cầu cần bồi dưỡng nhiều nhất.

-Về năng lực GD và quản lý lớp học, cần tập trung bồi dưỡng GV:

+ Các kiến thức về đặc điểm tâm lý lứa tuổi HS hiện nay.

+ Kỹ năng tổ chức và quản lý lớp học (trong đó chú ý đến các vấn đề: cách xử lý hành vi vi phạm đạo đức và GD HS cá biệt; cách quản lý HS trong và ngoài giờ học; cách tổ chức hoạt động sinh hoạt tập thể cho HS;…)

+ Các phương pháp giảng dạy kỹ năng sống, giá trị sống cho HS.

+ Các kỹ năng mềm để kiềm chế cảm xúc tiêu cực và giao tiếp có hiệu quả với HS.

+ Kỹ năng ứng xử, giao tiếp, thiết lập mối quan hệ với đồng nghiệp, cha mẹ HS và tập thể GV trong nhà trường để phối hợp GD HS.

+ Kĩ năng thích ứng với sự thay đổi của môi trường GD mới.

+ Kĩ năng tổ chức hoạt động giáo dục hướng nghiệp đáp ứng yêu cầu chương trình phổ thông mới.

Để tránh những chuyên đề trùng lặp, chồng chéo, hàn lâm lí thuyết, xa rời thực tiễn, nội dung tài liệu bồi dưỡng phải có tính thiết thực, sát với yêu cầu đổi mới; chú trọng vào những kỹ năng hoạt động thực hành, làm mẫu để GV dễ dàng áp dụng .Việc biên soạn tài liệu cũng cần phải được thể hiện một cách đa dạng, tinh giản, gọn nhẹ, có bản in, bản điện tử, video clip, đĩa CD, cẩm nang hỏi đáp… Trong đó chú trọng việc “số hóa”, đưa lên mạng Internet tất cả các thông tin để tạo điều kiện cho GV  có thể tự học tập ở mọi nơi, mọi lúc.

 2.4. Đổi mới phương pháp, hình thức tổ chức bồi dưỡng

2.4.1.Về hình thức tổ chức bồi dưỡng: Đa dạng hóa các hình thức bồi dưỡng, song chú trọng 2 hình thức cơ bản: bồi dưỡng tập trung trực tiếp (tập huấn) và bồi dưỡng trực tuyến qua mạng.

 Hoạt động tập huấn cho GV có thể được thực hiện theo những hình thức khác nhau: tập huấn đại trà, tập huấn cho nhóm GV; tập huấn tập trung hoặc tập huấn tại cơ sở giáo dục. 

Để nâng cao hiệu quả việc bồi dưỡng bằng hình thức này và phát huy được tính tích cực của GV, cần thực hiện các bước sau :

+ Bước 1: Phát tài liệu, hướng dẫn sơ bộ cho GV về nội dung tài liệu. GV tự nghiên cứu tài liệu bồi dưỡng.

+ Bước 3: Tổ chức cho GV trao đổi về tài liệu học tập theo từng trường, cụm trường.

+Bước 4: Giảng viên trình bày lý thuyết, làm mẫu và minh họa bằng các ví dụ cụ thể.

+ Bước 5: GV/nhóm GV vận dụng lý thuyết, xem mẫu và thực hành qua một hoạt động sư phạm cụ thể.

+ Bước 6: Các nhóm trình bày kết quả sản phẩm thực hành và trao đổi, nhận xét về kết quả, sản phẩm của các nhóm.

+ Bước 7: Tổ chức giải đáp những nội dung GV chưa rõ hoặc chưa thống nhất cũng như giải đáp những câu hỏi, thắc mắc của GV nêu ra.

Cách tổ chức như vậy sẽ tránh được nhược điểm, hạn chế của phương pháp truyền thống theo kiểu giảng viên truyền thụ nội dung theo chiều từ trên xuống dưới rất thụ động.

Song cần lưu ý rằng, hình thức bồi dưỡng tập trung trực tiếp tuy là hình thức rất lý tưởng, nhưng nó ít gắn với thực tiễn lớp học và khó thực hiện trong điều kiện thời gian và kinh phí hạn hẹp. Vì vậy cần sử dụng hình thức này cho phù hợp với bối cảnh thực tế của GV và nhà trường.

– Bồi dưỡng trực tuyến (bồi dưỡng từ xa qua mạng Internet)

Tại hội thảo quốc tế lần thứ 19 về “Ứng dụng công nghệ thông tin và quản lý – ITAM” tổ chức đầu năm 2018 tại Trường Đại học Đông Á (Đà Nẵng), ông Pradeep Bastola, thuộc nhóm các nhà nghiên cứu Trường Đại học Lincoln (Mỹ) đã chỉ ra: “hiện có cuộc dịch chuyển từ phương pháp dạy và học truyền thống sang phương pháp học trực tuyến. Phương pháp này phát triển với tốc độ chưa bao giờ thấy trong lịch sử 10 năm qua và hứa hẹn sẽ tiếp tục tăng nhanh trong tương lai. Theo Economist, số người đăng ký học trực tuyến trên thế giới tăng từ khoảng 60 triệu người (năm 2016) lên khoảng 70 triệu người (năm 2017) [7]. Như vậy, việc học tập trực tuyến đang là xu thế chung của các nước.

