Cập nhật nội dung chi tiết về Một Số Giải Pháp Nâng Cao Chất Lượng Công Tác Tập Hợp Phụ Nữ, Phát Triển, Quản Lý Hội Viên Trong Giai Đoạn Hiện Nay mới nhất trên website Photomarathonasia.com. Hy vọng thông tin trong bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu ngoài mong đợi của bạn, chúng tôi sẽ làm việc thường xuyên để cập nhật nội dung mới nhằm giúp bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.
Để thực hiện tốt các chỉ tiêu Nghị quyết đại hội phụ nữ các cấp nhiệm kỳ 2016-2021. Nửa nhiệm kỳ còn lại các cấp Hội triển khai đồng bộ các giải pháp sau đây để đảm bảo đến cuối nhiệm kỳ đạt được các chỉ tiêu Nghị quyết đề ra.
1. Đối với Hội LHPN xã/phường/thị trấn đã đạt chỉ tiêu Nghị quyết. 1.1. Tiếp tục tập trung nâng cao chất lượng hội viên, đa dạng hóa các hình thức tập hợp phụ nữ.
– Đổi mới nội dung, hình thức sinh hoạt hội viên theo hướng sinh hoạt chuyên đề, truyền thông tương tác thông qua tổ chức các trò chơi, thăm quan học tập kinh nghiệm, hái hoa dân chủ, các câu lạc bộ chăm lo đời sống tinh thần;
– Đa dạng hóa các hình thức xây dựng quỹ hội nhưng phải tuân thủ quy định của Điều lệ Hội và pháp luật về kế toán, tài chính; chủ động khai thác nguồn lực để tổ chức các hoạt động Hội và hỗ trợ hội viên, phụ nữ;
– Mở rộng các loại hình tập hợp hội viên, bên cạnh việc duy trì mô hình sinh hoạt chi, tổ truyền thống theo địa bàn dân cư cần tích cực khuyến khích các mô hình tập hợp theo đặc thù lứa tuổi, tôn giáo, sở thích, ngành nghề dưới dạng tổ, nhóm, câu lạc bộ, mạng lưới và thông qua các trang mạng xã hội như zalo, facebook, fanpage.
1.2. Thiết thực chăm lo, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng cho các tầng lớp phụ nữ nhằm tạo ra sự bền vững, hiệu quả, thực chất trong công tác tập hợp phụ nữ, phát triển hội viên
– Tiếp tục tổ chức các hoạt động Hội giải quyết những vấn đề bức thiết đặt ra đối với phụ nữ thông qua việc tiếp tục đẩy mạnh các hoạt động chăm lo đời sống vật chất, tinh thần cho hội viên, phụ nữ (tư vấn việc làm, hỗ trợ vốn vay, tập huấn/hướng dẫn khởi nghiệp/khởi sự doanh nghiệp, tư vấn, giới thiệu nghề; bảo vệ khi quyền bị vi phạm…);
– Tổng kết, rút kinh nghiệm, nhân rộng các mô hình tập hợp phụ nữ, phát triển hội viên hiệu quả. Động viên khen thưởng đối với những cơ sở làm tốt công tác tập hợp phụ nữ, phát triển hội viên và có những mô hình, cách làm hay;
– Thường xuyên tổ chức các lớp bồi dưỡng nâng cao năng lực đội ngũ làm công tác tập hợp phụ nữ, phát triển hội viên, đặc biệt là Chủ tịch Hội LHPN cấp cơ sở và Chi hội trưởng. Đồng thời, các cấp Hội phát hiện và bồi dưỡng đội ngũ cộng tác viên, tình nguyện viên, những cá nhân tích cực đứng đầu các tổ, nhóm, câu lạc bộ, mạng lưới.
1.3. Làm tốt công tác quản lý hội viên
– Tiếp tục cập nhật dữ liệu hội viên (tình hình biến động, bổ sung các thông tin chưa đầy đủ trên cơ sở tự nguyện và tuyên truyền để hội viên tự giác cung cấp phục vụ công tác quản lý của tổ chức).
