Đề Xuất 5/2023 # Một Số Biện Pháp Nâng Cao Chất Lượng Bồi Dưỡng Giáo Viên Thpt Trước Yêu Cầu Đổi Mới Giáo Dục # Top 7 Like | Photomarathonasia.com

Đề Xuất 5/2023 # Một Số Biện Pháp Nâng Cao Chất Lượng Bồi Dưỡng Giáo Viên Thpt Trước Yêu Cầu Đổi Mới Giáo Dục # Top 7 Like

Cập nhật nội dung chi tiết về Một Số Biện Pháp Nâng Cao Chất Lượng Bồi Dưỡng Giáo Viên Thpt Trước Yêu Cầu Đổi Mới Giáo Dục mới nhất trên website Photomarathonasia.com. Hy vọng thông tin trong bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu ngoài mong đợi của bạn, chúng tôi sẽ làm việc thường xuyên để cập nhật nội dung mới nhằm giúp bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.

                               TS Phạm Thị Kim Anh

                                Viện NCSP-Trường ĐHSP Hà Nội

                               ĐT; 0988184413. Email:phamkimanh279@yahoo.com.vn

     

1. Mở đầu

Theo “Kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng GV phổ thông thực hiện chương trình, sách giáo khoa giáo dục phổ thông mới” ban hành tháng 5/2018, Bộ GD&ĐT yêu cầu: “Bảo đảm tất cả GV cơ sở GDPT trên cả nước hoàn thành chương trình bồi dưỡng trước thời gian bắt đầu triển khai áp dụng chương trình, sách giáo khoa GDPT mới. Kế hoạch được thực hiện tuần tự đối với từng cấp học. Đối với cấp THPT, GV được bồi dưỡng từ năm học 2021-2022 [6,tr1]

Mục đích của bồi dưỡng là giúp các GV bổ sung kịp thời các kiến thức, kỹ năng, phương pháp, kỹ thuật dạy học mới, và có thể phát triển về chuyên môn, nghiệp vụ phù hợp với yêu cầu của chương trình GDPT mới đòi hỏi. Sự phát triển đó thể hiện ở những thay đổi của bản thân người GV trong thực tế hoạt động nghề nghiệp. Những thay đổi đó bao gồm cả về thái độ, nhận thức và hành vi dạy học, giáo dục theo yêu cầu mới.

Vậy làm thế nào để công tác bồi dưỡng GV đạt được mục đích như trên? Điều này rất cần có những thay đổi bứt phá trong quan điểm chỉ đạo cũng như việc tổ chức bồi dưỡng GV. Theo Nguyễn Vinh Hiển: “Phải kế thừa, phát huy những bài học kinh nghiệm đã có; khắc phục các hạn chế, yếu kém; đồng thời cần đổi mới đối với tất cả các thành tố: mục tiêu, nội dung, hình thức và phương pháp bồi dưỡng, kiểm tra đánh giá, công tác quản lý và những điều kiện thực hiện phù hợp” [9, tr1]

Để góp phần nâng cao chất lượng công tác bồi dưỡng GV, trong bài báo này chúng tôi tập trung vào đổi mới các thành tố trong khâu bồi dưỡng GV, nhất là trong tổ chức và quản lí bồi dưỡng

2. Nội dung

2.1. Khảo sát nhu cầu, phân loại đối tượng, lập kế hoạch bồi dưỡng sát với yêu cầu và năng lực của GV

Các nghiên cứu [2],[3], [10], [11], [13] đã chỉ ra rằng: Việc bồi dưỡng GV phổ thông trong những năm qua tuy đã có nhiều đổi mới, từ nội dung tới cách thức tổ chức và đã góp phần nâng cao năng lực cho đội ngũ chúng tôi nhiên, còn bộc lộ nhiều hạn chế, bất cập và chưa đem lại những hiệu quả  thiết thực. Theo chúng tôi, nguyên nhân cơ bản là khi thiết kế và tổ chức các chương trình bồi dưỡng chưa đánh giá và xác định được nhu cầu cần bồi dưỡng của GV, chưa hiểu rõ GV đang thiếu gì, cần bồi dưỡng nội dung gì và bồi dưỡng thế nào? Dẫn đến tình trạng bồi dưỡng áp đặt, đồng loạt, đại trà cho mọi đối tượng GV với những nội dung định sẵn, không sát với thực tế. Điều này khiến cho nhiều GV thiếu tin tưởng vào hiệu quả các chương trình bồi dưỡng và buộc phải trải qua những khoá bồi dưỡng vô bổ, ít có tác dụng [3]. Lí luận và thực tiễn đã chỉ ra rằng, nhu cầu bồi dưỡng của GV rất đa dạng, tùy thuộc vào từng nhóm đối tượng cụ thể cũng như trình độ năng lực của mỗi GV. Đặc biệt, số năm kinh nghiệm giảng dạy có tương quan tỷ lệ nghịch với nhu cầu cần được bồi dưỡng. Không có nhu cầu nào là chung cho mọi GV. Vì vậy, công việc đầu tiên là phải tiến hành khảo sát, đánh giá nhu cầu để thấy rõ cái đang cần, đang thiếu và đang yếu của GV. Từ đó phân loại đối tượng, xây dựng kế hoạch bồi dưỡng cho sát với yêu cầu thực tiễn của GV.