Sử dụng hình thức học trực tuyến để bồi dưỡng cho GV là một giải pháp hay nhằm  giải quyết tình trạng bất bình đẳng trong cơ hội bồi dưỡng của GV và phát huy tinh thần tự học, tự bồi dưỡng của GV trên một qui mô rộng lớn khắp cả nước, từ thành thị, nông thôn cho đến hải đảo xa xôi và những vùng núi hẻo lánh. Hiện nay, khi công nghệ thông tin phát triển như vũ bão, chuyển sang thời kỳ Cách mạng 4.0, thì việc lựa chọn hình thức bồi dưỡng này được đặc biệt quan tâm, trong đó E- Learning là xu hướng tất yếu nhằm giúp GV có  thể học được ở mọi lúc, mọi nơi, phù hợp với trình độ, hoàn cảnh, thời gian, khoảng cách xa xôi về địa lí và  giảm được chi phí. Do phương thức này chú trọng vào người học và việc tự học nên cần một lượng tài liệu phong phú, đa dạng để giúp cho GV không mất quá nhiều thời gian cho việc tìm kiếm thông tin trên mạng. Để việc hỗ trợ GV  thành công hơn, cần tổ chức các buổi học trực tuyến để giảng viên trực tiếp gặp gỡ, trao đổi và giải đáp thắc mắc về những kiến thức quan trọng nhất cho người học. Những vấn đề giới thiệu lý thuyết, các tình huống thực tế, mô phỏng, bài giảng mẫu… sẽ để GV tự học qua mạng.

Hiện nay trang mạng “Trường học kết nối” đã được Bộ GD&ĐT khuyến khích GV sử dụng như là một phương thức để bồi dưỡng và tự bồi dưỡng cho GV. Vì vậy cần phát huy hiệu quả  trang mạng này để thực hiện tốt việc bồi dưỡng theo nhu cầu của từng cá nhân.

Bên cạnh đó, việc sử dụng facebook để tạo lập, liên kết với một nhóm GV cũng là một hình thức cần được khuyến khích sử dụng để bồi dưỡng lẫn nhau. Qua trang này, mọi GV đều được chia sẻ, học tập kinh nghiệm và giải đáp vướng mắc trong các công việc giảng dạy, giáo dục HS.

Có thể nói, các hình thức dựa trên ứng dụng ICT rất giá trị, đem lại nhiều tiện ích đối với việc bồi dưỡng GV trong bối cảnh hiện nay. Các Sở GD&ĐT, các trường ĐHSP và cơ sở bồi dưỡng GV cần vận dụng tốt phương thức này để gắn kết mọi GV là thành viên của cộng đồng học tập qua mạng.

Cả hai hình thức bồi dưỡng tập trung, trực tiếp và trực tuyến qua mạng Internet cần kết hợp chặt chẽ với nhau, không nên tuyệt đối hóa vai trò của bất cứ hình thức nào và phải có tư vấn, hỗ trợ của giảng viên sư phạm/ đội ngũ cán bộ cốt cán cơ sở.

Ngoài những hình thức bồi dưỡng trên, cần vận dụng linh hoạt các hình thức khác như: Hội thảo, xemine, sinh hoạt cụm chuyên môn; dự giờ đồng nghiệp, tự học, tự bồi dưỡng qua sách, tài liệu để phát triển cộng đồng học tập trong GV tại cơ sở.

Việc tổ chức cho GV tham quan thực tế tại các trường phổ thông chất lượng cao để học hỏi, trao đổi kinh nghiệm trong giảng dạy, GD cũng là một trong những hình thức cần được đẩy mạnh, vì nó đem lại nhiều điều bổ ích cho chúng tôi nhiên, cần lựa chọn những  mô hình trường tham quan tiêu biểu.

2.4.2. Về địa điểm tổ chức bồi dưỡng:  không nên đưa GV đến những nơi qúa xa, nhất là những  khu du lịch, nghỉ mát. Điều này dẫn đến tình trạng GV học tập thì ít mà nghỉ mát thì nhiều. Bức xúc về tình trạng này, Đinh Xuân Lâm trong nhiều năm trước đây đã từng lên tiếng:“Cần chấm dứt kiểu bồi dưỡng tập trung GV đi biển mùa hè nghe báo cáo…Tôi đã từng đi báo cáo về SGK lớp 10, dăm ba buổi họ ngồi nghe, nhưng có thiết thực gì mấy đâu” [12]. Theo kinh nghiệm của một số nước như Đức, Anh, Nhật Bản, Hàn Quốc, Phần Lan, Singgapo [4]…họ rất coi trọng việc bồi dưỡng tại chỗ cho GV. Điều đó không chỉ gắn việc bồi dưỡng những nội dung lí thuyết với thực tiễn tại môi trường lớp học, mà còn giảm khó khăn về giao thông đi lại, về thời gian lưu trú và kinh phí. Theo kết quả điều tra, khảo sát năm 2018 của chúng tôi, phần lớn GV có nhu cầu  tổ chức tại các cụm trường THPT, các Trung tâm GD thường xuyên của huyện, hoặc có thể tổ chức tại các trường đại học, cao đẳng sư phạm (nếu ở gần) để khai thác và phát huy thế mạnh của các đơn vị này trong công tác bồi dưỡng.

