Đề Xuất 3/2023 # “Một Số Giải Pháp Chủ Yếu Nhằm Hoàn Thiện Kiểm Soát Chi Thường Xuyên Ngân Sách Nhà Nước Qua Kho Bạc Nhà Nước Văn Giang, Tỉnh Hưng Yên” # Top 11 Like | Photomarathonasia.com

Đề Xuất 3/2023 # “Một Số Giải Pháp Chủ Yếu Nhằm Hoàn Thiện Kiểm Soát Chi Thường Xuyên Ngân Sách Nhà Nước Qua Kho Bạc Nhà Nước Văn Giang, Tỉnh Hưng Yên” # Top 11 Like

Cập nhật nội dung chi tiết về “Một Số Giải Pháp Chủ Yếu Nhằm Hoàn Thiện Kiểm Soát Chi Thường Xuyên Ngân Sách Nhà Nước Qua Kho Bạc Nhà Nước Văn Giang, Tỉnh Hưng Yên” mới nhất trên website Photomarathonasia.com. Hy vọng thông tin trong bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu ngoài mong đợi của bạn, chúng tôi sẽ làm việc thường xuyên để cập nhật nội dung mới nhằm giúp bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.

Tóm tắt Chi ngân sách nhà nước (NSNN) bao gồm hai bộ phận chính là chi thường xuyên và chi đầu tư phát triển, trong đó chi thường xuyên chiếm tỷ trọng lớn nhất và có vị trí, vai trò rất quan trọng đối với phát triển KT-XH đất nước. Quá trình thực hiện công tác, kiểm soát chi (KSC) thường xuyên NSNN qua kho bạc Nhà nước (KBNN) vẫn còn những tồn tại, hạn chế, bất cập như: Sử dụng NSNN vẫn kém hiệu quả, lãng phí, thất thoát, dễ phát sinh tiêu cực. Công tác KSC còn phân ra nhiều lĩnh vực với nhiều hình thức khác nhau dẫn đến tình trạng chồng chéo, khó theo dõi tổng thể; nhiều khoản chi chưa có đủ cơ sở để KBNN kiểm soát đến khâu cuối cùng và chưa có cơ chế quy trách nhiệm trong thực hiện một số nghiệp vụ chi cụ thể; chưa có cơ chế tổng thể và thống nhất để kiểm soát giá mua sắm một số hàng hóa dịch vụ một cách chặt chẽ và có hiệu quả nhất. Cán bộ làm nhiệm vụ chi ngân sách tại các đơn vị sử dụng NSNN còn có tình trạng chưa am hiểu đầy đủ về quản lý NSNN và chưa được đào tạo đồng đều. Việc phân công nhiệm vụ KSC trong hệ thống KBNN còn bất cập, chưa tạo điều kiện tốt nhất cho khách hàng. Việc thực hiện chế độ công khai minh bạch trong chi tiêu ngân sách của những đơn vị sử dụng ngân sách còn hạn chế. Do vậy, thực hiện công tác KSC thường xuyên NSNN qua KBNN còn bộc lộ những hạn chế và tồn tại, ảnh hưởng đến chất lượng sử dụng ngân sách, chưa đáp ứng yêu cầu quản lý và cải cách thủ tục hành chính trong xu thế đẩy mạnh mở cửa và hội nhập quốc tế. Những năm qua, KSC thường xuyên NSNN qua KBNN của nước ta nói chung và KBNN Văn Giang, tỉnh Hưng Yên nói riêng đã có những chuyển biến tích cực, đạt được nhiều kết quả tốt, đã từng bước được cụ thể theo hướng hiệu quả, ngày một chặt chẽ và đúng mục đích hơn cả về quy mô và chất lượng. Kết quả của thực hiện công tác KSC đã góp phần quan trọng trong việc sử dụng NSNN ngày càng hiệu quả hơn. Tuy nhiên, trong quá trình kiểm soát chi thường xuyên của các đơn vị sử dụng NSNN huyện Văn Giang vẫn còn bộc lộ một số hạn chế, tồn tại ảnh hưởng đến chất lượng sử dụng ngân sách, chưa đáp ứng yêu cầu quản lý và cải cách thủ tục hành chính trong xu thế đẩy mạnh mở cửa và hội nhập quốc tế. Mặt khác, lý luận về công tác KSC NSNN nói chung và KSC thường xuyên NSNN qua KBNN nói riêng trong nền kinh tế thị trường chưa được nghiên cứu đầy đủ để áp dụng. Vì vậy, công tác KSC thường xuyên NSNN qua KBNN Văn Giang cần tiếp tục được hoàn thiện một cách khoa học và có hệ thống. Từ nhận thức những quan điểm, lý luận về quản lý và kiểm soát chi thường xuyên từ nguồn vốn NSNN, qua nghiên cứu phân tích, đánh giá, chúng tôi đề xuất một số giải pháp hoàn thiện kiểm soát chi thường xuyên qua KBNN Văn Giang trong thời gian tới.

Nhóm giải pháp nhằm hoàn thiện KSC thường xuyên NSNN qua kho KBNN Tổng hợp các phương pháp nghiên cứu như phương pháp phân tích tổng hợp, kết hợp với suy luận logic. Đồng thời, trong quá trình thực hiện còn sử dụng phương pháp tổng hợp, thống kê các số liệu từ các báo cáo định kỳ, báo cáo năm của KBNN, KBNN Văn Giang các năm đã công bố để làm rõ mục tiêu nghiên cứu của đề tài, theo chúng tôi cần tập trung thực hiện tổng hợp 5 nhóm giải pháp sau.