Để làm tốt điều này, cần phải thực hiện các việc sau:

– Thứ nhất, xây dựng phiếu điều tra, tiến hành khảo sát năng lực và nhu cầu của GV ở trường THPT. Qua việc trả lời những câu hỏi cụ thể, GV sẽ tự soi rọi, đánh giá hoạt động DH- GD của bản thân để nêu rõ những khó khăn, hạn chế, yếu kém; tự đặt ra nhu cầu cho mình. Trên cơ sở các thông tin mà GV cung cấp, xác định nhu cầu thực tế của GV, phân loại nhu cầu theo từng đối tượng.

-Thứ hai, xác định mục tiêu và lập kế hoạch bồi dưỡng

Khi các nhu cầu bồi dưỡng của GV đã được xác định, bước tiếp theo là phải chuyển các yêu cầu này thành các mục tiêu bồi dưỡng hay các kết quả mong muốn của hoạt động bồi dưỡng.

2.2. Phân công và phân cấp bồi dưỡng một cách rõ ràng

           Để tránh được sự “tam sao thất bản” và khắc phục được nhược điểm, hạn chế của “mô hình thác nước” trong bồi dưỡng GV từ cấp quốc gia xuống tỉnh, huyện, hiện nay Bộ GD&ĐT đã chỉ đạo thực hiện theo kiểu phân tầng ở 2 cấp: Cấp Trung ương và cấp địa phương.

 Ở cấp địa phương sẽ bồi dưỡng GV đại trà thông qua đội ngũ GV cốt cán và bằng nhiều hình thức, trong đó chú trọng hình thức bồi dưỡng trực tuyến.

Với cách phân cấp như vậy, việc bồi dưỡng GV ở các địa phương sẽ tránh được  những nhược điểm của cách bồi dưỡng trước đây và GV được tiếp thu kiến thức, kĩ năng trực tiếp từ đội ngũ GV cốt cán cũng như học được ở mọi lúc, mọi nơi qua bồi dưỡng trực tuyến.

       Tuy nhiên, đây cũng chưa phải là cách làm mới và tối ưu. Bởi lẽ việc sử dụng đội ngũ GV cốt cán để bồi dưỡng cho GV cấp địa phương cũng chỉ diễn ra theo đợt/chu kì và theo những yêu cầu của Bộ/ngành với những nội dung đã định sẵn và nó không thể thực hiện một cách thường xuyên, liên tục. Do đó, cần mạnh dạn trao quyền tự chủ cho các cơ sở GD ở địa phương chủ động trong việc lập kế hoạch, triển khai bồi dưỡng GV tại cơ sở, đồng thời phải trao cho các trường ĐHSP có chất lượng cao chịu trách nhiệm trong việc bồi dưỡng GV. “Các trường ĐHSP phải chịu trách nhiệm cả 3 công đoạn trong một quá trình: Tạo ra sản phẩm, đưa vào sử dụng và bảo dưỡng (bảo trì) sản phẩm. Nghĩa là việc bồi dưỡng GV là trách nhiệm của trường sư phạm”. [1, tr 33-40].

     2.3. Xây dựng nội dung chương trình bồi dưỡng thiết thực, chuyên sâu và dựa trên nhu cầu của GV

Theo Lê Đức Giang, Kiều Phương Chi–Viện Sư phạm Tự nhiên,Trường Đại học Vinh: chương trình bồi dưỡng chưa giúp được nhiều cho GV trong việc chuẩn bị dạy học theo định hướng của CTGD  phổ thông mới, chưa chú trọng bồi dưỡng năng lực thực hành thí nghiệm cho giáo viên Vật lý, Hóa học và Sinh học [8]. Còn theo nhận xét của Đinh Quang Báo-Nguyên hiệu trưởng trường ĐHSP Hà Nội: “Nội dung chương trình bồi dưỡng chưa gãi đúng chỗ ngứa của GV”[2,tr 34 ]. Điều đó cho thấy, những nội dung bồi dưỡng chưa đem lại cho GV những điều cần thiết nhất. Do đó cần phải xây dựng nội dung chương trình bồi dưỡng sao cho thiết thực, dựa trên nhu cầu, mong muốn của GV.