2.4.3.Về phương pháp bồi dưỡng

 Chú trọng việc bồi dưỡng GV tại đơn vị cơ sở (xây dựng cộng đồng học tập trong nhà trường), hướng GV đi vào con đường tự học, tự nghiên cứu để mở rộng, nâng cao kiến thức chuyên môn, nghiệp vụ.

     2.5.Đổi mới công tác quản lí bồi dưỡng

      Để khắc phục tình trạng quản lí nặng tính hành chính và hình thức, công tác quản lí bồi dưỡng cần phải đổi mới một cách căn bản. Cần lựa chọn các hình thức đánh giá phù hợp, linh hoạt, mềm dẻo để thúc đẩy động cơ phát triển nghề nghiệp của GV. Trong đó, không so sánh, không xếp thứ hạng, không cho điểm và nhận xét GV. Điều đó không có nghĩa là buông lỏng mà chính là thể hiện sự tín nhiệm và tin cậy vào khả năng tự phát triển của GV. Mặt khác, phải giải phóng GV thoát khỏi những ràng buộc hành chính để họ có thể tự do học tập và sáng tạo. Đây chính là bí quyết thành công trong công tác bồi dưỡng GV của một số nước. Bên cạnh đó, nên giảm số tiết lên lớp mỗi ngày cho GV để họ có thời gian cùng nhau trao đổi chuyên môn, rút kinh nghiệm và góp ý các tiết dạy sau được tốt hơn. 

         Trong quá trình triển khai bồi dưỡng trực tuyến, để khắc phục tình trạng GV không tham gia, các cơ sở tổ chức bồi dưỡng cần phối hợp chặt chẽ với các cơ quan quản lý GV (Sở GD&ĐT, Phòng GD&ĐT, các trường phổ thông) để giám sát, đánh giá và công nhận kết quả bồi dưỡng của GV một cách hiệu quả. 

            Về nội dung bồi dưỡng, cần kiểm tra – đánh giá trên các phương diện:

– Nhận thức của GV  về các vấn đề đã được bồi dưỡng;

-Sự vận dụng những kiến thức, kỹ năng được bồi dưỡng vào thực tiễn DH- GD ở nhà trường của GV và hiệu quả của nó.

-Đánh giá sự phù hợp của nội dung, phương pháp, hình thức tổ chức bồi dưỡng GV.                Từ đó tìm ra những bất cập, hạn chế, những điểm cần rút kinh nghiệm và tiến hành cải tiến hoạt động bồi dưỡng GV được tốt hơn.

Bên cạnh đó, để nâng cao hiệu quả của các đợt bồi dưỡng GV, cần tăng cường cơ sở vật chất, trang thiết bị và đầu tư thỏa đáng về kinh phí cho công tác bồi dưỡng GV, nhất là hạ tầng công nghệ thông tin phục vụ cho việc tự học, tự bồi dưỡng của GV và tổ chức bồi dưỡng qua mạng.

     2.6. Sử dụng đội ngũ giảng viên sư phạm cốt cán, phát huy thế mạnh của các trường sư phạm trong công tác bồi dưỡng GV

Giảng viên các trường ĐHSP phải là lực lượng chủ yếu trong các đợt tập huấn, bồi dưỡng để đảm bảo chất lượng của đội quân “chuyên nghiệp” đi dạy nghề, tránh để các trường sư phạm “đứng ngoài cuộc nhìn vào” hoặc chỉ đóng vai trò “được mời tham gia” như thời gian dài trước đây.

          Trong công cuộc đổi mới căn bản và toàn diện nền GD Việt Nam, Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XI đã coi các trường sư phạm là “cái nóc nhà” của đổi mới giáo dục. Sứ mệnh của nó không chỉ là đào tạo ra đội ngũ GV đáp ứng yêu cầu thực tiễn của GDPT mà còn phải có nhiệm vụ hỗ trợ, bồi dưỡng để phát triển năng lực nghề nghiệp suốt đời cho GV. Vì thế, Dự án ETEP của Bộ GD&ĐT đã chọn 7 trường ĐHSP và Học viện QLGD để thúc đẩy việc bồi dưỡng thường xuyên cho đội ngũ GVPT dưới hình thức trực tiếp và trực tuyến. Theo Dự án này, sẽ có khoảng 280 giảng viên sư phạm được lựa chọn từ các trường ĐHSP chủ chốt được bồi dưỡng, tăng cường năng lực để làm nhiệm vụ bồi dưỡng GV phổ thông cốt cán trong quá trình bồi dưỡng thường xuyên, liên tục tại trường phổ thông cho các GV khác.