2. Đối với Hội LHPN xã/phường/thị trấn chưa đạt chỉ tiêu Nghị quyết
Ngoài việc thực hiện các giải pháp nêu trên, cần tập trung nguồn thực hiện tốt một số nội dung sau:
– Xây dựng kế hoạch hướng dẫn, hỗ trợ cơ sở hoàn thành chỉ tiêu trong năm 2020 (để đến năm 2021 tập trung cho tổ chức Đại hội).
– Củng cố, đa dạng các mô hình tập hợp phụ nữ, phát triển hội viên thông qua CLB, tổ tư vấn… cải tiến chất lượng sinh hoạt hội viên.
– Tập trung các nguồn lực, lồng ghép tổ chức các hoạt động, các chương trình, Đề án, Chương trình đồng hành cùng phụ nữ biên cương…
– Tập huấn cho Chủ tịch Hội LHPN các xã, phường về cách xác định các thành phần hội viên, cách tính tỷ lệ hội viên, quy định về các hình thức sinh hoạt hội viên theo Điều lệ, Hướng dẫn thực hiện Điều lệ Hội hiện hành và thực hành một số kỹ năng tổ chức sinh hoạt hội viên, truyền thông tương tác, thành lập và vận hành mô hình câu lạc bộ, tổ, nhóm đặc thù nhằm tăng tính hấp dẫn trong sinh hoạt hội viên.
Hội LHPN tỉnh
Một Số Giải Pháp Nâng Cao Chất Lượng Dân Số Việt Nam Trong Giai Đoạn Hiện Nay
(Quanlynhanuoc.vn) – Dân số vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển, do đó, công tác dân số luôn là một trong những vấn đề rất được quan tâm của nhiều quốc gia trên thế giới ở mọi thời đại bởi dân số và phát triển có mối quan hệ khăng khít, hỗ trợ và thúc đẩy lẫn nhau. Muốn tăng trưởng và phát triển kinh tế – xã hội phải dựa vào yếu tố cơ bản là nguồn nhân lực, mà nguồn nhân lực lại gắn liền với sự biến đổi dân số về cả số lượng và chất lượng; đồng thời sự biến đổi dân số còn thúc đẩy quá trình phát triển nguồn nhân lực. Nâng cao chất lượng dân số sẽ tạo nền tảng cho sự phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao góp phần phát triển đất nước nhanh, bền vững của mỗi quốc gia.
Thực trạng chất lượng dân số của Việt Nam
Chất lượng dân số là sự phản ánh các đặc trưng về thể chất, trí tuệ và tinh thần của toàn bộ dân số. Chất lượng dân số ảnh hưởng trực tiếp đến phát triển kinh tế – xã hội của đất nước. Hội nghị quốc tế về Dân số và Phát triển được tổ chức tại Cairo (Ai Cập) năm 1994 đã đề cập đến chất lượng dân số. Chương trình hành động của Hội nghị đã nhấn mạnh: “Con người là nguồn lực quan trọng nhất, do đó để phát triển bền vững thì phải nâng cao chất lượng cuộc sống cho con người”. Nhiều nước khu vực châu Á như: Trung Quốc, In-đô-nê-xi-a, Thái Lan, Ma-lai-xi-a… đã đưa mục tiêu nâng cao chất lượng dân số vào các chương trình dân số – kế hoạch hóa gia đình (KHHGĐ), lồng ghép vào các chiến lược, kế hoạch, chương trình phát triển kinh tế – xã hội.
Ở Việt Nam, công tác dân số luôn được Đảng và Nhà nước ta quan tâm, coi đó là một bộ phận quan trọng của chiến lược phát triển đất nước, là yếu tố cơ bản để nâng cao chất lượng cuộc sống của từng người, từng gia đình và toàn xã hội. Sự phát triển bền vững của đất nước chủ yếu trong tương lai dài hạn là dựa vào năng suất lao động, tức là dựa vào chất lượng nguồn nhân lực, chất lượng dân số. Đó là yếu tố quyết định sự tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững.