Ông Hoàng Đức Minh- Cục trưởng Cục Nhà giáo và CBQL giáo dục (Bộ GD&ĐT) cho biết: “Việc bồi dưỡng theo Chuẩn cần gắn kết chặt chẽ với nhu cầu mỗi cá nhân – hướng tới việc bồi dưỡng theo các nội dung tự chọn của mỗi người một cách thiết thực, hiệu quả qua việc hỗ trợ bằng phương thức bồi dưỡng ứng dụng CNTT. Người học có thể học mọi lúc, mọi nơi, bất kể thời gian nếu có điều kiện, qua hệ thống tài liệu được thiết kế “treo” trên mạng Internet” [13]

Tới đây, theo kế hoạch của Bộ GD&ĐT, nội dung chương trình và tài liệu bồi dưỡng ở cả cấp trung ương và địa phương  đều cùng thống nhất thực hiện 2 nội dung:

 -Hướng dẫn dạy học môn học theo CT GDPT mới;

– Hướng dẫn sử dụng hệ thống tài liệu bồi dưỡng giáo viên qua mạng (do CT ETEP biên soạn).

Điều đó là cần thiết, song chưa đủ. Theo chúng tôi, cần xây dựng những chuyên đề chuyên sâu tập trung vào 3 mảng nội dung chính:

b)Bồi dưỡng năng lực DH và năng lực GD cho GV ( năng lực nghiệp vụ sư phạm)

c)Bồi dưỡng phát triển các giá trị, đạo đức nghề nghiệp ( phẩm chất đạo đức)

            Trong việc bồi dưỡng năng lực DH và năng lực GD cho GV, theo chúng tôi, cần tập trung vào những điểm yếu, những khó khăn mà GV đang gặp phải theo yêu cầu đổi mới. Các nghiên cứu của Hoàng Thị Kim Huệ [5], Phạm Thị Kim Anh [4], Nguyễn Danh Nam [14] đã chỉ rõ:

-Về năng lực dạy học, cần tập trung bồi dưỡng các kĩ năng:

+ Kĩ năng thiết kế và tổ chức DH theo định hướng phát triển năng lực người học.

+Kĩ năng thiết kế và tổ chức DH-GD bằng trải nghiệm.

+ Kĩ năng sử dụng các phương pháp và kỹ thuật DH tích cực, hiện đại.

+ Kĩ năng sử dụng công nghệ thông tin và sử dụng thiết bị DH có hiệu quả.

+ Kĩ năng thuyết trình, truyền thụ kiến thức sao cho HS hứng thú, có cảm hứng và yêu thích môn học.

+ Kĩ năng đặt câu hỏi, dẫn dắt, nêu vấn đề trong DH.

+ Kĩ năng tương tác với HS một cách cực.

+ Kĩ năng xử lý các tình huống DH.

+ Cách lấy ví dụ để liên hệ, ứng dụng kiến thức bài học vào thực tiễn cuộc sống.

+ Kĩ năng sử dụng một số phương pháp và hình thức kiểm tra- đánh giá mới,

+ Kĩ năng thiết kế các đề kiểm tra -đánh giá theo tiếp cận phát triển năng lực HS.

+ Kĩ năng và cách thức phát triển chương trình môn học.

+  Hướng dẫn và tổ chức HS nghiên cứu khoa học, tự học …vv.

Đây là những vấn đề GV đang có nhu cầu cần bồi dưỡng nhiều nhất.

-Về năng lực GD và quản lý lớp học, cần tập trung bồi dưỡng GV:

+ Các kiến thức về đặc điểm tâm lý lứa tuổi HS hiện nay.

+ Kỹ năng tổ chức và quản lý lớp học (trong đó chú ý đến các vấn đề: cách xử lý hành vi vi phạm đạo đức và GD HS cá biệt; cách quản lý HS trong và ngoài giờ học; cách tổ chức hoạt động sinh hoạt tập thể cho HS;…)

+ Các phương pháp giảng dạy kỹ năng sống, giá trị sống cho HS.

+ Các kỹ năng mềm để kiềm chế cảm xúc tiêu cực và giao tiếp có hiệu quả với HS.

+ Kỹ năng ứng xử, giao tiếp, thiết lập mối quan hệ với đồng nghiệp, cha mẹ HS và tập thể GV trong nhà trường để phối hợp GD HS.

+ Kĩ năng thích ứng với sự thay đổi của môi trường GD mới.

+ Kĩ năng tổ chức hoạt động giáo dục hướng nghiệp đáp ứng yêu cầu chương trình phổ thông mới.

Để tránh những chuyên đề trùng lặp, chồng chéo, hàn lâm lí thuyết, xa rời thực tiễn, nội dung tài liệu bồi dưỡng phải có tính thiết thực, sát với yêu cầu đổi mới; chú trọng vào những kỹ năng hoạt động thực hành, làm mẫu để GV dễ dàng áp dụng .Việc biên soạn tài liệu cũng cần phải được thể hiện một cách đa dạng, tinh giản, gọn nhẹ, có bản in, bản điện tử, video clip, đĩa CD, cẩm nang hỏi đáp… Trong đó chú trọng việc “số hóa”, đưa lên mạng Internet tất cả các thông tin để tạo điều kiện cho GV  có thể tự học tập ở mọi nơi, mọi lúc.

 2.4. Đổi mới phương pháp, hình thức tổ chức bồi dưỡng

2.4.1.Về hình thức tổ chức bồi dưỡng: Đa dạng hóa các hình thức bồi dưỡng, song chú trọng 2 hình thức cơ bản: bồi dưỡng tập trung trực tiếp (tập huấn) và bồi dưỡng trực tuyến qua mạng.