            Với vai trò, nhiệm vụ như vậy, giảng viên các trường ĐHSP  tới đây sẽ  trở thành lực lượng nòng cốt trong việc bồi dưỡng phát triển nghề nghiệp của GV.

        Muốn thực hiện được điều này, các trường sư phạm phải làm những việc sau đây:

     – Xây dựng được cơ chế, chính sách để điều khiển mối quan hệ giữa Trường ĐHSP với trường phổ thông theo mô hình cung ứng- dịch vụ trong công tác bồi dưỡng GV. Đặc biệt, phải tạo ra được chính sách giảm thiểu tối đa sự can thiệp nặng về hành chính của hệ thống gián tiếp (phòng/ sở) để trường ĐHSP và trường phổ thông phải chịu trách nhiệm trước xã hội. Như vậy việc bồi dưỡng trực tiếp từ trường sư phạm cho GV mới thuận lợi và tránh được những rào cản cũng như sự chồng chéo.

– Có hợp đồng trách nhiệm ba bên giữa Trường ĐHSP với cơ quan quản lý và cơ sở giáo dục phổ thông trong hoạt động bồi dưỡng GV dựa trên chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và lợi ích của từng bên.

– Xây dựng chương trình, tài liệu bồi dưỡng GV chuẩn mực để GV dễ dàng học tập.

– Đặc biệt, cần có đội ngũ giảng viên cốt cán giỏi về chuyên môn- NVSP, giàu kinh nghiệm và rất am hiểu thực tiễn phổ thông để trực tiếp làm nhiệm vụ bồi dưỡng GV.

– Xây dựng được hạ tầng công nghệ thông tin, mạng internet kết nối với GV các trường phổ thông .

– Được cấp kinh phí từ ngân sách nhà nước để chi trả cho các hoạt động bồi dưỡng GV. Đây là điều kiện thiết yếu, vì nếu không có kinh phí thì không thể triển khai được hoạt động bồi dưỡng. Bên cạnh đó, cần phối hợp với các Sở GD&ĐT, các trường THPT để có thêm nguồn kinh phí chi trả cho các hoạt động này.

Cuối cùng, phải nâng cao nhận thức và trách nhiệm của giảng viên trong việc kết nối, hòa nhập với trường phổ thông để tiến hành bồi dưỡng, bảo trì sản phẩm đầu ra của mình đạt chất lượng tốt.

2.7. Nâng cao ý thức, trách nhiệm tự học, tự bồi dưỡng của GV, có sự hướng dẫn của  GV cốt cán, chuyên gia giáo dục

GV muốn trở thành những người biết học tập suốt đời và tự bồi dưỡng thì rất cần có kĩ năng giao tiếp (lắng nghe và phản hồi tích cực); kĩ năng đặt câu hỏi và kĩ năng sử dụng công nghệ thông tin… để trực tiếp trao đổi, học hỏi từ các chuyên gia, giảng viên cũng như khai thác mạng Internet. Đồng thời, phải dành một lượng thời gian phù hợp để tự trau dồi nghiệp vụ, tham gia các khóa huấn luyện, bồi dưỡng.

Trong hoạt động tự học, tự bồi dưỡng, GV cần được làm việc trực tiếp và tương tác sâu với các chuyên gia, các nhà nghiên cứu GD và những người đào tạo GV. Ở đó, vai trò của họ là những người học tích cực, đồng thời là những người hợp tác, đồng thiết kế và là những người thực hiện, triển khai các ý tưởng từ chương trình vào trong thực tế lớp học. Họ được tham gia vào một cộng đồng học tập chuyên nghiệp, giúp họ có những biến chuyển sâu sắc trong nhận thức cũng như trong các hoạt động thực hành DH ở trên lớp, từ đó dần phát triên chuyên môn và năng lực nghề nghiệp của mình.

3. Kết luận

  

                                              Tài liệu tham khảo

1.      Phạm Thị Kim Anh (2017)- Trường ĐHSP trong việc bồi dưỡng phát triển năng lực nghề nghiệp cho GV phổ thông đáp ứng yêu cầu đổi mới GD (Kỷ yếu Hội thảo “Bồi dưỡng GV và CBQL GD đáp ứng yêu cầu đổi mới GDPT”. NXBĐH Thái Nguyên, Tháng 11 năm 2017, tr 33-40). ISBN: 978-604-915-575-8.

2.     Phạm Thị Kim Anh (2015)-Chất lượng bồi dưỡng giáo viên phổ thông hiện nay-Thực trạng và biện pháp. Kỷ yếu HT Quốc gia “Nâng cao chất lượng đào tạo bồi dưỡng GV và cán bộ QLGD”  Từ 31/10-1/11/2015- Đại học Vinh.