Những năm qua, công tác dân số của Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu đáng khích lệ, góp phần to lớn vào công cuộc xây dựng và phát triển đất nước. Năm 2019 là năm thứ 13 liên tiếp Việt Nam duy trì được mức sinh thay thế. Theo Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2019 của Tổng cục Thống kê, quy mô dân số Việt Nam đạt 96,2 triệu người, đứng vị trí thứ 15 trên thế giới và thứ 3 trong khu vực Đông Nam Á 1.
Chất lượng dân số được cải thiện về nhiều mặt. Tuổi thọ trung bình tăng nhanh, đạt 73,4 tuổi năm 2016, cao hơn nhiều nước có cùng mức thu nhập bình quân đầu người. Tình trạng suy dinh dưỡng, tử vong bà mẹ, trẻ em giảm mạnh. Tầm vóc, thể lực người Việt Nam có bước cải thiện. Dân số đã có sự phân bố hợp lý hơn, gắn với quá trình đô thị hoá, công nghiệp hóa và yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh
Tuy nhiên, hiện nay chất lượng dân số còn hạn chế, chỉ số phát triển con người (HDI) còn thấp, chậm được cải thiện. Tuổi thọ bình quân là 73,5 tuổi, nhưng số năm trung bình sống khỏe mạnh còn thấp, chỉ đạt 64 tuổi. Tầm vóc, thể lực của người Việt Nam chậm được cải thiện, trong 30 năm chiều cao trung bình của thanh niên Việt Nam chỉ tăng được 3 cm. Tình trạng tảo hôn, kết hôn cận huyết thống còn nhiều ở một số dân tộc ít người. Việc bảo vệ và phát triển dân số các dân tộc có dưới 10.000 người còn hạn chế, đặc biệt là những dân tộc thiểu số rất ít người có nguy cơ suy giảm giống nòi 2.
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến những hạn chế trong công tác dân số nói chung và nâng cao chất lượng dân số nói riêng nhưng nguyên nhân cơ bản là do:
Thứ nhất, quản lý nhà nước về dân số còn bất cập;một số cơ chế, chính sách về dân số chậm đổi mới; tổ chức bộ máy thiếu ổn định, chế độ đãi ngộ đối với cán bộ làm công tác dân số và KHHGĐ ở cấp cơ sở còn thấp; chức năng, nhiệm vụ chưa được điều chỉnh phù hợp với diễn biến tình hình dân số.
Thứ hai, nguồn lực đầu tư cho công tác dân số, KHHGĐ còn thấp, chưa tương xứng với yêu cầu trong giai đoạn mới; các nội dung về dân số trong phát triển kinh tế – xã hội còn chưa được chú trọng đúng mức.
Thứ ba, công tác truyền thông, giáo dục về dân số ở một số khu vực, nhóm đối tượng hiệu quả chưa cao, chưa phối hợp và phát huy được tốt vai trò của các tổ chức đoàn thể, của nhà trường.
Thứ tư, nội dung truyền thông, cung cấp dịch vụ chưa toàn diện, chủ yếu tập trung vào KHHGĐ.
Thứ năm, nhận thức và tiếp cận sớm với tư vấn và khám sức khỏe trước hôn nhân cũng như hoạt động tầm soát, chẩn đoán, điều trị sớm bệnh, tật trước sinh và sơ sinh còn hạn chế, dẫn đến vẫn có những đứa trẻ sinh ra bị hội chứng Down, dị tật bẩm sinh, tăng động, tự kỷ.
Giải pháp nâng cao chất lượng dân số Việt Nam hiện nay
Nghị quyết số 21-NQ/TW ngày 25/10/2017 Hội nghị lần thứ Sáu Ban Chấp hành Trung ương (khóa XII) về công tác dân số trong tình hình mới đã nêu rõ: “Tiếp tục chuyển trọng tâm chính sách dân số từ kế hoạch hóa gia đình sang dân số và phát triển. Công tác dân số phải chú trọng toàn diện các mặt quy mô, cơ cấu, phân bố, đặc biệt là chất lượng dân số và đặt trong mối quan hệ hữu cơ với các yếu tố kinh tế – xã hội, bảo đảm quốc phòng-an ninh và bảo đảm phát triển nhanh, bền vững”. Do đó, mục tiêu nâng cao chất lượng dân số được coi là một trong những chính sách cơ bản của Nhà nước, là nhiệm vụ trọng tâm hàng đầu, có tính chất quyết định đến công cuộc phát triển đất nước trong giai đoạn hiện nay.