Thứ nhất: Nhóm giải  pháp về cơ chế chính sách. Trong nhóm giải pháp này cần phối hợp, triển khai đồng bộ các nhóm công tác sau. Một là: Xây dựng đồng bộ hệ thống các văn bản quy định cơ chế kiểm soát chi thường xuyên NSNN qua Kho bạc Nhà nước theo hướng thống nhất gọn lại hệ thống văn bản Kiểm soát chi . Như vậy, KBNN phải có chương trình thống  nhất để quản lý toàn bộ dự toán từ cấp 0: Quốc hội, HĐND các cấp đến đơn vị dự toán cấp 1, cấp 2, cấp 3… đơn vị sử dụng NSNN. Hiện nay chỉ quản lý ở đơn vị dự toán trực tiếp sử dụng NSNN, tại KBNN nơi đơn vị giao dịch. Thống nhất phân bổ dự toán chi thường xuyên và chi đầu tư xây dựng cơ bản; Vốn nước ngoài cũng cân đối và phân bổ và giao dự toán. Cơ quan KBNN có tài khoản riêng để hạch toán và theo dõi dự toán tạm cấp trong trường hợp chưa có dự toán chính thức được giao. Luật NSNN cần phải có những điều khoản quy định chặt chẽ tính thống nhất và công khai hoá trong quá trình lập, chấp hành và quyết toán NSNN. Đảm bảo cho Luật NSNN đề cao được quyền làm chủ của các đơn vị và cá nhân trong lĩnh vực tài chính – ngân sách. Luật NSNN phải tạo điều kiện cho mọi người dân nắm được một cách rõ ràng, chính xác, kịp thời những đóng góp của họ đã được sử dụng vào những mục đích gì, hiệu quả mang lại ra sao theo hướng dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra.  Cần chú ý tính đồng bộ và kịp thời khi ban hành các bộ luật và các văn bản hướng dẫn dưới luật nhằm bảo đảm tính thống nhất cao và thuận lợi trong quá trình triển khai thực hiện; tạo điều kiện cho các cơ quan có chức năng kiểm tra, kiểm soát việc thi hành luật có căn cứ xử lý chính xác các vi phạm và có thể đưa ra các phán quyết đúng đắn nhất, thực sự đưa luật đi vào cuộc sống.  Hiện nay ít nhất chúng ta có bẩy hình thức KSC thường xuyên NSNN, theo đó là bẩy cơ chế kiểm soát khác nhau, với quá nhiều văn bản, chế độ đi theo. Trong một đơn vị sử dụng NSNN cũng có nhiều hình thức KSC khác nhau. Do đó gây khó khăn cho đơn vị và cho KBNN trong quá trình thực hiện chi và KSC thường xuyên  NSNN. Đề nghị thống nhất lại thành 3loại chế độ KSC thường xuyên NSNN như sau:   (i) Xây dựng cơ chế KSC thường xuyên thống nhất cho đơn vị không khoán, chi thường xuyên ngân sách đảng, chi ngân sách xã vào hình thức KSC không khoán. (ii) Tất cả các đơn vị khoán kinh phí từ NSNN xây dựng thống nhất một hình thức KSC và quản lý hình thức ngân sách khoán. (iii) Ngân sách quốc phòng và an ninh nên xây dựng thống nhất lại một hình thức KSC, hình thức này có tính chất chi đặc biệt, còn khoản nào không phải là chi đặc biệt thì theo hình thức KSC thường xuyên. Hai là: Bổ sung, sửa đổi một số chế độ, chính sách của Nhà nước cho phù hợp với thực tiễn quản lý chi thường xuyên NSNN. (i) Về quản lý, KSC thanh toán cá nhân, hiện nay chiếm tỷ trọng rất cao trong chi thường xuyên NSNN, tuy chi cao như vậy nhưng hiệu quả chưa được như mong đợi, bộ máy hành chính vẫn còn cồng kềnh và nhiều bất cập, đội ngũ cán bộ công chức trong bộ máy công quyền còn nhiều hạn chế, cơ chế tuyển dụng, đề bạt và sử dụng đội ngũ này còn nhiều bất cập. Do đó chúng ta phải sửa đổi chính sách tuyển dụng, sử dụng đội ngũ cán bộ công chức hưởng lương từ NSNN sao cho đảm bảo theo hướng: Tuyển dụng – đào tạo – và giữ được người giỏi để làm việc. Không để tình trạng công chức suốt đời. Đồng thời ta phải thay đổi căn bản chính sách tiền lương cho phù hợp với công việc, với trình độ chuyên môn. Nâng cao dịch vụ của hệ thống ngân hàng sao cho phục vụ được tất cả đội ngũ cán bộ công chức hưởng lương từ NSNN có thể mở được tài khoản ở ngân hàng từ đó rút lương và các khoản thu nhập và thanh toán bằng thẻ tại ngân hàng. (ii)  Về định mức chi tiêu:  Chi sửa chữa lớn và nhỏ tài sản cố định. Hiện nay nội dung chi này KBNN chỉ kiểm soát theo hồ sơ chứng từ, do đó việc sửa chữa như thế nào, khi nào thì tài sản phải sửa chữa, cơ quan nào kiểm định tài sản cần phải sửa chữa cũng chưa có. Có cơ quan xây nhà chưa hết thời hạn bảo hành đã sửa chữa. Có loại xe ô tô mới mua một thời gian ngắn đã sửa chữa. Vì vậy đề nghị có quy định cụ thể từng loại tài sản dùng bao nhiêu năm, bao nhiêu giờ thì mới được sửa chữa, đồng thời quy định khi sửa chữa phải có cơ quan chuyên môn kiểm định tài sản cần sửa, khi đó mới được sửa chữa. Dự toán sửa chữa lớn phải được cơ quan có thẩm quyền thẩm định, và  phải được tổ chức thầu theo quy định của Luật Đấu thầu.  Chúng ta còn nhiều khoản chi chưa có định mức như chi kỷ niệm các ngày lễ lớn. Đề nghị nội dung chi này nên quy định chặt chẽ hơn theo hướng: Chỉ chi kỷ niệm các ngày lễ lớn ở cấp trung ương, hạn chế tổ chức kỷ niệm ở địa phương, được như vậy mỗi năm, nhất là những năm chẵn chúng ta có thể tiết kiệm nhiều trăm tỷ đồng cho NSNN, số tiền đó có thể xây dựng được nhiều lớp học mới. Khoản chi hỗ trợ: Nội dung chi này hàng năm tương đối lớn, nhưng lại không có quy định cụ thể, trường hợp nào được hỗ trợ, do đó KBNN rất khó kiểm soát. Đề nghị có quy định cụ thể các trường hợp được hỗ trợ của các đơn vị sử dụng NSNN, như vậy KBNN mới có căn cứ kiểm soát. (iii) Về đơn vị khoán biên chế và kinh phí hoạt động. Hiện nay cơ chế khoán chưa đủ mạnh để đơn vị được khoán bung ra, khoán nhưng vẫn còn nhiều ràng buộc, chưa tạo điều kiện cho các đơn vị khoán khai thác khả năng của họ để phục vụ xã hội. Đề nghị nên mở rộng cơ chế khoán hơn nữa, cho đơn vị khoán có khả năng là có thể mở rộng dịch vụ phục vụ xã hội, nếu xã hội có nhu cầu và đơn vị có khả năng đáp ứng. Ba là: Thực hiện cam kết chi đối với đơn vi sử dụng NSNN. Tiếp tục hoàn thiện hệ thống chế độ văn bản pháp lý (Nghị định của Chính phủ hoặc Thông tư của Bộ tài chính hướng dẫn thực hiện cam kết chi) quy định cụ thể việc thực hiện cam kết chi trên cơ sở dự toán được phân bổ theo từng đơn vị sử dụng NSNN nhằm đảm bảo dự toán ngân sách có đủ để chi tiêu trước khi bắt đầu việc mua sắm và dịch vụ, theo hướng sau: (i) Đơn vị sử dụng ngân sách thực hiện ký hợp đồng và chuẩn bị đầy đủ các thông tin hợp đồng, xác định rõ phạm vi cam kết phù hợp với yêu cầu quản lý gửi đến Kế toán viên Kho bạc Nhà  nước để thực hiện tạo cam kết chi trong hệ thống. (ii) Sau khi nhập cam kết chi, hệ thống sẽ thực hiện việc kiểm tra dự toán của đơn vị còn đủ để thực hiện thanh toán cho hợp đồng không? (iii) Sau khi kiểm tra, nếu dự toán ngân sách còn đủ thì thực hiện phê duyệt cam kết chi trong hệ thống. Kho bạc Nhà  nước thực hiện thông báo cho đơn vị sử dụng ngân sách. (iv) Sau khi cam kết chi được phê duyệt, hệ thống sẽ tự động giữ dự toán (trừ dự toán) để đảm bảo có đủ ngân sách cho việc thực hiện thanh toán đối với hợp đồng đã được cam kết chi. Quản lý cam kết chi sẽ tạo ra một khối lượng công việc lớn cho KBNN và đơn vị sử dụng ngân sách, nhưng nếu thực hiện thành công sẽ phù hợp với chủ trương cải cách hành chính của Nhà nước ta hiện nay. Đồng thời chúng ta quản lý được nhà cung cấp hàng hóa dịch vụ cho hệ thống các đơn vị sử dụng ngân sách, đây cũng là một trong những tiền đề quan trọng phục vụ cho công tác KSC thường xuyên NSNN qua KBNN có hiệu quả. Bốn là: Hoàn thiện các hình thức cấp phát NSNN theo hướng hạn chế tiến tới loại bỏ chi ngân sách bằng lệnh chi tiền. Hình thức chi bằng lệnh chi tiền: Cần xác định rõ phạm vi và đối tượng sử dụng. Hình thức này chỉ nên áp dụng đối với một số khoản chi như cấp vốn cho các doanh nghiệp nhà nước, các tổ chức kinh tế – xã hội không có quan hệ thường xuyên với NSNN; chi trả nợ, viện trợ, một số khoản chi có tính đặc thù không thường xuyên, mang tính thời vụ và một số khoản chi khác theo quyết định của cơ quan tài chính. Còn lại ngân sách đảng, ngân sách xã, phường, thị trấn đều thực hiện hình thức rút dự toán chi NSNN. Hình thức kinh phí uỷ quyền: Đề nghị chuyển sang hình thức cấp phát theo dự toán bình thường. Năm là: Có cơ chế đủ mạnh để thực hiện công khai hóa và minh bạch hóa chi tiêu của các đơn vị sử dụng NSNN. Cơ chế thực hiện công khai, dân chủ  tại các đơn vị sử dụng NSNN đã có nhưng việc thực thi lại chỉ ở mức độ nhất định, chưa có chế tài đủ mạnh bắt buộc đơn vị sử dụng NSNN phải công khai, minh bạch chi tiêu ngân sách tại đơn vị mình, đây cũng là một trong những nguyên nhân và khó khăn cho khâu kiểm soát của KBNN và hiệu quả của sử dụng NSNN có lúc chưa cao.