3.      Phạm Thị Kim Anh (2018)-Yêu cầu đổi mới GDPT và những vấn đề đặt ra đối với công tác bồi dưỡng đội ngũ GV THPT hiện nay .T/C Dạy và học ngày nay, tháng 9/2018, tr 30-33.

4.      Phạm Thị Kim Anh (2017)– Giải pháp hỗ trợ hoạt động nghề nghiệp cho GV trẻ (kinh nghiệm dưới 3 năm) của trường ĐHSP trong đào tạo giáo viên. Đề tài nhiệm vụ thường xuyên theo chức năng năm 2017. Viện NCSP-ĐHSP Hà Nội.

5.     Hoàng Thị Kim Huệ (2017)-Xây dựng bộ công cụ, đề xuất phương án khảo sát đánh giá năng lực và nhu cầu bồi dưỡng của GV phổ thông theo chuẩn nghề nghiệp”. MS HD12.Trường ĐHSP Hà Nội (Chương trình ETEP).

6.     Bộ GD&ĐT(2018)- Kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng GV phổ thông thực hiện chương trình, sách giáo khoa giáo dục phổ thông mới. số 270/KH-BGDDT, ngày 2 tháng 5 năm 2018, tr1.

7.      Thế Đan -Học trực tuyến: Tốc độ phát triển nhanh mở ra kỷ nguyên đào tạo mới, ngày 24.11.2018. http://etep.moet.gov.vn/tintuc/chitiet?Id=798.

8. Lê Đức Giang- Kiều Phương Chi (2018)-“ Nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng Giáo viên THPT đáp ứng đổi mới giáo dục phổ thông”. http://etep.moet.gov.vn/tintuc/chitiet?Id=540

9. Nguyễn Vinh Hiển- Trong bài: “Đổi mới tất cả các thành tố trong bồi dưỡng giáo viên”của Nguyễn Nhung. Báo GD&TĐ Ngày 21.2.2018. chúng tôi tr1

10. Kỷ yếu HT Quốc gia “Nâng cao chất lượng đào tạo bồi dưỡng GV và cán bộ QLGD”  Từ 31/10-1/11/2015- Đại học Vinh.

11. Kỷ yếu Hội thảo “Bồi dưỡng GV và CBQL GD đáp ứng yêu cầu đổi mới GDPT”. NXBĐH Thái Nguyên, Tháng 11 năm 2017, tr 33-40). ISBN: 978-604-915-575-8.

12. Đinh Xuân Lâm (2008)- Trong bài: “Hội Lịch sử kiến nghị thay đổi chương trình, SGK  và viết lại sách”, http://www.xaluan.com/modules.php?name=News&file=article&sid=43305.

13. Hoàng Đức Minh,  trong bài “Điểm nhấn trong bồi dưỡng giáo viên, CNQL theo chuẩn” của Hiếu Nguyễn. https://giaoducthoidai.vn/giao-duc/diem-nhan-trong-boi-duong-giao-vien-cbql-theo-chuan-3907354.html. Ngày 23.11.2017.

Nguyễn Danh Nam (2017). Khảo sát đánh giá nhu cầu bồi dưỡng giáo viên và cán bộ quản lý các cấp ở khu vực được phân công trong Chương trình ETEP – Khảo sát sâu tại Thái Nguyên. Đề tài Nghiên cứu Khoa học và Công nghệ cấp cơ sở (Chương trình ETEP), Trường Đại học Sư phạm – Đại học Thái Nguyên

Tóm tắt: Việc bồi dưỡng nâng cao năng lực cho đội ngũ giáo viên (GV) để “đón đầu” thực hiện chương trình giáo dục (CTGD) phổ thông  mới đang là một trong những vấn đề trọng tâm và cấp bách nhằm trang bị cho đội ngũ GV có đủ năng lực đáp ứng với yêu cầu đổi mới giáo dục (GD). Để góp phần nâng cao chất lượng công tác bồi dưỡng GV, trong bài báo này chúng tôi tập trung nêu và phân tích 7 biện pháp cơ bản sau đây: (1) Khảo sát nhu cầu, phân loại đối tượng, lập kế hoạch bồi dưỡng sát với yêu cầu và năng lực của GV;(2) Phân công và phân cấp bồi dưỡng một cách rõ ràng;(3) Xây dựng nội dung chương trình bồi dưỡng thiết thực, chuyên sâu và dựa trên nhu cầu của GV; (4) Đổi mới phương pháp, hình thức tổ chức bồi dưỡng; (5) Đổi mới công tác quản lí bồi dưỡng; (6)Sử dụng đội ngũ giảng viên sư phạm cốt cán, phát huy thế mạnh của các trường sư phạm trong công tác bồi dưỡng GV;  (7) Nâng cao ý thức, trách nhiệm tự học, tự bồi dưỡng của GV, có sự hướng dẫn của các GV cốt cán và chuyên gia giáo dục. Những biện pháp này là những thành tố quan trọng không thể thiếu được trong công tác bồi dưỡng.