Để nâng cao chất lượng dân số đáp ứng nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và sự phát triển nhanh, bền vững của đất nước trong giai đoạn hiện nay cần thực hiện đồng bộ các giải pháp sau đây:
Một là, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước đối với công tác dân số và phát triển. Xác định nâng cao chất lượng dân số không chỉ là nhiệm vụ của ngành Y tế mà còn là trách nhiệm của các bộ, ngành, chính quyền địa phương, của mỗi cá nhân, gia đìnhvà toàn xã hội. Đảng, Nhà nước cần tiếp tục thực hiện các chính sách hỗ trợ vùng có điều kiện kinh tế – xã hội khó khăn, người dân tộc thiểu số, người thuộc hộ nghèo, cận nghèo, người có công với cách mạng, người khuyết tật để nâng cao chất lượng dân số.
Hai là, kiện toàn tổ chức bộ máy làm công tác dân số từ trung ương đến cơ sở theo hướng tinh gọn, chuyên nghiệp, hiệu quả; củng cố mạng lưới và đổi mới phương thức cung cấp dịch vụ KHHGĐ để góp phần thực hiện tốt chính sách dân số nhằm nâng cao chất lượng dân số trong tình hình mới.
Ba là, đẩy mạnh công tác truyền thông, giáo dục với các hình thức phù hợp đến tất cả các tầng lớp nhân dân để nâng cao nhận thức, hành động về dân số và phát triển về các vấn đề duy trì vững chắc mức sinh thay thế, giảm chênh lệch mức sinh giữa các vùng, đối tượng; giảm thiểu tình trạng tảo hôn, hôn nhân cận huyết thống; tận dụng hiệu quả cơ cấu dân số vàng, tạo động lực mạnh mẽ cho sự phát triển đất nước nhanh, bền vững; thích ứng với già hóa dân số đẩy mạnh chăm sóc sức khỏe người cao tuổi. Tăng cường tuyên truyền tư vấn, hỗ trợ nâng cao sức khỏe thể chất, trí tuệ và tinh thần cho các nhóm đối tượng đặc biệt; triển khai các mô hình cung cấp dịch vụ và vận động để tăng sự chấp nhận sàng lọc sơ sinh tại cộng đồng.
Bốn là, xây dựng và triển khai thực hiện cơ chế lồng ghép các yếu tố dân số trong các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, dự án phát triển kinh tế – xã hội; đẩy mạnh nghiên cứu về dân số và phát triển, trọng tâm là chất lượng và lồng ghép yếu tố dân số vào kế hoạch phát triển của từng ngành, từng lĩnh vực.
Sáu là, phối hợp chặt chẽ các ngành, các cấp để thực hiện các biện pháp nâng cao tầm vóc, thể lực và trí tuệ của con người Việt Nam, đặc biệt sự phối hợp tích cực của hệ thống y tế chăm sóc sức khoẻ bà mẹ, trẻ em, vị thành niên, người cao tuổi và sự tham gia của ngành Giáo dục. Đồng thời, xây dựng và nâng cao đời sống văn hóa tinh thần cho nhân dân, tăng cường các dịch vụ xã hội chủ yếu có ảnh hưởng tới chất lượng dân số; đẩy mạnh công tác nghiên cứu khoa học ứng dụng phục vụ nâng cao chất lượng dân số.
Bảy là, Nhà nước tiếp tục chỉ đạo triển khai thực hiện tốt các mô hình, đề án nâng cao chất lượng dân số như sàng lọc trước sinh và sơ sinh; mô hình tư vấn và khám sức khỏe tiền hôn nhân; mô hình giảm tỷ lệ tảo hôn, hôn nhân cận huyết thống và đề án tư vấn và chăm sóc người cao tuổi dựa vào cộng đồng.