Thứ hai,  Nhóm giải pháp quy trình và nghiệp vụ kiểm soát. Một là: Áp dụng quy trình cấp phát Ngân sách nhà nước trực tiếp từ Kho bạc Nhà nước đến đối tượng sử dụng ngân sách. Đối với các khoản thanh toán từ NSNN cho đối tượng thụ hưởng từ NSNN là cá nhân như chi lương, phụ cấp lương, khoán công tác phí, tiền khoán chi điện thoại và các khoản thanh khác cho cá nhân, những đối tượng trên mở tài khoản ở các ngân hàng thương mại và được cung cấp dịch vụ thẻ. KBNN KSC đúng chế độ thực hiện chuyển tiền vào tài khoản ở ngân hàng cho các đối tượng đó, đối tượng hưởng đến rút tiền tự động tại máy rút tiền để chi tiêu hoặc thanh toán trực tiếp qua thẻ ATM. Được như vậy hàng năm KBNN Văn Giang sẽ giảm được lượng tiền mặt khá lớn mà không phải kiểm đếm khi rút từ ngân hàng về để chi cho các nội dung trên cho các đơn vị sử dụng NSNN, các đơn vị không phải bố trí thủ quỹ để rút tiền về chi lương. Như vậy sẽ rất tiết kiệm về nhân lực và tài lực cho KBNN nói riêng và tiết kiệm chí phí lưu thông cho xã hội nói chung. Hai là: Áp dụng quy trình kiểm soát chi thường xuyên Ngân sách nhà nước theo kết quả đầu ra. Đây là một phương thức cấp phát NSNN tiên tiến, mới được áp dụng ở một số nước, hoặc một số khoản chi đặc biệt. Theo đó, Nhà nước không can thiệp vào việc sử dụng các khoản kinh phí NSNN đã cấp cho các cơ quan đơn vị, mà chỉ quan tâm đến hiệu quả sử dụng các nguồn kinh phí đó, tức là chỉ quan tâm đến kết quả đầu ra của các chương trình, mục tiêu đã được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt. Theo phương thức cấp phát này, ngay từ khi lập dự toán, các cơ quan, đơn vị phải căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ được giao; chỉ tiêu nhiệm vụ của năm kế hoạch; chế độ, tiêu chuẩn, định mức chi tiêu; dự toán và kết quả thực hiện nhiệm vụ được giao của năm trước để xây dựng dự toán chi của năm kế hoạch. Sau khi được các cấp có thẩm quyền giao dự toán ngân sách năm, các cơ quan đơn vị dự toán cấp I tiến hành phân bổ và giao dự toán cho các đơn vị thực hiện phương thức cấp phát NSNN theo kết quả đầu ra. Trên cơ sở dự toán chi cả năm được giao và nhiệm vụ phải chi trong quý, các đơn vị phải lập nhu cầu chi quý gửi cơ quan quản lý cấp trên và KBNN nơi mở tài khoản. Căn cứ nhu cầu chi hàng quý đã đăng ký và yêu cầu của nhiệm vụ chi, đơn vị dự toán lập giấy rút dự toán ngân sách gửi KBNN nơi giao dịch. Căn cứ vào dự toán năm được giao và nhu cầu chi quý đã đăng ký, KBNN thực hiện trích chuyển kinh phí theo đề nghị của đơn vị. Thủ trưởng đơn vị được quyền chủ động và tự chịu trách nhiệm về việc sử dụng kinh phí được cấp, bảo đảm thực hiện công việc theo đúng những cam kết ban đầu. Định kỳ, cơ quan tài chính phối hợp với cơ quan quản lý cấp trên của đơn vị theo dõi, kiểm tra tình hình thực hiện nhiệm vụ của đơn vị. Trường hợp phát hiện đơn vị không bảo đảm thực hiện công việc theo đúng cam kết, KBNN được phép tạm dừng cấp kinh phí cho đơn vị hoặc có biện pháp thu hồi phần kinh phí đã cấp. Như vậy, trong cơ chế kiểm soát chất lượng “đầu ra”, các ràng buộc bằng chế độ , tiêu chuẩn, định mức chi tiêu ở “đầu vào” đã được thay bởi các tiêu chuẩn đánh giá hiệu quả chất lượng “đầu ra”. Do đó, nó đã khắc phục được những hạn chế của cơ chế KSC theo “đầu vào”. Tuy nhiên, muốn có một cơ chế kiểm soát như thế, trước hết nhà nước cần phải quy định các tiêu chuẩn hiệu quả đối với từng hình thức đơn vị sử dụng NSNN. Lẽ đương nhiên, những khoản chi tiêu thường xuyên của NSNN là những khoản chi gắn liền với việc thực hiện các chức năng của Nhà nước, tức là gắn liền với việc đáp ứng các nhu cầu chung, nhu cầu có tính chất toàn xã hội. Vì thế, hiệu quả của các khoản chi đó phải được xem xét dựa trên cơ sở đánh giá mức độ hoàn thành các mục tiêu kinh tế – xã hội nói chung. Đây thực sự là một vấn đề khó khăn, phức tạp trong quá trình triển khai áp dụng cơ chế này. Hơn thế, hiệu quả của việc quản lý và KSC thường xuyên NSNN không những chỉ đo được bằng các chỉ tiêu định lượng, mà còn phải xem xét cả bằng các chỉ tiêu định tính. Ngoài ra, một vấn đề nữa cũng cần phải tính đến là khi giao toàn bộ trách nhiệm quản lý tài chính cho Thủ trưởng đơn vị sử dụng ngân sách, rồi sau đó mới xem xét hiệu quả của việc sử dụng số kinh phí đó, sẽ rất dễ phát sinh trường hợp những nhà quản lý có thể lạm dụng số tiền tiết kiệm được trong quá trình sử dụng kinh phí được cấp để mưu lợi cho cá nhân hoặc chi tiêu lãng phí, gây thất thoát tiền, tài sản của Nhà nước, trong lúc không bảo đảm được số lượng, chất lượng công việc đã cam kết. Vì vậy trước mắt chỉ nên áp dụng phương thức cấp phát NSNN theo “kết quả đầu ra” đối với một số khoản chi cho các dịch vụ công cộng như an ninh trật tự, chống các tệ nạn xã hội, các chương trình giáo dục, y tế, vệ sinh môi trường. Ba là: Công khai hóa tại Kho bạc Nhà nước cơ chế quản lý, điều hành kiểm soát chi thường xuyên NSNN qua KBNN theo tiêu chuẩn chất lượng ISO 9001. KBNN Văn Giang đã xây dựng quy trình giao dịch, công khai các bước giao dịch của KBNN với khách hàng. Về công tác KSC thường xuyên NSNN, như đã trình bày ở trên, việc KSC phải căn cứ vào nhiều văn bản chế độ khác nhau cho mỗi khoản chi. Do đó mọi khoản chi KBNN phải công khai các văn bản áp dụng, chế độ tiêu chuẩn định mức chi tiêu, hồ sơ thủ tục đấu thầu, chỉ định thầu theo quy định… Tất cả các nội dung trên phải thực hiện công khai tại địa điểm giao dịch của KBNN để cán bộ KBNN và khách hàng cùng nghiên cứu và thực hiện theo tiếng nói chung, đó cũng là một khâu minh bạch trong KSC thường xuyên NSNN của KBNN Văn Giang.

Thứ ba, Nhóm giải pháp về chất lượng nguồn nhân lực. Nguồn nhân lực là yếu tố then chốt, bởi con người là nhân tố cơ bản, có tính quyết định trực tiếp đến việc thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của KBNN, tiến tới xây dựng KBNN trở thành Kho bạc điện tử. Như vậy phát triển nguồn nhân lực là một trong những nhiệm vụ rất quan trọng, cần thiết có chiến lược và kế hoạch dài hạn đáp ứng yêu cầu phát triển.Trước thực trạng về chất lượng nguồn nhân lực hiện nay của hệ thống KBNN và yêu cầu cấp thiết phải nâng cao chất lượng nguồn nhân lực để thực hiên chiến lược phát triển hệ thống KBNN phù hợp với công cuộc cải cách hành chính(CCHC) Nhà nước nói chung và của toàn ngành tài chính nói riêng Nâng cao trình độ chuyên môn cho cán bộ KBNN làm công tác KSC thường xuyên NSNN qua KBNN theo hướng:  Chuyên môn hoá và tiêu chuẩn hoá đội ngũ cán bộ KBNN, đặc biệt là những cán bộ trực tiếp làm nhiệm vụ KSC thường xuyên NSNN, cần nắm vững tình hình kinh tế – xã hội của địa phương và các chính sách chế độ của nhà nước, thường xuyên rèn luyện tư cách, đạo đức và đề cao tinh thần trách nhiệm trong công tác. Tạo điều kiện cho cán bộ cập nhật những văn bản chế độ, chính sách mới về chi thường xuyên NSNN, tạo điều kiện cho họ bằng cách cung cấp các văn bản chế độ, tập huấn triển khai văn bản chế độ mới, thường xuyên truy cập internet. Cần có cơ chế thưởng phạt nghiêm minh. Thực hiện chế độ khen thưởng hợp lý, linh hoạt, dưới nhiều hình thức, nhằm tạo ra động lực kích thích mọi cán bộ công chức hăng say làm việc, phát huy tối đa trình độ, năng lực của mỗi người.

Thứ tư, Nhóm giải pháp phân công đầu mối tại KBNN thực hiện công tác KSC thường xuyên NSNN tại KBNN Việc phân công nhiệm vụ là đầu mối KSC thường xuyên NSNN của KBNN. Hiện nay KBNN Văn Giang phân công hai đầu mối thực hiện KSC thường xuyên NSNN: Đó là bộ phận kế toán và bộ phận kế hoạch. Phân công như vậy sẽ gây chồng chéo trong khâu kiểm soát, không thuận lợi cho công tác đối chiếu với khách hàng và không tạo điều kiện tốt nhất cho khách hàng. Cùng một hình thức kinh phí nhưng lại hai bộ phận khác nhau kiểm soát chi. Vì vậy nên thống nhất lại một đầu mối thực hiện KSC thường xuyên NSNN tại KBNN, đó là bộ phận kế toán KBNN .

Đẩy nhanh tiến trình hiện đại hoá công nghệ KBNN: Hiện đại hoá công nghệ KBNN là một trong những điều kiện hết sức quan trọng để nâng cao chất lượng hoạt động của KBNN nói chung và cơ chế KSC thường xuyên NSNN qua KBNN nói riêng. Vì vậy, vấn đề trọng tâm và có ý nghĩa cấp bách là phải xây dựng được hệ thống mạng thông tin nhanh nhạy, ổn định từ trung ương đến cơ sở, đủ sức truyền tải mọi thông tin hoạt động cần thiết, phục vụ công tác quản lý, điều hành, nhất là trong điều kiện thực hiện chế độ kế toán TABMIS như hiện nay. Hiện đại hoá công nghệ thanh toán của KBNN: Sự phát triển công nghệ thanh toán của nền kinh tế, trong đó có công nghệ thanh toán của KBNN có tác động trực tiếp đến hiệu quả sử dụng các nguồn vốn của nền kinh tế nói chung và công tác điều hành NSNN nói riêng. Tồn tại lớn nhất hiện nay là khối lượng tiền mặt chu chuyển thanh toán còn quá lớn, gây nhiều lãng phí cho xã hội và là mầm mống của tiêu cực. Nhà nước cần kiên quyết chấn chỉnh và ban hành ngay chế độ thanh toán không dùng tiền mặt, quy định rõ đối tượng, phạm vi, nguyên tắc, định mức sử dụng tiền mặt. Điều này không những có ý nghĩa giảm bớt chi phí lưu thông tiền tệ cho nền kinh tế, mà còn tạo khả năng cho KBNN thực hiện chức năng kiểm tra, kiểm soát các khoản chi NSNN trong các cơ quan, đơn vị sử dụng ngân sách.