        Từ khóa: Biện pháp, chất lượng, bồi dưỡng giáo viên,  THPT, đổi mới giáo dục.

Some measures to improve the quality of upper higher school’ teacher training in order to meet the educational innovation’s requirements

Abstract: Training to improve teachers’ competencies to “anticipate” the implementation of the new general education curriculum is one of the key and urgent issues to equip qualified teachers to meet the education innovation’s requirements. In order to contribute to improving the quality of teacher training, in this paper, we focus on introducing and analyzing the following 7 basic measures: (1) Do well the needs survey, classification of objects for training plan closely to teachers’ requirements and their competencies; (2) Assign and decentralize training clearly; (3) Develop content of practical, intensive and demand-based training program; (4) Innovating methods and forms of training; (5) Innovating management work; (6) Using a team of core pedagogical teachers, promoting the strengths of universities of education in teacher training; (7) Raising teachers’ awareness and responsibilities of self-study and self-training, with the guidance of core teachers and educational experts. These measures are important components indispensable in the teachers’ training.

Keywords: Measure, Quality, teacher training, upper higher school, educational innovation

Một Số Giải Pháp Nâng Cao Bình Đẳng Giới Đáp Ứng Yêu Cầu Phát Triển Và Bảo Đảm Quyền Con Người Ở Việt Nam