 Hoạt động tập huấn cho GV có thể được thực hiện theo những hình thức khác nhau: tập huấn đại trà, tập huấn cho nhóm GV; tập huấn tập trung hoặc tập huấn tại cơ sở giáo dục. 

Để nâng cao hiệu quả việc bồi dưỡng bằng hình thức này và phát huy được tính tích cực của GV, cần thực hiện các bước sau :

+ Bước 1: Phát tài liệu, hướng dẫn sơ bộ cho GV về nội dung tài liệu. GV tự nghiên cứu tài liệu bồi dưỡng.

+ Bước 3: Tổ chức cho GV trao đổi về tài liệu học tập theo từng trường, cụm trường.

+Bước 4: Giảng viên trình bày lý thuyết, làm mẫu và minh họa bằng các ví dụ cụ thể.

+ Bước 5: GV/nhóm GV vận dụng lý thuyết, xem mẫu và thực hành qua một hoạt động sư phạm cụ thể.

+ Bước 6: Các nhóm trình bày kết quả sản phẩm thực hành và trao đổi, nhận xét về kết quả, sản phẩm của các nhóm.

+ Bước 7: Tổ chức giải đáp những nội dung GV chưa rõ hoặc chưa thống nhất cũng như giải đáp những câu hỏi, thắc mắc của GV nêu ra.

Cách tổ chức như vậy sẽ tránh được nhược điểm, hạn chế của phương pháp truyền thống theo kiểu giảng viên truyền thụ nội dung theo chiều từ trên xuống dưới rất thụ động.

Song cần lưu ý rằng, hình thức bồi dưỡng tập trung trực tiếp tuy là hình thức rất lý tưởng, nhưng nó ít gắn với thực tiễn lớp học và khó thực hiện trong điều kiện thời gian và kinh phí hạn hẹp. Vì vậy cần sử dụng hình thức này cho phù hợp với bối cảnh thực tế của GV và nhà trường.

– Bồi dưỡng trực tuyến (bồi dưỡng từ xa qua mạng Internet)

Tại hội thảo quốc tế lần thứ 19 về “Ứng dụng công nghệ thông tin và quản lý – ITAM” tổ chức đầu năm 2018 tại Trường Đại học Đông Á (Đà Nẵng), ông Pradeep Bastola, thuộc nhóm các nhà nghiên cứu Trường Đại học Lincoln (Mỹ) đã chỉ ra: “hiện có cuộc dịch chuyển từ phương pháp dạy và học truyền thống sang phương pháp học trực tuyến. Phương pháp này phát triển với tốc độ chưa bao giờ thấy trong lịch sử 10 năm qua và hứa hẹn sẽ tiếp tục tăng nhanh trong tương lai. Theo Economist, số người đăng ký học trực tuyến trên thế giới tăng từ khoảng 60 triệu người (năm 2016) lên khoảng 70 triệu người (năm 2017) [7]. Như vậy, việc học tập trực tuyến đang là xu thế chung của các nước.

Sử dụng hình thức học trực tuyến để bồi dưỡng cho GV là một giải pháp hay nhằm  giải quyết tình trạng bất bình đẳng trong cơ hội bồi dưỡng của GV và phát huy tinh thần tự học, tự bồi dưỡng của GV trên một qui mô rộng lớn khắp cả nước, từ thành thị, nông thôn cho đến hải đảo xa xôi và những vùng núi hẻo lánh. Hiện nay, khi công nghệ thông tin phát triển như vũ bão, chuyển sang thời kỳ Cách mạng 4.0, thì việc lựa chọn hình thức bồi dưỡng này được đặc biệt quan tâm, trong đó E- Learning là xu hướng tất yếu nhằm giúp GV có  thể học được ở mọi lúc, mọi nơi, phù hợp với trình độ, hoàn cảnh, thời gian, khoảng cách xa xôi về địa lí và  giảm được chi phí. Do phương thức này chú trọng vào người học và việc tự học nên cần một lượng tài liệu phong phú, đa dạng để giúp cho GV không mất quá nhiều thời gian cho việc tìm kiếm thông tin trên mạng. Để việc hỗ trợ GV  thành công hơn, cần tổ chức các buổi học trực tuyến để giảng viên trực tiếp gặp gỡ, trao đổi và giải đáp thắc mắc về những kiến thức quan trọng nhất cho người học. Những vấn đề giới thiệu lý thuyết, các tình huống thực tế, mô phỏng, bài giảng mẫu… sẽ để GV tự học qua mạng.

Hiện nay trang mạng “Trường học kết nối” đã được Bộ GD&ĐT khuyến khích GV sử dụng như là một phương thức để bồi dưỡng và tự bồi dưỡng cho GV. Vì vậy cần phát huy hiệu quả  trang mạng này để thực hiện tốt việc bồi dưỡng theo nhu cầu của từng cá nhân.