Kiến nghị, đề xuất Hoàn thiện công tác kiểm soát chi thường xuyên NSNN qua KBNN nói chung và KBNN Văn Giang nói riêng là một trong những vấn đề rất cần thiết và quan trọng góp phần sử dụng hiệu quả, đúng mục đích NSNN. Đồng thời làm lành mạnh nền tài chính, nâng cao tính công khai, minh bạch, dân chủ trong việc sử dụng nguồn lực tài chính quốc gia nói chung và NSNN nói riêng, đáp ứng được nhu cầu trong quá trình đổi mới chính sách tài chính của nước ta khi hội nhập với nền kinh khu vực và thế giới. Công tác KSC thường xuyên NSNN qua KBNN là vấn đề phức tạp, nhạy cảm, động chạm trực tiếp tới quyền lợi cũng như tư duy, cách làm của các cấp, các ngành, các cơ quan, đơn vị có sử dụng NSNN trên phạm vi toàn quốc, đòi hỏi phải có sự đầu tư nghiên cứu công phu, toàn diện. Các giải pháp phải có tính hệ thống và xuyên suốt, cần phải có sự sửa đổi, bổ sung từ các văn bản luật đến các văn bản hướng dẫn thực hiện của các bộ, ngành và địa phương.  Tác giả hy vọng  đề tài này sẽ là cơ sở tham khảo để KBNN tiếp tục hoàn thiện hơn nữa công tác KSC thường xuyên NSNN trong thời gian tới.

Nguyễn Thanh Hiệp

“Một Số Giải Pháp Chủ Yếu Nhằm Hoàn Thiện Kiểm Soát Chi Thường Xuyên Ngân Sách Nhà Nước Qua Kho Bạc Nhà Nước Văn Giang, Tỉnh Hưng Yên”

Chi ngân sách nhà nước (NSNN) bao gồm hai bộ phận chính là chi thường xuyên và chi đầu tư phát triển, trong đó chi thường xuyên chiếm tỷ trọng lớn nhất và có vị trí, vai trò rất quan trọng đối với phát triển KT-XH đất nước. Quá trình thực hiện công tác, kiểm soát chi (KSC) thường xuyên NSNN qua kho bạc Nhà nước (KBNN) vẫn còn những tồn tại, hạn chế, bất cập như: Sử dụng NSNN vẫn kém hiệu quả, lãng phí, thất thoát, dễ phát sinh tiêu cực. Công tác KSC còn phân ra nhiều lĩnh vực với nhiều hình thức khác nhau dẫn đến tình trạng chồng chéo, khó theo dõi tổng thể; nhiều khoản chi chưa có đủ cơ sở để KBNN kiểm soát đến khâu cuối cùng và chưa có cơ chế quy trách nhiệm trong thực hiện một số nghiệp vụ chi cụ thể; chưa có cơ chế tổng thể và thống nhất để kiểm soát giá mua sắm một số hàng hóa dịch vụ một cách chặt chẽ và có hiệu quả nhất. Cán bộ làm nhiệm vụ chi ngân sách tại các đơn vị sử dụng NSNN còn có tình trạng chưa am hiểu đầy đủ về quản lý NSNN và chưa được đào tạo đồng đều. Việc phân công nhiệm vụ KSC trong hệ thống KBNN còn bất cập, chưa tạo điều kiện tốt nhất cho khách hàng. Việc thực hiện chế độ công khai minh bạch trong chi tiêu ngân sách của những đơn vị sử dụng ngân sách còn hạn chế. Do vậy, thực hiện công tác KSC thường xuyên NSNN qua KBNN còn bộc lộ những hạn chế và tồn tại, ảnh hưởng đến chất lượng sử dụng ngân sách, chưa đáp ứng yêu cầu quản lý và cải cách thủ tục hành chính trong xu thế đẩy mạnh mở cửa và hội nhập quốc tế.Những năm qua, KSC thường xuyên NSNN qua KBNN của nước ta nói chung và KBNN Văn Giang, tỉnh Hưng Yên nói riêng đã có những chuyển biến tích cực, đạt được nhiều kết quả tốt, đã từng bước được cụ thể theo hướng hiệu quả, ngày một chặt chẽ và đúng mục đích hơn cả về quy mô và chất lượng. Kết quả của thực hiện công tác KSC đã góp phần quan trọng trong việc sử dụng NSNN ngày càng hiệu quả hơn. Tuy nhiên, trong quá trình kiểm soát chi thường xuyên của các đơn vị sử dụng NSNN huyện Văn Giang vẫn còn bộc lộ một số hạn chế, tồn tại ảnh hưởng đến chất lượng sử dụng ngân sách, chưa đáp ứng yêu cầu quản lý và cải cách thủ tục hành chính trong xu thế đẩy mạnh mở cửa và hội nhập quốc tế.Mặt khác, lý luận về công tác KSC NSNN nói chung và KSC thường xuyên NSNN qua KBNN nói riêng trong nền kinh tế thị trường chưa được nghiên cứu đầy đủ để áp dụng. Vì vậy, công tác KSC thường xuyên NSNN qua KBNN Văn Giang cần tiếp tục được hoàn thiện một cách khoa học và có hệ thống. Từ nhận thức những quan điểm, lý luận về quản lý và kiểm soát chi thường xuyên từ nguồn vốn NSNN, qua nghiên cứu phân tích, đánh giá, chúng tôi đề xuất một số giải pháp hoàn thiện kiểm soát chi thường xuyên qua KBNN Văn Giang trong thời gian tới.

Nhóm giải pháp nhằm hoàn thiện KSC thường xuyên NSNN qua kho KBNN Tổng hợp các phương pháp nghiên cứu như phương pháp phân tích tổng hợp, kết hợp với suy luận logic. Đồng thời, trong quá trình thực hiện còn sử dụng phương pháp tổng hợp, thống kê các số liệu từ các báo cáo định kỳ, báo cáo năm của KBNN, KBNN Văn Giang các năm đã công bố để làm rõ mục tiêu nghiên cứu của đề tài, theo chúng tôi cần tập trung thực hiện tổng hợp 5 nhóm giải pháp sau.

Thứ hai, Nhóm giải pháp quy trình và nghiệp vụ kiểm soát.Một là: Áp dụng quy trình cấp phát Ngân sách nhà nước trực tiếp từ Kho bạc Nhà nước đến đối tượng sử dụng ngân sách. Đối với các khoản thanh toán từ NSNN cho đối tượng thụ hưởng từ NSNN là cá nhân như chi lương, phụ cấp lương, khoán công tác phí, tiền khoán chi điện thoại và các khoản thanh khác cho cá nhân, những đối tượng trên mở tài khoản ở các ngân hàng thương mại và được cung cấp dịch vụ thẻ. KBNN KSC đúng chế độ thực hiện chuyển tiền vào tài khoản ở ngân hàng cho các đối tượng đó, đối tượng hưởng đến rút tiền tự động tại máy rút tiền để chi tiêu hoặc thanh toán trực tiếp qua thẻ ATM. Được như vậy hàng năm KBNN Văn Giang sẽ giảm được lượng tiền mặt khá lớn mà không phải kiểm đếm khi rút từ ngân hàng về để chi cho các nội dung trên cho các đơn vị sử dụng NSNN, các đơn vị không phải bố trí thủ quỹ để rút tiền về chi lương. Như vậy sẽ rất tiết kiệm về nhân lực và tài lực cho KBNN nói riêng và tiết kiệm chí phí lưu thông cho xã hội nói chung.Hai là: Áp dụng quy trình kiểm soát chi thường xuyên Ngân sách nhà nước theo kết quả đầu ra. Đây là một phương thức cấp phát NSNN tiên tiến, mới được áp dụng ở một số nước, hoặc một số khoản chi đặc biệt. Theo đó, Nhà nước không can thiệp vào việc sử dụng các khoản kinh phí NSNN đã cấp cho các cơ quan đơn vị, mà chỉ quan tâm đến hiệu quả sử dụng các nguồn kinh phí đó, tức là chỉ quan tâm đến kết quả đầu ra của các chương trình, mục tiêu đã được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt. Theo phương thức cấp phát này, ngay từ khi lập dự toán, các cơ quan, đơn vị phải căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ được giao; chỉ tiêu nhiệm vụ của năm kế hoạch; chế độ, tiêu chuẩn, định mức chi tiêu; dự toán và kết quả thực hiện nhiệm vụ được giao của năm trước để xây dựng dự toán chi của năm kế hoạch. Sau khi được các cấp có thẩm quyền giao dự toán ngân sách năm, các cơ quan đơn vị dự toán cấp I tiến hành phân bổ và giao dự toán cho các đơn vị thực hiện phương thức cấp phát NSNN theo kết quả đầu ra. Trên cơ sở dự toán chi cả năm được giao và nhiệm vụ phải chi trong quý, các đơn vị phải lập nhu cầu chi quý gửi cơ quan quản lý cấp trên và KBNN nơi mở tài khoản. Căn cứ nhu cầu chi hàng quý đã đăng ký và yêu cầu của nhiệm vụ chi, đơn vị dự toán lập giấy rút dự toán ngân sách gửi KBNN nơi giao dịch. Căn cứ vào dự toán năm được giao và nhu cầu chi quý đã đăng ký, KBNN thực hiện trích chuyển kinh phí theo đề nghị của đơn vị. Thủ trưởng đơn vị được quyền chủ động và tự chịu trách nhiệm về việc sử dụng kinh phí được cấp, bảo đảm thực hiện công việc theo đúng những cam kết ban đầu. Định kỳ, cơ quan tài chính phối hợp với cơ quan quản lý cấp trên của đơn vị theo dõi, kiểm tra tình hình thực hiện nhiệm vụ của đơn vị. Trường hợp phát hiện đơn vị không bảo đảm thực hiện công việc theo đúng cam kết, KBNN được phép tạm dừng cấp kinh phí cho đơn vị hoặc có biện pháp thu hồi phần kinh phí đã cấp. Như vậy, trong cơ chế kiểm soát chất lượng “đầu ra”, các ràng buộc bằng chế độ , tiêu chuẩn, định mức chi tiêu ở “đầu vào” đã được thay bởi các tiêu chuẩn đánh giá hiệu quả chất lượng “đầu ra”. Do đó, nó đã khắc phục được những hạn chế của cơ chế KSC theo “đầu vào”. Tuy nhiên, muốn có một cơ chế kiểm soát như thế, trước hết nhà nước cần phải quy định các tiêu chuẩn hiệu quả đối với từng hình thức đơn vị sử dụng NSNN. Lẽ đương nhiên, những khoản chi tiêu thường xuyên của NSNN là những khoản chi gắn liền với việc thực hiện các chức năng của Nhà nước, tức là gắn liền với việc đáp ứng các nhu cầu chung, nhu cầu có tính chất toàn xã hội. Vì thế, hiệu quả của các khoản chi đó phải được xem xét dựa trên cơ sở đánh giá mức độ hoàn thành các mục tiêu kinh tế – xã hội nói chung. Đây thực sự là một vấn đề khó khăn, phức tạp trong quá trình triển khai áp dụng cơ chế này. Hơn thế, hiệu quả của việc quản lý và KSC thường xuyên NSNN không những chỉ đo được bằng các chỉ tiêu định lượng, mà còn phải xem xét cả bằng các chỉ tiêu định tính. Ngoài ra, một vấn đề nữa cũng cần phải tính đến là khi giao toàn bộ trách nhiệm quản lý tài chính cho Thủ trưởng đơn vị sử dụng ngân sách, rồi sau đó mới xem xét hiệu quả của việc sử dụng số kinh phí đó, sẽ rất dễ phát sinh trường hợp những nhà quản lý có thể lạm dụng số tiền tiết kiệm được trong quá trình sử dụng kinh phí được cấp để mưu lợi cho cá nhân hoặc chi tiêu lãng phí, gây thất thoát tiền, tài sản của Nhà nước, trong lúc không bảo đảm được số lượng, chất lượng công việc đã cam kết. Vì vậy trước mắt chỉ nên áp dụng phương thức cấp phát NSNN theo “kết quả đầu ra” đối với một số khoản chi cho các dịch vụ công cộng như an ninh trật tự, chống các tệ nạn xã hội, các chương trình giáo dục, y tế, vệ sinh môi trường.Ba là: Công khai hóa tại Kho bạc Nhà nước cơ chế quản lý, điều hành kiểm soát chi thường xuyên NSNN qua KBNN theo tiêu chuẩn chất lượng ISO 9001. KBNN Văn Giang đã xây dựng quy trình giao dịch, công khai các bước giao dịch của KBNN với khách hàng. Về công tác KSC thường xuyên NSNN, như đã trình bày ở trên, việc KSC phải căn cứ vào nhiều văn bản chế độ khác nhau cho mỗi khoản chi. Do đó mọi khoản chi KBNN phải công khai các văn bản áp dụng, chế độ tiêu chuẩn định mức chi tiêu, hồ sơ thủ tục đấu thầu, chỉ định thầu theo quy định… Tất cả các nội dung trên phải thực hiện công khai tại địa điểm giao dịch của KBNN để cán bộ KBNN và khách hàng cùng nghiên cứu và thực hiện theo tiếng nói chung, đó cũng là một khâu minh bạch trong KSC thường xuyên NSNN của KBNN Văn Giang.