Quyền con người là thành quả phát triển lâu dài của lịch sử nhân loại, là tài sản chung của các dân tộc. Trong xã hội hiện đại, quyền con người được xem như là “thước đo” của sự tiến bộ và trình độ văn minh của các xã hội, không phân biệt chế độ chính trị, trình độ phát triển hay bản sắc văn hóa. Nguồn gốc tư tưởng về quyền con người có từ lâu đời, xuất phát từ các nền văn hóa, tôn giáo và học thuyết ở cả phương Đông và phương Tây. Cho đến nay “Tuyên ngôn thế giới về quyền con người” và hai Công ước: “Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị”; “Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn hoá”, năm 1966 được xem là Bộ luật quốc tế về quyền con người. Đồng thời đây cũng là cơ sở lý luận – thực tiễn của khái niệm quyền con người. Từ khái niệm quyền con người có thể nhận thấy Bình đẳng giới là một quyền của con người. Sau nhiều năm, nhiều quốc gia trên thế giới đã nhận thấy cần phải thay đổi nhận thức về phụ nữ, cho họ được quyền sống với phẩm giá và tự do mong muốn, và tự do khỏi sợ hãi. Bình đẳng giới cũng được coi là điều kiện tiên quyết để thúc đẩy phát triển và xóa đói giảm nghèo. Theo dòng lịch sử, ngay từ bản Hiến pháp đầu tiên năm 1946 Việt Nam đã khẳng định: “đàn bà ngang quyền với đàn ông về mọi phương diện (Điều 9)”. Sau đó các bản Hiến pháp 1959, 1980, 1992 đều thể hiện nguyên tắc này. Thể chế hóa Cương lĩnh của Đảng, Hiến pháp 2013 đã dành một chương (Chương II) quy định về quyền con người, quyền và nghĩa vụ công dân. Trong chương II, các nguyên tắc về quyền con người cũng như những quy định cụ thể về các quyền dân sự, chính trị, kinh tế, xã hội và văn hóa đã được liệt kê đầy đủ tương thích với các công ước quốc tế về quyền con người mà Việt Nam đã gia nhập hoặc phê chuẩn. Hiến pháp 2013 quy định: “1. Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật. 2. Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng.” (Điều 14 Chương II). Điều 26 quy định: “1. Công dân nam, nữ bình đẳng về mọi mặt. Nhà nước có chính sách bảo đảm quyền và cơ hội bình đẳng giới. 2. Nhà nước, xã hội và gia đình tạo điều kiện để phụ nữ phát triển toàn diện, phát huy vai trò của mình trong xã hội. 3. Nghiêm cấm phân biệt đối xử về giới.” … Quy định nghiêm cấm sự phân biệt đối xử về giới đã được thay thế cho quy định nghiêm cấm mọi hành vi phân biệt đối xử với phụ nữ, xúc phạm nhân phẩm phụ nữ được nêu trong Hiến pháp 1992 tại điều 63. Như vậy, có sự thay đổi trong cách tiếp cận về bình đẳng giới, đó là không chỉ nhấn mạnh sự phân biệt đối xử với riêng giới nữ mà là bình đẳng cho cả hai giới. Để nâng cao bình đẳng giới, đáp ứng yêu cầu phát triển và bảo đảm quyển con người ở Việt Nam, chúng ta cần làm tốt một số vấn đề sau: Thứ nhất, nâng cao nhận thức về bình đẳng giới Có thể nói tình trạng nhận thức sai lầm, thiếu hụt, lệch lạc về giới và bình đẳng giới cần phải sớm được khắc phục. Trong nhận thức nói chung của xã hội có thể vẫn còn nhiều người cho rằng bảo đảm bình đẳng giới là đem lại nhiều quyền và cơ hội hơn cho nữ giới. Có trường hợp lại cho rằng bình đẳng giới là xóa bỏ sự khác biệt về giới trong tất cả các lĩnh vực của cuộc sống, là việc đàn ông cũng phải làm những công việc như phụ nữ và ngược lại. Tuy nhiên tình trạng “trọng nam, khinh nữ” vẫn đang là một vấn đề tư tưởng lớn, hạn chế không chỉ quyền của nữ giới mà còn hạn chế cả sự phát triển của xã hội. Bình đẳng giới cũng như quyền con người là một chỉ báo về sự tiến bộ của xã hội. Bình đẳng giới nếu được giảm thiểu tất yếu sẽ tạo điều kiện cho nữ giới đóng góp nhiều hơn cho phát triển. Cho đến nay chưa có giải thích nào thỏa đáng cho tỷ lệ nữ thấp, thậm chí là rất thấp trong các cơ quan lãnh đạo Đảng và Nhà nước ở các cấp. Tình trạng này chỉ có thể được trả lời thỏa đáng là do nhận thức của chính cán bộ, Đảng viên, công chức của Đảng và nhà nước về giới vẫn còn lạc hậu. Điều này không chỉ bởi sự lạc hậu trong nhận thức của nam giới mà ở cả nữ giới. Nói rằng bất bình đẳng giới bắt nguồn từ văn hóa, từ sự lạc hậu của phương Đông là chưa thỏa đáng. Trên thế giới đã có không ít phụ nữ từng là nguyên thủ quốc gia… Thứ hai, thực hiện tốt Luật Bình đẳng giới; hoàn thiện chính sách, chiến lược, chương trình mục tiêu quốc gia về bình đẳng giới. Ngay từ khi chưa trở thành thành viên của Liên hợp quốc, Nhà nước ta đã tự nhận trách nhiệm, cam kết thực hiện những công ước quốc tế quan trọng về quyền con người. Năm 1982, Việt Nam đã gia nhập các công ước sau: Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị, 1966; Công ước quốc tế về các quyền kinh tế xã hội và văn hóa, 1966 và Công ước về xóa bỏ tất cả các hình thức phân biệt đối xử với nữ giới, 1979. Ngay sau khi gia nhập các công ước nói trên Nhà nước ta đã có nhiều hoạt động bảo đảm các quyền con người theo những chuẩn mực của công ước, trong đó có công tác xây dựng và hoàn thiện pháp luật. Trong lĩnh vực bình đẳng giới, Nhà nước ta đã hoàn thiện Luật Hôn nhân gia đình. Có thể nói vấn đề bình đẳng giới đã sớm được luật hóa trong pháp luật Việt Nam. Đồng thời luật này thường xuyên được cập nhật, sửa