Bên cạnh đó, việc sử dụng facebook để tạo lập, liên kết với một nhóm GV cũng là một hình thức cần được khuyến khích sử dụng để bồi dưỡng lẫn nhau. Qua trang này, mọi GV đều được chia sẻ, học tập kinh nghiệm và giải đáp vướng mắc trong các công việc giảng dạy, giáo dục HS.

Có thể nói, các hình thức dựa trên ứng dụng ICT rất giá trị, đem lại nhiều tiện ích đối với việc bồi dưỡng GV trong bối cảnh hiện nay. Các Sở GD&ĐT, các trường ĐHSP và cơ sở bồi dưỡng GV cần vận dụng tốt phương thức này để gắn kết mọi GV là thành viên của cộng đồng học tập qua mạng.

Cả hai hình thức bồi dưỡng tập trung, trực tiếp và trực tuyến qua mạng Internet cần kết hợp chặt chẽ với nhau, không nên tuyệt đối hóa vai trò của bất cứ hình thức nào và phải có tư vấn, hỗ trợ của giảng viên sư phạm/ đội ngũ cán bộ cốt cán cơ sở.

Ngoài những hình thức bồi dưỡng trên, cần vận dụng linh hoạt các hình thức khác như: Hội thảo, xemine, sinh hoạt cụm chuyên môn; dự giờ đồng nghiệp, tự học, tự bồi dưỡng qua sách, tài liệu để phát triển cộng đồng học tập trong GV tại cơ sở.

Việc tổ chức cho GV tham quan thực tế tại các trường phổ thông chất lượng cao để học hỏi, trao đổi kinh nghiệm trong giảng dạy, GD cũng là một trong những hình thức cần được đẩy mạnh, vì nó đem lại nhiều điều bổ ích cho chúng tôi nhiên, cần lựa chọn những  mô hình trường tham quan tiêu biểu.

2.4.2. Về địa điểm tổ chức bồi dưỡng:  không nên đưa GV đến những nơi qúa xa, nhất là những  khu du lịch, nghỉ mát. Điều này dẫn đến tình trạng GV học tập thì ít mà nghỉ mát thì nhiều. Bức xúc về tình trạng này, Đinh Xuân Lâm trong nhiều năm trước đây đã từng lên tiếng:“Cần chấm dứt kiểu bồi dưỡng tập trung GV đi biển mùa hè nghe báo cáo…Tôi đã từng đi báo cáo về SGK lớp 10, dăm ba buổi họ ngồi nghe, nhưng có thiết thực gì mấy đâu” [12]. Theo kinh nghiệm của một số nước như Đức, Anh, Nhật Bản, Hàn Quốc, Phần Lan, Singgapo [4]…họ rất coi trọng việc bồi dưỡng tại chỗ cho GV. Điều đó không chỉ gắn việc bồi dưỡng những nội dung lí thuyết với thực tiễn tại môi trường lớp học, mà còn giảm khó khăn về giao thông đi lại, về thời gian lưu trú và kinh phí. Theo kết quả điều tra, khảo sát năm 2018 của chúng tôi, phần lớn GV có nhu cầu  tổ chức tại các cụm trường THPT, các Trung tâm GD thường xuyên của huyện, hoặc có thể tổ chức tại các trường đại học, cao đẳng sư phạm (nếu ở gần) để khai thác và phát huy thế mạnh của các đơn vị này trong công tác bồi dưỡng.

2.4.3.Về phương pháp bồi dưỡng

 Chú trọng việc bồi dưỡng GV tại đơn vị cơ sở (xây dựng cộng đồng học tập trong nhà trường), hướng GV đi vào con đường tự học, tự nghiên cứu để mở rộng, nâng cao kiến thức chuyên môn, nghiệp vụ.

     2.5.Đổi mới công tác quản lí bồi dưỡng

      Để khắc phục tình trạng quản lí nặng tính hành chính và hình thức, công tác quản lí bồi dưỡng cần phải đổi mới một cách căn bản. Cần lựa chọn các hình thức đánh giá phù hợp, linh hoạt, mềm dẻo để thúc đẩy động cơ phát triển nghề nghiệp của GV. Trong đó, không so sánh, không xếp thứ hạng, không cho điểm và nhận xét GV. Điều đó không có nghĩa là buông lỏng mà chính là thể hiện sự tín nhiệm và tin cậy vào khả năng tự phát triển của GV. Mặt khác, phải giải phóng GV thoát khỏi những ràng buộc hành chính để họ có thể tự do học tập và sáng tạo. Đây chính là bí quyết thành công trong công tác bồi dưỡng GV của một số nước. Bên cạnh đó, nên giảm số tiết lên lớp mỗi ngày cho GV để họ có thời gian cùng nhau trao đổi chuyên môn, rút kinh nghiệm và góp ý các tiết dạy sau được tốt hơn. 