Thứ ba, Nhóm giải pháp về chất lượng nguồn nhân lực. Nguồn nhân lực là yếu tố then chốt, bởi con người là nhân tố cơ bản, có tính quyết định trực tiếp đến việc thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của KBNN, tiến tới xây dựng KBNN trở thành Kho bạc điện tử. Như vậy phát triển nguồn nhân lực là một trong những nhiệm vụ rất quan trọng, cần thiết có chiến lược và kế hoạch dài hạn đáp ứng yêu cầu phát triển.Trước thực trạng về chất lượng nguồn nhân lực hiện nay của hệ thống KBNN và yêu cầu cấp thiết phải nâng cao chất lượng nguồn nhân lực để thực hiên chiến lược phát triển hệ thống KBNN phù hợp với công cuộc cải cách hành chính(CCHC) Nhà nước nói chung và của toàn ngành tài chính nói riêng Nâng cao trình độ chuyên môn cho cán bộ KBNN làm công tác KSC thường xuyên NSNN qua KBNN theo hướng: Chuyên môn hoá và tiêu chuẩn hoá đội ngũ cán bộ KBNN, đặc biệt là những cán bộ trực tiếp làm nhiệm vụ KSC thường xuyên NSNN, cần nắm vững tình hình kinh tế – xã hội của địa phương và các chính sách chế độ của nhà nước, thường xuyên rèn luyện tư cách, đạo đức và đề cao tinh thần trách nhiệm trong công tác. Tạo điều kiện cho cán bộ cập nhật những văn bản chế độ, chính sách mới về chi thường xuyên NSNN, tạo điều kiện cho họ bằng cách cung cấp các văn bản chế độ, tập huấn triển khai văn bản chế độ mới, thường xuyên truy cập internet. Cần có cơ chế thưởng phạt nghiêm minh. Thực hiện chế độ khen thưởng hợp lý, linh hoạt, dưới nhiều hình thức, nhằm tạo ra động lực kích thích mọi cán bộ công chức hăng say làm việc, phát huy tối đa trình độ, năng lực của mỗi người.

Thứ tư, Nhóm giải pháp phân công đầu mối tại KBNN thực hiện công tác KSC thường xuyên NSNN tại KBNN Việc phân công nhiệm vụ là đầu mối KSC thường xuyên NSNN của KBNN. Hiện nay KBNN Văn Giang phân công hai đầu mối thực hiện KSC thường xuyên NSNN: Đó là bộ phận kế toán và bộ phận kế hoạch. Phân công như vậy sẽ gây chồng chéo trong khâu kiểm soát, không thuận lợi cho công tác đối chiếu với khách hàng và không tạo điều kiện tốt nhất cho khách hàng. Cùng một hình thức kinh phí nhưng lại hai bộ phận khác nhau kiểm soát chi. Vì vậy nên thống nhất lại một đầu mối thực hiện KSC thường xuyên NSNN tại KBNN, đó là bộ phận kế toán KBNN .

Hoàn Thiện Công Tác Kiểm Soát Chi Ngân Sách Nhà Nước Qua Kho Bạc Nhà Nước Trà Vinh

Những năm qua, công tác kiểm soát chi (KSC) ngân sách nhà nước (NSNN) qua hệ thống Kho bạc Nhà nước (KBNN) nói chung và KBNN tỉnh Trà Vinh nói riêng đã có những chuyển biến tích cực, góp phần hoàn thành các mục tiêu phát triển kinh tế – xã hội và nhiệm vụ chính trị được giao. Tuy nhiên, hiện nay cơ chế KSC chưa đồng bộ, toàn bộ công việc KSC NSNN chỉ do 1 bộ phận kiểm soát, trong khi số lượng biên chế lại hạn chế… Những yếu tố này khiến quá trình kiểm soát đôi khi chưa thật sự chặt chẽ, chưa kịp thời, từ đó ảnh hưởng đến sự hài lòng của khách hàng.

Vấn đề đặt ra hiện nay là cần quản lý, KSC NSNN đảm bảo nhanh chóng, chặt chẽ, tiết kiệm, đúng mục đích, hiệu quả nhất và hạn chế tối đa các rủi ro, sai sót có thể xảy ra. Vì vậy, việc hoàn thiện công tác KSC NSNN tại KBNN tỉnh Trà Vinh có ý nghĩa rất quan trọng.

Thực trạng công tác kiểm soát chi ngân sách nhà nước qua Kho bạc nhà nước Trà Vinh

Nghiên cứu tiến hành khảo sát 60 công chức làm công tác KSC NSNN tại KBNN tỉnh, KBNN cấp huyện trên địa bàn tỉnh Trà Vinh cùng các chuyên viên của 100 đơn vị sử dụng ngân sách được KSC qua KBNN Trà Vinh (trong đó có 29 đơn vị sự nghệp, 15 ban quản lý dự án, 22 đơn vị hành chính, 34 đơn vị tổ chức chính trị xã hội). Kết quả khảo sát cho thấy:

Về tình hình nhân sự KSC: Lãnh đạo KBNN Trà Vinh xác định nguồn nhân lực là nhân tố quan trọng, quyết định sự thành công các hoạt động của hệ thống KBNN Trà Vinh. Do đó, ngay từ khi mới thành lập vào năm 1992, lãnh đạo KBNN Trà Vinh đã chú trọng công tác tuyển dụng, đào tạo và thường xuyên bồi dưỡng nghiệp vụ cho cán bộ, công chức, đặc biệt là công chức làm công tác chuyên môn nghiệp vụ.

Hàng năm, KBNN Trà Vinh luôn chú trọng công tác nâng cao trình độ, nghiệp vụ chuyên môn cho toàn thể đội ngũ công chức của Ngành. Đến nay, đội ngũ nhân sự KSC cơ bản đáp ứng yêu cần nhiệm vụ KBNN trên địa bàn đến năm 2020.

Về cải cách hành chính trong lĩnh vực KSC: Kết quả điều tra các đơn vị sử dụng ngân sách thông qua KBNN Trà Vinh về cải cách hành chính đối với KSC cho thấy, cơ bản các đơn vị sử dụng ngân sách có sự hài lòng đối với các hồ sơ niêm yết thống nhất với yêu cầu của công chức thực hiện KSC.

KBNN Trà Vinh luôn chú trọng công tác nâng cao trình độ, nghiệp vụ chuyên môn cho toàn thể đội ngũ công chức của Ngành. Đến nay, đội ngũ nhân sự KSC cơ bản đáp ứng yêu cần nhiệm vụ KBNN trên địa bàn đến năm 2020.