chữa, bổ sung phù hợp với sự phát triển của tư duy chính trị – pháp lý của Đảng và Nhà nước ta. Năm 1959, Việt Nam lần đầu tiên có luật về Hôn nhân gia đình. Sau khi gia nhập công ước về xóa bỏ tất cả các hình thức phân biệt đối xử với nữ giới, năm 1986. Cho đến nay, Việt Nam đã sửa đổi luật này trở thành Luật Hôn nhân gia đình năm 1914. Năm 2006, Nhà nước ta ban hành Luật Bình đẳng giới. Sau đó,Việt Nam cũng đã ban hành Chiến lược Quốc gia về bình đẳng giới ( 2011-2020). Để thực hiện chính sách, pháp luật về bình đẳng giới, từ thực tiễn chúng ta cần cần tập trung những vấn đề cơ bản sau: Trước hết, cần nâng cao năng lực quản lý Nhà nước về bình đẳng giới. Trên cơ sở chủ trương, chính sách, pháp luật đã được ban hành các ngành, các cấp cần cụ thể hóa các mục tiêu trong các chính sách, chương trình, dự án công tác. Các cơ quan tổ chức cần đề ra chỉ tiêu phấn đấu cụ thể lồng ghép trong các nhiệm vụ, giải pháp của cơ quan, đơn vị. Thứ hai, trên cơ sở chương trình của tỉnh được phê duyệt, các cấp, các ngành xây dựng cần lập kế hoạch thực hiện các mục tiêu đã đề ra trên các lĩnh vực. Chẳng hạn về chính trị cần có chỉ tiêu về tỷ lệ nữ tham gia cơ quan dân cử, cấp ủy, lãnh đạo đoàn thể xã hội; cần có chương trình học tập, đào tạo nâng cao trình độ, bao gồm kỹ năng lãnh đạo, quản lý cho nữ giới. Trên lĩnh vực kinh tế các ngành, các cấp cần quan tâm đến các dịch vụ mà nữ giới có thể tham gia. Trong điều kiện kinh tế thị trường các cơ quan tổ chức nhất là các đoàn thể cần có kế hoạch thu hút các tập đoàn, doanh nghiệp công ty trên địa bàn tuyên truyền phổ biến về Luật Lao động, Luật Bình đẳng giới nhằm bảo vệ quyền của nữ giới trong lao động. Thứ ba, tập trung xử lý những vấn đề “nóng” về giới. Phòng chống bạo lực trên cơ sở giới và tệ nạn buôn bán phụ nữ, trẻ em gái, lạm dụng tình dục đang là những vấn đề ” nóng” cần giải quyết. Lãnh đạo Đảng, Chính quyền các cấp cần đặc biệt quan tâm vấn đề này. Các cơ quan pháp luật cần có biện pháp xử lý nghiêm những vi phạm pháp luật trong lĩnh vực này. Thậm chí có thể sửa đổi pháp luật, nâng cao khung hình phạt đối với các tội phạm về bạo lực giới, buôn bán và lạm dụng tình dục đối với nữ giới. Cần nhân rộng các mô hình tuyên truyền về bình đẳng giới như “Câu lạc bộ bình đẳng giới”, tổ công tác “tư vấn, hỗ trợ bạo lực giới”, xây dựng “Nhà tạm lánh” hỗ trợ người bị bạo hành về giới. Thứ tư, loại bỏ các phong tục tập quán lỗi thời, lạc hậu mang tính định kiến giới. Ở Việt Nam hiện nay, phong tục tập quán vẫn có giá trị quan trọng trong đời sống con người, trong đó có cả những phong tục tập quán văn minh, tiến bộ đồng thời vẫn có những phong tục, tập quán lỗi thời lạc hậu, vi phạm quyền con người, trong đó có quyền bình đẳng nam nữ. Vì vậy, nhà nước cần áp dụng những phong tục tập quán tích cực, loại trừ dần những quy định lỗi thời, có hại cho phụ nữ, trẻ em. Thứ năm, thu hẹp khoảng cách về giới tại nơi làm việc. Pháp luật đã có quy định cụ thể về nghiêm cấm các hành vi phân biệt đối xử dựa trên giới tính, song cần bảo đảm việc thực thi pháp luật về bình đẳng giới trên thực tế. Cần nâng cao nhận thức của nhân dân về lợi ích kinh tế và xã hội của bình đẳng giới và thay đổi tư duy của người sử dụng lao động nhằm gỡ bỏ những định kiến và rào cản văn hóa đối với cả hai giới. Nhà nước giúp các cơ sở lao động có cơ chế linh hoạt đối với lao động trong lĩnh vực thai sản, cung cấp và xã hội hóa các dịch vụ hỗ trợ chăm sóc trẻ em để tạo điều kiện tốt nhất cho người lao động dù họ là phụ nữ hay nam giới; đảm bảo phụ nữ và nam giới được tạo cơ hội bình đẳng trong các chương trình đào tạo và hướng dẫn đặc biệt. Bình đẳng giới nói riêng, bình đẳng nói chung là một trong những nguyên tắc quan trọng nhất của quyền con người. Có thể nói, bất bình đẳng giới tác động tiêu cực và ngược lại bình đẳng giới sẽ là đòn bẩy để thúc đẩy phát triển và bảo đảm quyền con người, điều này là tất yếu với không chỉ riêng một quốc gia nào. Trong bối cảnh toàn cầu hóa, quyền con người đã tạo nên lãnh địa chung duy nhất trên toàn cầu, trong đó phụ nữ và nam giới là hai người chủ có vai trò quan trọng như nhau trong việc xây dựng nên ngôi nhà chung. Trong ngôi nhà chung đó, từ chính trị đến kinh tế, văn hóa, xã hội, lao động, giáo dục… đều đòi hỏi có sự bình đẳng trong việc phân công cũng như trong cơ hội tiếp cận dành cho cả hai người. Bảo đảm bình đẳng giới cần được thực hiện không chỉ từ góc độ pháp luật mà còn cần có sự thay đổi từ nhận thức đến hành vi của mỗi cá nhân trong cộng đồng nhân loại, trong đó giá trị đạo đức và văn hóa của mỗi quốc gia đóng vai trò đặc biệt quan trọng./. ThS. Tô Vũ Ninh Phó Hiệu trưởng Trường Chính trị Hoàng Đình Giong

Những tin cũ hơn

Những tin mới hơn

Bạn đang đọc nội dung bài viết Một Số Giải Pháp Phát Triển Đội Ngũ Giảng Viên Trường Cao Đẳng Hàng Hải Đáp Ứng Yêu Cầu Đổi Mới Giáo Dục trên website Photomarathonasia.com. Hy vọng một phần nào đó những thông tin mà chúng tôi đã cung cấp là rất hữu ích với bạn. Nếu nội dung bài viết hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!