Thực Hiện 5 Giải Pháp Tập Hợp Hội Viên Phụ Nữ
“Phấn đấu đến năm 2011 tỷ lệ tập hợp hội viên từ 18 tuổi trở lên đạt 75%” là mục tiêu mà Đại hội Hội LHPN tỉnh (nhiệm kỳ 2006-2011) đã đề ra. Để đạt được mục tiêu này, Hội LHPN huyện Thanh Oai đã đưa ra 5 giải pháp quan trọng.
Những năm qua, Hội LHPN huyện Thanh Oai đã bám sát các nhiệm vụ chính trị của huyện, đồng thời chỉ đạo các cơ sở Hội thực hiện hiệu quả phong trào thi đua và 6 chương trình trọng tâm của Hội với nhiều đổi mới, sáng tạo, đáp ứng với nguyện vọng của phụ nữ.
Tính đến hết năm 2007, Hội LHPN huyện Thanh Oai mới thu hút được gần 37 nghìn hội viên tham gia sinh hoạt, đạt 70,7% phụ nữ từ 18 tuổi trở lên (tăng 5,3% so với năm 2006); vẫn còn gần 11 nghìn phụ nữ chưa tham gia sinh hoạt trong tổ chức Hội. Những khó khăn cơ bản trong công tác phát triển hội viên ở Thanh Oai mà các cơ sở Hội đang gặp phải đó là: Nhiều gia đình có 3-4 phụ nữ trong độ tuổi nhưng chỉ có 1 người tham gia sinh hoạt, họ cho rằng chỉ 1 người tham gia là đủ. Để đạt được mục tiêu thu hút 75% phụ nữ từ 18 tuổi trở lên tham gia sinh hoạt, Hội LHPN huyện Thanh Oai đã và đang thực hiện đồng bộ 5 giải pháp.
Ưu tiên hàng đầu được Hội LHPN huyện chỉ đạo thực hiện trong thời gian qua là: chú trọng tới công tác đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ công tác hội cho đội ngũ cán bộ từ huyện hội đến cán bộ chi, tổ Hội cơ sở; tập trung củng cố tổ chức Hội còn yếu. Hằng năm, Hội LHPN huyện đều tổ chức tập huấn nghiệp vụ công tác Hội cho đội ngũ cán bộ là thường trực Hội LHPN xã, thị trấn, cán bộ các chi, tổ hội.
Giải pháp thứ hai là đa dạng hóa các mô hình, loại hình hoạt động phù hợp với đặc thù từng địa phương, lứa tuổi, sở thích… nhằm thu hút đông đảo hội viên tham gia. Đến nay, toàn huyện đã thành lập và duy trì hoạt động hiệu quả 278 CLB, tổ phụ nữ các loại như CLB chăm sóc sức khỏe sinh sản; CLB đồng cảm; Tổ phụ nữ cao tuổi… Thành lập được 276 Tổ phụ nữ tín dụng tiết kiệm, tín chấp vay vốn ngân hàng thu hút sự tham gia của 5.658 thành viên ở các lứa tuổi.
Đổi mới nội dung, phương thức hoạt động, thực hiện phương châm “Hướng mọi hoạt động về cơ sở” cũng là giải pháp quan trọng nhằm tập hợp hội viên. Theo đó, tất cả các hoạt động tuyên truyền, tập huấn đều được các cơ sở Hội lấy địa bàn khu dân cư làm nơi tổ chức, vì vậy số phụ nữ tham gia ngày càng đông. Nội dung sinh hoạt ở các chi, tổ Hội được đổi mới theo hình thức sinh hoạt theo chuyên đề và lồng ghép với các hoạt động tuyên truyền.
Bên cạnh đó, Hội LHPN huyện chỉ đạo các cơ sở Hội đẩy mạnh công tác tuyên truyền, tập huấn, chuyển giao tiến bộ KHKT trong trồng trọt, chăn nuôi nhằm nâng cao trình độ mọi mặt cho phụ nữ. Chỉ tính từ đầu năm đến nay, các cấp Hội Phụ nữ trong huyện đã tổ chức được 56 buổi tuyên truyền Luật Bình đằng giới, Luật Hôn nhân – Gia đình, Luật Giao thông đường bộ… cho hơn 6.500 hội viên. Ngoài ra, còn tổ chức được 25 buổi tuyên truyền phòng, chống dịch cúm gia cầm; vệ sinh an toàn thực phẩm… cho hơn 3000 hội viên tham dự.