Về kết quả giải quyết công việc: Khảo sát các đơn vị sử dụng ngân sách về kết quả giải quyết công việc của công chức KSC KBNN Trà Vinh cho thấy, các công chức KSC đã nỗ lực hoàn thiện quy trình giao dịch một cửa, nâng cao trách nhiệm thông qua việc hướng dẫn khách hàng lập hồ sơ, kiểm tra sự đầy đủ, tính hợp pháp, hợp lệ, hợp lý của hồ sơ, có sự phối hợp nhịp nhàng giữa các bộ phận nghiệp vụ. Ngoài ra, việc đảm bảo đúng thời gian trả kết quả và tạo điều kiện để các đơn vị sử dụng ngân sách có thông tin về tiến độ, tình trạng hồ sơ cũng được cán bộ, công chức trên địa bàn thực hiện tốt, được đánh giá cao.

Về điều kiện đón tiếp và phục vụ: Kết quả khảo sát cho thấy, cơ sở hạ tầng, trang thiết bị phục vụ cho công việc và đáp ứng các tiện ích cho khách hàng tại KBNN Trà Vinh được đánh giá rất tốt. Các đơn vị sử dụng ngân sách đánh giá nơi giao dịch của KBNN Trà Vinh được bố trí thuận tiện, rộng rãi, thoáng mát, hiện đại và dễ nhận biết, đây là điểm thuận lợi của KBNN Trà Vinh. Ngoài ra, việc phục vụ đầy đủ nước uống và có chỗ để xe an toàn cũng được đánh giá tốt, góp phần gia tăng sự hài lòng của các khách hàng đơn vị khi đến giao dịch.

Bên cạnh các kết quả đạt được, thực tế công tác KSC NSNN qua KBNN Trà Vinh cũng cho thấy còn có một số hạn chế, tồn tại gồm:

Thứ nhất, quyền hạn và trách nhiệm của các cơ quan trong công tác quản lý chi chưa được thể hiện rõ.

Còn nhiều cơ quan, đơn vị cùng tham gia quản lý, kiểm soát thanh toán chi NSNN như: đơn vị sử dụng NSNN, cơ quan tài chính và KBNN, tuy nhiên, quy định về trách nhiệm và quyền hạn của các cơ quan, đơn vị trong việc quản lý, KSC NSNN chỉ mới đề cập ở mức độ chung chung, chưa cụ thể, còn trùng lặp và chồng chéo. Đơn vị sử dụng NSNN là đơn vị đầu tiên thực hiện KSC, việc KSC được thực hiện cả trước, trong và sau quá trình chi tiêu. Tuy nhiên, trên thực tế một số đơn vị ít kiểm soát, kiểm soát một cách hình thức, còn đẩy trách nhiệm kiểm soát chính cho KBNN.

Thứ hai, một số sai sót trong thực hiện nghiệp vụ của cán bộ, công chức. Do thực hiện các đề án tập trung đầu mối KSC, việc sáp nhập công việc KSC thường xuyên và KSC đầu tư chung một đầu mối nên công chức làm công tác KSC bước đầu còn lúng túng, chưa sâu, còn chậm trễ, xảy ra sai sót trong nghiệp vụ.

Thứ ba, cơ chế cấp phát dự toán chưa hiệu quả. Việc KSC thường xuyên theo hình thức dự toán chưa gắn với hiệu quả chi tiêu NSNN, chưa tạo sự chủ động cho đơn vị sử dụng NSNN. KSC của KBNN vẫn dựa theo phương thức quản lý đầu vào (dự toán, tiêu chuẩn, định mức), chưa chú trọng đến kết quả đầu ra, chưa tạo sự chủ động cho đơn vị sử dụng NSNN.

Thứ tư, công tác lập, phân bổ, chấp hành dự toán của các đơn vị còn nhiều hạn chế.

– Việc phân bổ dự toán còn nặng về hình thức, coi nhẹ nhu cầu chi tiêu của cấp dưới và chưa xem xét đúng mức đặc điểm, tình hình cụ thể trong kỳ kế hoạch nên việc phân bổ dự toán còn cào bằng, chưa phù hợp với thực tế.

– Công tác giao dự toán còn chậm so với thời gian quy định của Luật NSNN. Trong những tháng đầu năm và nhất là tháng 01 hàng năm, khi chưa có dự toán được giao, đơn vị chỉ được tạm cấp dự toán để chi cho các nhu cầu thiết yếu, vì vậy gây khó khăn rất lớn cho đơn vị sử dụng NSNN và công tác KSC của KBNN.

– Hiện tượng giao dự toán nhiều lần theo từng quý hoặc cấp bổ sung nhiều lần trong năm vẫn còn diễn ra ở một số đơn vị gây khó khăn cho KBNN trong việc hạch toán và quản lý dự toán chi.

Thứ năm, nội dung kiểm soát các khoản chi còn nhiều bất cập.

– Quy trình thực hiện cam kết chi chưa đạt được mục đích ngăn chặn tình trạng nợ đọng trong thanh toán tại các đơn vị sử dụng NSNN một cách toàn diện. Cam kết chi được thực hiện sau khi đơn vị ký kết hợp đồng với nhà cung cấp hàng hoá, dịch vụ. Hợp đồng đã được ký kết nhưng nếu đơn vị thực hiện cam kết chi bị KBNN từ chối do không đủ điều kiện chi thì đơn vị vẫn bị ràng buộc nghĩa vụ tài chính với nhà cung cấp, tức là vẫn tồn tại nợ đọng trong thanh toán.

– Việc thanh toán tạm ứng dồn về cuối năm, gây áp lực về thời gian cho công chức KSC nên KSC không chặt chẽ, kịp thời theo đúng quy định.

– Đối với các khoản chi thuộc diện phải thực hiện đấu thầu, còn xảy ra tình trạng đơn vị sử dụng NSNN chia nhỏ gói thầu để tránh đấu thầu.

– KBNN Trà Vinh còn đang thực hiện thủ công công việc tiếp nhận hồ sơ, chưa có chương trình tin học hỗ trợ đầy đủ nên việc quản lý giao dịch theo cơ chế “một cửa” vẫn còn xảy ra những tiêu cực trong quá trình giao nhận, xử lý hồ sơ, chứng từ, còn để khách hàng phản ánh trễ hẹn, công tác quản lý văn bản và quản lý hồ sơ đăng ký mẫu dấu còn thực hiện thủ công.

Thứ sáu, một số hạn chế trong ứng dụng công nghệ, tin học. Do có nhiều chương trình ứng dụng nên công chức KSC và lãnh đạo phải ghi nhớ nhiều mật khẩu từng phần mềm, phải thường xuyên thay đổi mật khẩu… Đường truyền một số chương trình lớn quá tải, xử lý chậm, nhất là những này đầu tháng, cuối tháng, đầu năm, cuối năm.

Phương hướng hoàn thiện công tác kiểm soát chi ngân sách nhà nước qua Kho bạc Nhà nước Trà Vinh

Mục tiêu tổng quát Chiến lược phát triển KBNN đến năm 2020 là: “Xây dựng KBNN hiện đại, hoạt động an toàn, hiệu quả và phát triển ổn định vững chắc trên cơ sở cải cách thể chế chính sách, hoàn thiện tổ chức bộ máy, gắn với hiện đại hóa công nghệ và phát triển nguồn nhân lực… Đến năm 2020, các hoạt động của KBNN được thực hiện trên nền tảng công nghệ thông tin hiện đại và hình thành Kho bạc điện tử”. Để đạt được mục tiêu chiến lược trên, hệ thống KBNN phải không ngừng đổi mới mọi lĩnh vực hoạt động, trong đó đổi mới và hoàn thiện công tác KSC NSNN có ý nghĩa quan trọng, quyết định.

Để hoàn thiện công tác KSC NSNN qua KBNN Trà Vinh, một số nội dung cần tập trung giải quyết gồm:

Một là, trong quá trình đổi mới cơ chế quản lý tài chính nói chung và đổi mới cơ chế quản lý NSNN nói riêng, mọi khoản chi NSNN phải đảm bảo tính tiết kiệm và có hiệu quả. Kiểm soát chặt chẽ các khoản chi NSNN góp phần thực hành tiết kiệm, tập trung mọi nguồn lực tài chính để phát triển kinh tế, xã hội, chống các hiện tượng tiêu cực, chi tiêu lãng phí góp phần kiềm chế lạm phát, ổn định tiền tệ và làm lành mạnh hoá nền tài chính quốc gia.

Hai là, yêu cầu phải có cơ quan có thẩm quyền thực hiện kiểm tra, giám sát quá trình chi tiêu để phát hiện và ngăn chặn kịp thời những hiện tượng tiêu cực; đồng thời phát hiện những kẽ hở trong cơ chế quản lý. Trong quá trình kiểm tra, kiểm soát, cần có những kiến nghị nhằm sửa đổi, bổ sung hay kịp thời ban hành những cơ chế quản lý phù hợp, chặt chẽ hơn, tránh sai phạm và lãng phí có thể xảy ra trong việc sử dụng NSNN của các cơ quan, đơn vị.

Ba là, hoạt động KSC cần phải có đội ngũ cán bộ công chức chuyên môn chuyên sâu về quản lý tài chính, am hiểu về lĩnh vực chuyên ngành mình quản lý, có khả năng phân tích, xử lý thông tin được cung cấp và giám sát đối chiếu với các quy định hiện hành của Nhà nước. Vì thế, phải thiết kế bộ phận KSC từ mô hình tổ chức KSC, số lượng và chất lượng nhân viên làm công tác KSC phù hợp.