         Trong quá trình triển khai bồi dưỡng trực tuyến, để khắc phục tình trạng GV không tham gia, các cơ sở tổ chức bồi dưỡng cần phối hợp chặt chẽ với các cơ quan quản lý GV (Sở GD&ĐT, Phòng GD&ĐT, các trường phổ thông) để giám sát, đánh giá và công nhận kết quả bồi dưỡng của GV một cách hiệu quả. 

            Về nội dung bồi dưỡng, cần kiểm tra – đánh giá trên các phương diện:

– Nhận thức của GV  về các vấn đề đã được bồi dưỡng;

-Sự vận dụng những kiến thức, kỹ năng được bồi dưỡng vào thực tiễn DH- GD ở nhà trường của GV và hiệu quả của nó.

-Đánh giá sự phù hợp của nội dung, phương pháp, hình thức tổ chức bồi dưỡng GV.                Từ đó tìm ra những bất cập, hạn chế, những điểm cần rút kinh nghiệm và tiến hành cải tiến hoạt động bồi dưỡng GV được tốt hơn.

Bên cạnh đó, để nâng cao hiệu quả của các đợt bồi dưỡng GV, cần tăng cường cơ sở vật chất, trang thiết bị và đầu tư thỏa đáng về kinh phí cho công tác bồi dưỡng GV, nhất là hạ tầng công nghệ thông tin phục vụ cho việc tự học, tự bồi dưỡng của GV và tổ chức bồi dưỡng qua mạng.

     2.6. Sử dụng đội ngũ giảng viên sư phạm cốt cán, phát huy thế mạnh của các trường sư phạm trong công tác bồi dưỡng GV

Giảng viên các trường ĐHSP phải là lực lượng chủ yếu trong các đợt tập huấn, bồi dưỡng để đảm bảo chất lượng của đội quân “chuyên nghiệp” đi dạy nghề, tránh để các trường sư phạm “đứng ngoài cuộc nhìn vào” hoặc chỉ đóng vai trò “được mời tham gia” như thời gian dài trước đây.

          Trong công cuộc đổi mới căn bản và toàn diện nền GD Việt Nam, Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XI đã coi các trường sư phạm là “cái nóc nhà” của đổi mới giáo dục. Sứ mệnh của nó không chỉ là đào tạo ra đội ngũ GV đáp ứng yêu cầu thực tiễn của GDPT mà còn phải có nhiệm vụ hỗ trợ, bồi dưỡng để phát triển năng lực nghề nghiệp suốt đời cho GV. Vì thế, Dự án ETEP của Bộ GD&ĐT đã chọn 7 trường ĐHSP và Học viện QLGD để thúc đẩy việc bồi dưỡng thường xuyên cho đội ngũ GVPT dưới hình thức trực tiếp và trực tuyến. Theo Dự án này, sẽ có khoảng 280 giảng viên sư phạm được lựa chọn từ các trường ĐHSP chủ chốt được bồi dưỡng, tăng cường năng lực để làm nhiệm vụ bồi dưỡng GV phổ thông cốt cán trong quá trình bồi dưỡng thường xuyên, liên tục tại trường phổ thông cho các GV khác.

            Với vai trò, nhiệm vụ như vậy, giảng viên các trường ĐHSP  tới đây sẽ  trở thành lực lượng nòng cốt trong việc bồi dưỡng phát triển nghề nghiệp của GV.

        Muốn thực hiện được điều này, các trường sư phạm phải làm những việc sau đây:

     – Xây dựng được cơ chế, chính sách để điều khiển mối quan hệ giữa Trường ĐHSP với trường phổ thông theo mô hình cung ứng- dịch vụ trong công tác bồi dưỡng GV. Đặc biệt, phải tạo ra được chính sách giảm thiểu tối đa sự can thiệp nặng về hành chính của hệ thống gián tiếp (phòng/ sở) để trường ĐHSP và trường phổ thông phải chịu trách nhiệm trước xã hội. Như vậy việc bồi dưỡng trực tiếp từ trường sư phạm cho GV mới thuận lợi và tránh được những rào cản cũng như sự chồng chéo.

– Có hợp đồng trách nhiệm ba bên giữa Trường ĐHSP với cơ quan quản lý và cơ sở giáo dục phổ thông trong hoạt động bồi dưỡng GV dựa trên chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và lợi ích của từng bên.

– Xây dựng chương trình, tài liệu bồi dưỡng GV chuẩn mực để GV dễ dàng học tập.

– Đặc biệt, cần có đội ngũ giảng viên cốt cán giỏi về chuyên môn- NVSP, giàu kinh nghiệm và rất am hiểu thực tiễn phổ thông để trực tiếp làm nhiệm vụ bồi dưỡng GV.

– Xây dựng được hạ tầng công nghệ thông tin, mạng internet kết nối với GV các trường phổ thông .

– Được cấp kinh phí từ ngân sách nhà nước để chi trả cho các hoạt động bồi dưỡng GV. Đây là điều kiện thiết yếu, vì nếu không có kinh phí thì không thể triển khai được hoạt động bồi dưỡng. Bên cạnh đó, cần phối hợp với các Sở GD&ĐT, các trường THPT để có thêm nguồn kinh phí chi trả cho các hoạt động này.