Các cấp Hội còn chú trọng tới công tác hỗ trợ vay vốn, dạy nghề, tạo việc làm cho phụ nữ. Đến nay, tổng số vốn các cấp Hội Phụ nữ huyện Thanh Oai đang quản lý là 72 tỷ 935 triệu đồng. Thông qua hoạt động hỗ trợ vay vốn, trong năm 2007 các cấp Hội đã giúp được 169 chị thoát nghèo, góp phần giảm tỷ lệ hộ nghèo toàn huyện xuống còn 10,4%.
Nâng Cao Chất Lượng Đội Ngũ Nhà Giáo Trong Giai Đoạn Hiện Nay
Nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo trong giai đoạn hiện nay
Đội ngũ nhà giáo là nhân tố quyết định sự thành công của công cuộc đổi mới giáo dục. Trong mọi thời kỳ, việc nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên luôn được xác định là nhiệm vụ trọng tâm. Việt Nam đang tiến hành công cuộc đổi mới căn bản, toàn diện GD&ĐT, điều quan trọng là cần phát triển đội ngũ nhà giáo có chất lượng, đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục.
Theo số liệu của Bộ GD và ÐT năm học 2018 – 2019, cả nước có hơn 1,16 triệu giáo viên mầm non, phổ thông, hơn 72 nghìn giảng viên đại học. Về cơ bản đội ngũ nhà giáo đạt chuẩn và trên chuẩn trình độ đào tạo (tỷ lệ chuẩn và trên chuẩn đối với mầm non 96,6%, tiểu học 99,7%, THCS 99%, THPT 99,6%, đại học 82,7%). Để nâng cao chất lượng đội ngũ và đổi mới chương trình chăm sóc, giáo dục trẻ em mầm non, Bộ GDĐT đã xây dựng tài liệu hướng dẫn hỗ trợ đánh giá sự phát triển của trẻ, phát triển chương trình giáo dục trong các cơ sở giáo dục mầm non. Các địa phương đã áp dụng đa dạng các hình thức và phương pháp tổ chức hoạt động chăm sóc, giáo dục trẻ theo quan điểm “ lấy trẻ làm trung tâm” phù hợp với điều kiện thực tế của trường, lớp. Giáo dục phổ thông tiếp tục đổi mới phương pháp dạy học và kiểm tra, đánh giá. Công tác bồi dưỡng giáo viên chuẩn bị cho việc triển khai chương trình mới, bồi dưỡng thường xuyên, chuẩn nghề nghiệp đối với giáo viên được thực hiện thường xuyên, nghiêm túc. Bộ đã trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt đề án đào tạo, bồi dưỡng nhà giáo và cán bộ quản lý cơ sở giáo dục đáp ứng yêu cầu đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục phổ thông giai đoạn 2016 – 2020, định hướng đến năm 2025. Quá trình triển khai, toàn ngành tích cực tổ chức bồi dưỡng nâng cao năng lực, chuyên môn, nghiệp vụ cho cán bộ quản lý, giáo viên theo các yêu cầu của chuẩn nghề nghiệp. Vì vậy, những bất hợp lý trong cơ cấu đội ngũ nhà giáo đã dần được khắc phục. Công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ giảng viên ở nước ngoài tiếp tục được quan tâm đầu tư góp phần quan trọng trong việc nâng cao chất lượng giảng viên đại học, cao đẳng của Việt Nam.