Bốn là, để thực hiện tốt công tác KSC NSNN qua KBNN, phải có sự phối hợp tốt giữa KBNN với các cơ quan, đơn vị trên địa bàn. KBNN cần tranh thủ sự hỗ trợ của cấp ủy, chính quyền địa phương, chủ động tham mưu cho UBND, HĐND các cấp ban hành các văn bản thuộc lĩnh vực NSNN để KBNN có cơ sở pháp lý thực hiện kiểm soát các khoản chi ngân sách do địa phương quản lý.

1. Luật NSNN và các văn bản hướng dẫn, NXB Tài chính, Hà Nội – 2017; 2. Nghị định số 163/2016/NĐ-CP ngày 21/12/2016 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật NSNN, Hà Nội; 3. Thông tư số 161/2012/TT-BTC ngày 02/10/2012 của Bộ Tài chính hướng dẫn chế độ kiểm soát, thanh toán các khoản chi NSNN qua KBNN, Hà Nội; 4. Thông tư số 39/2016/TT -BTC ngày 01/3/2016 của Bộ Tài chính sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 161/2012/TT-BTC ngày 02/10/2012 hướng dẫn chế độ kiểm soát, thanh toán các khoản chi NSNN qua KBNN.

Giải Pháp Quản Lý Thu Chi Ngân Sách Kho Bạc Tiểu Luận Quản Lý Nhà Nước

5. Kết cấu của đề tài:Ngoài phần mở đầu và kết luận, phần nội dung chính của đề án đợc trình bày trong 3 phần chính và kết cấu thành 3 phần nh sau:Phần I: Cơ sở lý luận chung về nguồn vốn đầu t XDCB, trong đó vốn ODA.Phần II: Thực trạng về công tác ghi thu ghi chi vốn ngoài nớc qua Kho bạc Nhà nớcPhần III: Một số giải pháp nhằm đổi mới công tác ghi thu ghi chi vốn đầu t ngoài nớc thuộc ngân sách Trung ơng qua Kho bạc Nhà nớc. 2Phần ICơ sở lý luận về nguồn vốn đầu t XDCBI. Khái quát về nguồn vốn đầu t (VĐT) XDCB, phơng thức cấp phát vđt nói chung và nguồn vốn Hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) nói riêng1. Khái quát về nguồn VĐT XDCB và nguồn vốn ODA:Một trong những nguồn lực quan trọng và có ý nghĩa quyết định tới quá trình phát triển kinh tế xã hội của đất nớc đó là nguồn vốn đầu t XDCB. Chính vì vậy, cùng với việc không ngừng nâng cao hiệu quả vốn đầu t thì việc tăng nhanh tỷ trọng vốn đầu t sẽ góp phần không nhỏ tới chuyển dịch cơ cấu kinh tế và tốc độ tăng trởng của nền kinh tế đất nớc. Vốn đầu t XDCB hiện nay bao gồm:– Nguồn vốn trong nớc, bao gồm: vốn đầu t từ ngân sách nhà nớc ( vốn NSNN), vốn đầu t của các doanh nghiệp, vốn đóng góp của các tổ chức xã hội và các tâng lớp dân c– Nguồn vốn đầu t ngoài nớc, bao gồm: vốn đầu t trực tiếp của nớc ngoài, vốn hỗ trợ phát triển chính thức, viện trợ và vốn vay.1.1. Nguồn vốn đầu t trong nớc ( sửa gọn lại theo NĐ 52)Nguồn vốn ngân sách nhà nớc: là nguồn vốn chi từ NSNN cho đầu t phát triển, đợc cân đối vào dự toán ngân sách hàng năm. Từ năm 2001-2005, tỷ lệ vốn đầu t phát triển từ NSNN chiếm khoảng 22,7%/GNP. Theo qui định tại Nghị định số 52/1999/NĐ- CP ngày 08/7/1999 của Chính phủ thì nguồn vốn NSNN đợc đầu t cho các dự án, công trình:– Các DA kế cấu hạ tầng kinh tế-xã hội, quốc phòng, an ninh không có khả năng thu hồi vốn.– Hỗ trợ các DA của các doanh nghiệp đầu t vào các lĩnh vực cần có sự tham gia của nhà nớc.– Chi cho công tác điều tra, khảo sát, lập các DA qui hoạch tổng thể phát triển KT-XH vùng, lãnh thổ, qui hoạch xây dựng đô thị và nông thôn khi đơc TTCP cho phép.Nguồn vốn đầu t của các Doanh nghiệp là nguồn hình thành từ các nguồn vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp ( Quỹ đầu t phát triển, Khấu hao tài sản cố định ) và vốn đầu t phát triển do doanh nghiệp huy động ( vốn đầu t do NSNN hỗ trợ, vốn tín dụng đầu t phát triển của nhà nớc, vốn tín dụng thơng mại, vốn huy động khác ). Nguồn vốn đầu t của các Doanh nghiệp đợc sử dụng để đầu t nâng cao năng lực, đổi mới công nghệ của doanh nghiệp.3 Nguồn vốn đóng góp của các tổ chức xã hội và các tầng lớp dân c là nguồn vốn huy động đóng góp của các tổ chức xã hội, tổ chức từ thiện, của nhân dân để xây dựng các công trình phúc lợi công cộng có qui mô nhỏ ( xã, phờng quản lý).1.2. Nguồn vốn đầu t nớc ngoàiBao gồm nguồn vốn đầu t của các chính phủ, các tổ chức phi chính phủ, các tổ chức quốc tế, các t nhân đầu t vào nớc ta dới các hình thức trực tiếp hoặc gián tiếp, nh: Nguồn vốn đầu t trực tiếp của nớc ngoài (FDI); Vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA); Vốn viện trợ của các tổ chức phi chính phủ (NGO); Vốn đầu t gián tiếp của nớc ngoài do t nhân nớc ngoài cung cấp thông qua việc mua cổ phiếu, trái phiếu của nớc chủ nhà, nhng không tham gia công việc quản lý.Nguồn vốn đầu t trực tiếp của nớc ngoài (FDI) là nguồn vốn của các tổ chức, cá nhân nớc ngoài đầu t trực tiếp vào Việt Nam qua các hình thức công ty 100% vốn nớc ngoài hoặc các công ty liên danh. Từ khi thực hiện Luật Đầu t nớc ngoài tại VN (1987), tính đến hết năm 2004, cả nớc đã có 6.120 dự án FDI đợc cấp giấy phép với tổng vốn đăng ký đạt giá trị 49,87 tỷ USD, trong số đó hiện nay còn 5.130 dự án còn hiệu lực với tổng số vốn đăng ký khoảng 45,91 tỷ USD. Khu vực có vốn đầu t nớc ngoài đã hình thành và ngày càng phát triển, góp phần thúc đẩy tăng trởng kinh tế và đóng góp tỷ lệ ngày càng tăng trong GDP. Trong giai đoạn 1995-2003, vốn FDI chiếm trên 20% tổng vốn đầu t phát triển của Việt Nam (1995: 30,4%; 1996: 26%; 1997: 28%; 1998: 20,8%; 2000: 18,7%; 2002: 18%; 2003: 17,5%), đây là tỷ lệ khá lớn và là nguồn bổ trợ quan trọng nhu cầu vốn đầu t của nền kinh tế trong công cuộc CNH-HĐH đất nớc

2. Phơng thức cấp phát VĐT và vốn ODA:Do tính chất đa dạng của các nguồn vốn dành cho đầu t XDCB nên mỗi nguồn vốn có yêu cầu quản lý, theo dõi khác nhau. Nguồn vốn đầu t từ NSNN bao gồm cả vốn đầu t trong nớc và vốn đầu t ngoài nớc (vốn ODA) ph-ơng thức cấp phát thanh toán cũng khác nhau. 2.1 Phơng thức cấp phát VĐT từ NSNN:

2.1.1 Vốn trong nớc:Theo Quyết định số 3836/QĐ-BTC ngày 17/12/2003 của Bộ trởng Bộ Tài chính thì việc chuyển nguồn vốn đầu t từ cơ quan Tài chính sang KBNN để thanh toán cho các dự án đợc thực hiện theo hình thức Thông báo mức vốn đầu t. Mức vốn đầu t đợc cơ quan Tài chính thông báo theo từng quý. KBNN cấc cấp thực hiện kiểm soát hồ sơ đề nghị tạm ứng, thanh toán do chủ đầu t gửi đến và thanh toán trong phạm vi mức vốn đầu t đợc thông báo. Mức vốn đầu t quý này không sử dụng hết đợc chuyển sang quý sau và đợc sử dụng đết hết ngày 31/01 năm sau. Sau thời hạn này toàn bộ mức vốn đầu t- cha sử dụng phải đợc huỷ bỏ, trừ những dự án đợc phép kéo dài thời hạn thực hiện, thanh toán sang năm sau.