Cuối cùng, phải nâng cao nhận thức và trách nhiệm của giảng viên trong việc kết nối, hòa nhập với trường phổ thông để tiến hành bồi dưỡng, bảo trì sản phẩm đầu ra của mình đạt chất lượng tốt.

2.7. Nâng cao ý thức, trách nhiệm tự học, tự bồi dưỡng của GV, có sự hướng dẫn của  GV cốt cán, chuyên gia giáo dục

GV muốn trở thành những người biết học tập suốt đời và tự bồi dưỡng thì rất cần có kĩ năng giao tiếp (lắng nghe và phản hồi tích cực); kĩ năng đặt câu hỏi và kĩ năng sử dụng công nghệ thông tin… để trực tiếp trao đổi, học hỏi từ các chuyên gia, giảng viên cũng như khai thác mạng Internet. Đồng thời, phải dành một lượng thời gian phù hợp để tự trau dồi nghiệp vụ, tham gia các khóa huấn luyện, bồi dưỡng.

Trong hoạt động tự học, tự bồi dưỡng, GV cần được làm việc trực tiếp và tương tác sâu với các chuyên gia, các nhà nghiên cứu GD và những người đào tạo GV. Ở đó, vai trò của họ là những người học tích cực, đồng thời là những người hợp tác, đồng thiết kế và là những người thực hiện, triển khai các ý tưởng từ chương trình vào trong thực tế lớp học. Họ được tham gia vào một cộng đồng học tập chuyên nghiệp, giúp họ có những biến chuyển sâu sắc trong nhận thức cũng như trong các hoạt động thực hành DH ở trên lớp, từ đó dần phát triên chuyên môn và năng lực nghề nghiệp của mình.

3. Kết luận

  

                                              Tài liệu tham khảo

1.      Phạm Thị Kim Anh (2017)- Trường ĐHSP trong việc bồi dưỡng phát triển năng lực nghề nghiệp cho GV phổ thông đáp ứng yêu cầu đổi mới GD (Kỷ yếu Hội thảo “Bồi dưỡng GV và CBQL GD đáp ứng yêu cầu đổi mới GDPT”. NXBĐH Thái Nguyên, Tháng 11 năm 2017, tr 33-40). ISBN: 978-604-915-575-8.

2.     Phạm Thị Kim Anh (2015)-Chất lượng bồi dưỡng giáo viên phổ thông hiện nay-Thực trạng và biện pháp. Kỷ yếu HT Quốc gia “Nâng cao chất lượng đào tạo bồi dưỡng GV và cán bộ QLGD”  Từ 31/10-1/11/2015- Đại học Vinh.

3.      Phạm Thị Kim Anh (2018)-Yêu cầu đổi mới GDPT và những vấn đề đặt ra đối với công tác bồi dưỡng đội ngũ GV THPT hiện nay .T/C Dạy và học ngày nay, tháng 9/2018, tr 30-33.

4.      Phạm Thị Kim Anh (2017)– Giải pháp hỗ trợ hoạt động nghề nghiệp cho GV trẻ (kinh nghiệm dưới 3 năm) của trường ĐHSP trong đào tạo giáo viên. Đề tài nhiệm vụ thường xuyên theo chức năng năm 2017. Viện NCSP-ĐHSP Hà Nội.

5.     Hoàng Thị Kim Huệ (2017)-Xây dựng bộ công cụ, đề xuất phương án khảo sát đánh giá năng lực và nhu cầu bồi dưỡng của GV phổ thông theo chuẩn nghề nghiệp”. MS HD12.Trường ĐHSP Hà Nội (Chương trình ETEP).

6.     Bộ GD&ĐT(2018)- Kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng GV phổ thông thực hiện chương trình, sách giáo khoa giáo dục phổ thông mới. số 270/KH-BGDDT, ngày 2 tháng 5 năm 2018, tr1.

7.      Thế Đan -Học trực tuyến: Tốc độ phát triển nhanh mở ra kỷ nguyên đào tạo mới, ngày 24.11.2018. http://etep.moet.gov.vn/tintuc/chitiet?Id=798.

8. Lê Đức Giang- Kiều Phương Chi (2018)-“ Nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng Giáo viên THPT đáp ứng đổi mới giáo dục phổ thông”. http://etep.moet.gov.vn/tintuc/chitiet?Id=540

9. Nguyễn Vinh Hiển- Trong bài: “Đổi mới tất cả các thành tố trong bồi dưỡng giáo viên”của Nguyễn Nhung. Báo GD&TĐ Ngày 21.2.2018. chúng tôi tr1

10. Kỷ yếu HT Quốc gia “Nâng cao chất lượng đào tạo bồi dưỡng GV và cán bộ QLGD”  Từ 31/10-1/11/2015- Đại học Vinh.

11. Kỷ yếu Hội thảo “Bồi dưỡng GV và CBQL GD đáp ứng yêu cầu đổi mới GDPT”. NXBĐH Thái Nguyên, Tháng 11 năm 2017, tr 33-40). ISBN: 978-604-915-575-8.