Theo kết quả khảo sát của trường Đại học sư phạm Hà Nội, Nhìn chung, các nhà giáo có tinh thần trách nhiệm cao, tích cực học tập, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ. Giáo viên đã có những năng lực cần thiết để đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục. Đội ngũ giáo viên đã nhận thức rõ trách nhiệm của mình đối với sự nghiệp “trồng người”, thể hiện tâm huyết với nghề nghiệp, tận tụy với công việc trên tinh thần “Tất cả vì học sinh thân yêu”. Trong công tác nghiên cứu, đã thể hiện tính tích cực, đi sâu khám phá cái mới, nắm chắc vận dụng sáng tạo các nguyên tắc, phương pháp dạy học, nghiên cứu khoa học vào quá trình dạy học, giáo dục, nhất là những yêu cầu mới của chương trình cải cách giáo dục mà Bộ GD&ĐT đưa ra.
Để nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo cần thực hiện đồng bộ một số giải pháp sau:
Thứ hai, đào tạo sư phạm gắn với nhu cầu xã hội. Tuyển sinh của các trường sư phạm tránh ồ ạt, cần đảm bảo nguyên tắc chỉ tiêu tuyển sinh gắn với nhu cầu của từng địa phương, vùng, miền để đảm bảo khi sinh viên ra trường được tuyển dụng làm việc, giảng dạy trong các cơ sở giáo dục.
Thứ ba, tiếp tục bồi dưỡng, đào tạo đội ngũ nhà giáo đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục. Bồi dưỡng thường xuyên giáo viên là hoạt động vô cùng quan trọng, giúp nâng cao năng lực nhà giáo và đảm bảo chuẩn nghề nghiệp như Phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống; Năng lực tìm hiểu đối tượng và môi trường giáo dục; Năng lực dạy học; Năng lực giáo dục; Năng lực hoạt động chính trị, xã hội và Năng lực phát triển nghề nghiệp với những tiêu chí cụ thể. Bồi dưỡng thường xuyên để đảm bảo giáo viên được cập nhật các kiến thức sư phạm mới, tiên tiến trên thế giới. Định hướng đổi mới giáo dục “ lấy người học làm trung tâm”, nhằm phát triển phẩm chất, năng lực học sinh đòi hỏi giáo viên phải thay đổi mới có thể đáp ứng yêu cầu thực tiễn đặt ra. Ngoài bồi dưỡng thường xuyên cho giáo viên để nâng cao trình độ chuyên môn, nhất thiết cần bồi dưỡng giáo viên về Phương pháp dạy học để giáo viên có đầy đủ khả năng hướng dẫn học sinh phải tự học nhiều hơn, phải biết huy động tổng thể kiến thức, kĩ năng, tiềm lực, năng lực sáng tạo.
Thứ tư, tổ chức thực hiện tốt Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ sáu khoá XII trong việc tuyển dụng, sử dụng giáo viên; xác định số giáo viên thừa, thiếu từng cấp học, môn học; thực hiện tốt việc đánh giá, xếp loại giáo viên và thực hiện tinh giản biên chế đối với giáo viên không đáp ứng được yêu cầu mới đặt ra.
Nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên là nhiệm vụ xuyên suốt của ngành Giáo dục và cần có thời gian và lộ trình. Giáo viên là nhân tố quyết định thành công của của sự nghiệp giáo dục. Thực tiễn đã chỉ ra rằng, nếu được quan tâm đào tạo tại các trường sư phạm, được tạo điều kiện tốt về công ăn việc làm, về thu nhập, được trân trọng những cống hiến trong công việc thì chất lượng giáo viên sẽ được tăng lên rõ rệt. Trách nhiệm của ngành Giáo dục và của toàn xã hội sẽ tạo ra điều kiện, môi trường tốt nhất để giáo viên được yên tâm, ổn định, phát triển và cống hiến góp phần quan trọng trong sự phát triển chung của đất nước.
Đỗ Hữu Nhân
Bạn đang đọc nội dung bài viết Một Số Giải Pháp Nâng Cao Chất Lượng Công Tác Tập Hợp Phụ Nữ, Phát Triển, Quản Lý Hội Viên Trong Giai Đoạn Hiện Nay trên website Photomarathonasia.com. Hy vọng một phần nào đó những thông tin mà chúng tôi đã cung cấp là rất hữu ích với bạn. Nếu nội dung bài viết hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!