– Một là, mặc dù các dự án đã thực hiện giải ngân vốn ODA, nhng việc lập chứng từ ghi thu cho ngân sách và ghi chi cho dự án cha đợc thực hiện kịp thời. ví dụ: Tại Lệnh chi số 8866774 lập ngày 8/10/2003, số tiền 140.085 triệu đồng, GTGC cho dự án Giao thông nông thôn GĐ II thuộc Bộ Giao thông, trong đó có 22 món rút tiền từ thời điểm tháng 11/2002 với số tiền 9.757 triệu đồng, 90 món rút tiền tại thời điểm tháng 01/23003, số tiền 29.075 triệu đồng (chi tiết Phụ lục số 01/ĐA-GTGC).Chính vì việc lâp chứng từ GTGC không kịp thời làm ảnh hởng đến công tác hạch toán và quyết toán GTGC không kịp thời. Qua thống kê số liệu năm 2003, trong tổng số vốn GTGC là 6.400.543 triệu đồng thì số vốn GTGC trên chứng từ lập và gửi sau thời điểm kết thúc năm ngân sách là 4.708.673 triệu đồng, chiếm 73.5%. Năm 2004, tổng số vốn GTGC là 5.073.095 triệu đồng, số vốn GTGC trên chứng từ lập và gửi sau thời điểm kết thúc năm ngân sách là 1.524.372 triệu đồng, chiếm 30,04%.– Hai là, do Bộ Tài chính thờng gộp nhiều giấy rút vốn, phát sinh tại nhiều thời điểm và nhiều dự án trên một lệnh chi tiền và do công tác đối chiếu, tổng hợp chứmg từ rút vốn thiếu cẩn trọng nên chứng từ gửi KBNN còn nhiều sai sót trên bảng kê kèm theo chứng từ GTGC nh: số tiền chi tiết không khớp với tổng số; nhầm lẫn giữa số GTGC cho các Bộ qua KBNN và GTGC trực tiếp cho các dự án hoặc cho địa phơng; không tách riêng nội dung giữa chi XDCB và chi sự nghiệp; thiếu hoặc sai địa chỉ giao dịch những sai sót trên KBNN đều phải thông tin lại để Vụ Tài chính-Đối ngoại kiểm tra, đối chiếu mất nhiều thời gian và dẫn đến KBNN không thể thông báo GTGC cho KBNN tỉnh kịp thời nh tại văn bản số 301 KB/TTVĐT ngày 26/5/2005 gửi Vụ Tài chính đối ngoại vẫn còn 12 chứng từ GTGC thuộc niên độ 2003 với số tiền 1.924.651 triệu đồng và 17 chứng từ GTGC thuộc niên độ 2004 với số tiền 286.417 triệu đồng, KBNN cha thông báo GTGC cho các KBNN tỉnh do các sai sót trên cha xử lý đợc (chi tiết Phụ lục số 02/ĐA-GTGC).– Ba là, đối với những chứng từ GTGC sai sót phải đối chiếu, xác minh lại, sau khi KBNN thông báo lại cho Vụ Tài chính-đối ngoại thì việc đối chiếu, xử lý rất chậm trễ, đây cũng là một nguyên nhân ảnh hởng đến công tác hạch toán GTGC.Ví dụ: + Tại lệnh chi số: 8841914 ngày 22/8/2003 của Bộ Tài chính, GTGC cho Dự án Nhà máy giấy Bãi Bằng, số tiền: 40.050 triệu đồng. KBNN gửi công văn số 349 KB/TTVĐT ngày 15/3/2004 đề nghị Bộ GTGC trực tiếp cho doanh nghiệp vì đơn vị không mở tài khoản giao dịch tại KBNN. Sau nhiều 18công văn và trực tiếp làm việc với Bộ thì đến 6/6/2005 KBNN mới nhận đợc văn bản của Vụ TC-ĐN xử lý về khoản GTGC trên.+ Lệnh chi số 8841914 ngày 22/8/2003, GTGC cho DA thuộc Tổng cục dạy nghề, số tiền 1.922 triệu đồng, có 783 triệu thuộc nguồn vốn sự nghiệp. KBNN gửi công văn số 310 KB/TTVĐT ngày 05/03/2004 đề nghị Bộ điều chỉnh lại thì 4/2/2005 BTC mới điều chỉnh tại lệnh chi số 8921153.2. Tồn tại trong việc thông báo, hạch toán GTGC tại KBNN:– Thứ nhất, nh nhận xét ở tiết 3.1, điểm 3, mục I, phần II thì tại KBNN do KBNN cha qui định qui trình tác nghiệp trong công tác nhận, kiểm tra, đối chiếu và thông báo GTGC cho KBNN tỉnh nên công tác này trong thời gian qua còn nhiều tồn tại, không kịp thời: chứng từ thuộc niên dộ ngân sách năm trớc bị dồn sang năm sau gây khó khăn cho công tác tổng hợp quyết toán VĐT hàng năm. Mặt khác đối với một số chứng từ GTGC nhận từ Bộ Tài chính, do có sai sót thờng để lại toàn bộ số vốn GTGC chờ đối chiếu xong với Vụ TC-ĐN mới thông báo GTGC nên cũng gây nên sự chậm trẽ trong công tác hạch toán GTGC, dẫn đến số vốn GTGC cha hạch toán ghi chi cho dự án còn d cuối kỳ trên quyết toán VĐT hàng năm khá lớn: năm 2003 là 11.281.015 triệu đồng, năm 2004 là 8.856.813 triệu đồng.

Chức Năng Nhiệm Vụ Của Ngân Hàng Nhà Nước Tỉnh Hưng Yên

1. 1. Ngân hàng Nhà nước Chi nhánh tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (sau đây gọi tắt là Chi nhánh) là đơn vị phụ thuộc của Ngân hàng Nhà nước, chịu sự lãnh đạo và điều hành tập trung, thống nhất của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước (sau đây gọi tắt là Thống đốc), có chức năng tham mưu, giúp Thống đốc quản lý nhà nước về tiền tệ và hoạt động ngân hàng trên địa bàn và thực hiện một số nghiệp vụ Ngân hàng Trung ương theo ủy quyền của Thống đốc.

1. 2. Chi nhánh là đơn vị hạch toán, kế toán phụ thuộc, có con dấu và bảng cân đối tài khoản theo quy định của pháp luật.

2. Nhiệm vụ và quyền hạn

Chi nhánh thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể sau đây:

2. 1. Tổ chức phổ biến, chỉ đạo, triển khai thi hành các văn bản quy phạm pháp luật của Nhà nước, của Ngân hàng Nhà nước về tiền tệ và hoạt động ngân hàng đến các ngân hàng, tổ chức tín dụng phi ngân hàng, tổ chức tài chính vi mô, quỹ tín dụng nhân dân (sau đây gọi tắt là tổ chức tín dụng) và các tổ chức khác có hoạt động ngân hàng trên địa bàn.

2. 3. Thực hiện nhiệm vụ cấp, thu hồi giấy phép thành lập và hoạt động ngân hàng của các tổ chức tín dụng và tổ chức khác có hoạt động ngân hàng trên địa bàn theo ủy quyền của Thống đốc và quy định của pháp luật.

2. 4. Giám sát, chỉ đạo việc chia, tách, hợp nhất, sáp nhập, kiểm soát đặc biệt, giải thể đối với các tổ chức tín dụng trên địa bàn theo ủy quyền của Thống đốc và quy định của pháp luật.

2. 5. Tổ chức, thực hiện công tác thanh tra, giám sát, xử lý vi phạm đối với hoạt động của các tổ chức tín dụng, hoạt động ngân hàng của các tổ chức, cá nhân khác trên địa bàn theo quy định của Ngân hàng Nhà nước và của pháp luật.

2. 6. Cung ứng dịch vụ thanh toán, ngân quỹ và các dịch vụ ngân hàng trung ương khác cho các tổ chức tín dụng và Kho bạc Nhà nước trên địa bàn.

2. 7. Thực hiện các nghiệp vụ và biện pháp quản lý nhà nước về ngoại hối trên địa bàn theo quy định của Ngân hàng Nhà nước và của pháp luật.

2. 8. Thực hiện nghiệp vụ tái cấp vốn và cho vay thanh toán đối với các tổ chức tín dụng trên địa bàn khi được Thống đốc ủy quyền.

2. 9. Thực hiện các nghiệp vụ và biện pháp quản lý nhà nước về tiền tệ, kho quỹ, bảo đảm an toàn về tài sản, tiền và các giấy tờ có giá bảo quản tại Chi nhánh và khi giao nhận theo quy định của Ngân hàng Nhà nước và của pháp luật.

2. 10. Thực hiện công tác phòng, chống tham nhũng, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí; giải quyết khiếu nại, tố cáo theo quy định của Thống đốc và của pháp luật.

2. 11. Thực hiện quy chế dân chủ cơ sở, công khai tài sản, tài chính theo quy định của Thống đốc và của pháp luật.

2. 12. Báo cáo, trả lời chất vấn theo yêu cầu của cấp ủy, chính quyền địa phương; trả lời kiến nghị của các cơ quan báo chí về tiền tệ và hoạt động ngân hàng trên địa bàn theo quy định của Thống đốc và của pháp luật.

2. 13. Quản lý tài chính, tài sản được giao theo quy định của Ngân hàng Nhà nước và của pháp luật.

2. 14. Phối hợp với Trường Bồi dưỡng cán bộ ngân hàng để quản lý, khai thác và sử dụng có hiệu quả cơ sở bồi dưỡng cán bộ của Trường Bồi dưỡng cán bộ ngân hàng thuộc Ngân hàng Nhà nước đặt trên địa bàn theo quy định của Ngân hàng nhà nước và của pháp luật.

2. 15. Thực hiện công tác bảo vệ, phòng cháy chữa cháy, phòng chống cháy nổ, phòng chống bão lụt, đảm bảo an ninh, trật tự an toàn tại Trụ sở Chi nhánh và các cơ sở vật chất khác thuộc thẩm quyền quản lý của Chi nhánh

2. 16. Thực hiện chế độ thông tin, báo cáo theo quy định của Ngân hàng Nhà nước và của pháp luật.

2. 17. Thực hiện các nhiệm vụ khác do Thống đốc giao.

Bạn đang đọc nội dung bài viết “Một Số Giải Pháp Chủ Yếu Nhằm Hoàn Thiện Kiểm Soát Chi Thường Xuyên Ngân Sách Nhà Nước Qua Kho Bạc Nhà Nước Văn Giang, Tỉnh Hưng Yên” trên website Photomarathonasia.com. Hy vọng một phần nào đó những thông tin mà chúng tôi đã cung cấp là rất hữu ích với bạn. Nếu nội dung bài viết hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!