12. Đinh Xuân Lâm (2008)- Trong bài: “Hội Lịch sử kiến nghị thay đổi chương trình, SGK  và viết lại sách”, http://www.xaluan.com/modules.php?name=News&file=article&sid=43305.

13. Hoàng Đức Minh,  trong bài “Điểm nhấn trong bồi dưỡng giáo viên, CNQL theo chuẩn” của Hiếu Nguyễn. https://giaoducthoidai.vn/giao-duc/diem-nhan-trong-boi-duong-giao-vien-cbql-theo-chuan-3907354.html. Ngày 23.11.2017.

Nguyễn Danh Nam (2017). Khảo sát đánh giá nhu cầu bồi dưỡng giáo viên và cán bộ quản lý các cấp ở khu vực được phân công trong Chương trình ETEP – Khảo sát sâu tại Thái Nguyên. Đề tài Nghiên cứu Khoa học và Công nghệ cấp cơ sở (Chương trình ETEP), Trường Đại học Sư phạm – Đại học Thái Nguyên

Tóm tắt: Việc bồi dưỡng nâng cao năng lực cho đội ngũ giáo viên (GV) để “đón đầu” thực hiện chương trình giáo dục (CTGD) phổ thông  mới đang là một trong những vấn đề trọng tâm và cấp bách nhằm trang bị cho đội ngũ GV có đủ năng lực đáp ứng với yêu cầu đổi mới giáo dục (GD). Để góp phần nâng cao chất lượng công tác bồi dưỡng GV, trong bài báo này chúng tôi tập trung nêu và phân tích 7 biện pháp cơ bản sau đây: (1) Khảo sát nhu cầu, phân loại đối tượng, lập kế hoạch bồi dưỡng sát với yêu cầu và năng lực của GV;(2) Phân công và phân cấp bồi dưỡng một cách rõ ràng;(3) Xây dựng nội dung chương trình bồi dưỡng thiết thực, chuyên sâu và dựa trên nhu cầu của GV; (4) Đổi mới phương pháp, hình thức tổ chức bồi dưỡng; (5) Đổi mới công tác quản lí bồi dưỡng; (6)Sử dụng đội ngũ giảng viên sư phạm cốt cán, phát huy thế mạnh của các trường sư phạm trong công tác bồi dưỡng GV;  (7) Nâng cao ý thức, trách nhiệm tự học, tự bồi dưỡng của GV, có sự hướng dẫn của các GV cốt cán và chuyên gia giáo dục. Những biện pháp này là những thành tố quan trọng không thể thiếu được trong công tác bồi dưỡng.

        Từ khóa: Biện pháp, chất lượng, bồi dưỡng giáo viên,  THPT, đổi mới giáo dục.

Some measures to improve the quality of upper higher school’ teacher training in order to meet the educational innovation’s requirements

Abstract: Training to improve teachers’ competencies to “anticipate” the implementation of the new general education curriculum is one of the key and urgent issues to equip qualified teachers to meet the education innovation’s requirements. In order to contribute to improving the quality of teacher training, in this paper, we focus on introducing and analyzing the following 7 basic measures: (1) Do well the needs survey, classification of objects for training plan closely to teachers’ requirements and their competencies; (2) Assign and decentralize training clearly; (3) Develop content of practical, intensive and demand-based training program; (4) Innovating methods and forms of training; (5) Innovating management work; (6) Using a team of core pedagogical teachers, promoting the strengths of universities of education in teacher training; (7) Raising teachers’ awareness and responsibilities of self-study and self-training, with the guidance of core teachers and educational experts. These measures are important components indispensable in the teachers’ training.

Keywords: Measure, Quality, teacher training, upper higher school, educational innovation

Nâng Cao Chất Lượng Đào Tạo Giáo Viên Đáp Ứng Yêu Cầu Đổi Mới Giáo Dục Và Cách Mạng Công Nghiệp 4.0

Ðội ngũ giáo viên là một trong những yếu tố có ý nghĩa quyết định đến việc thực hiện thành công đổi mới giáo dục mầm non và giáo dục phổ thông. Trong bối cảnh hội nhập quốc tế và đổi mới căn bản toàn diện giáo dục và đào tạo Việt Nam hiện nay, vai trò của người giáo viên trong nhà trường mầm non, phổ thông lại càng có ý nghĩa quan trọng. Trong thực tiễn, đội ngũ giáo viên luôn là lực lượng nòng cốt của sự nghiệp giáo dục và đào tạo, là nhân tố chủ đạo quyết định việc nâng cao chất lượng giáo dục. Chất lượng giáo viên luôn được xem là một trong những yếu tố quyết định chất lượng giáo dục. Theo Rockoff, mặc dù chất lượng của giáo viên hiện rất khó đo lường nhưng một số đặc điểm của giáo viên có thể quan sát được như trình độ đào tạo, kinh nghiệm công tác, năng lực chuyên môn, chính sách được đãi ngộ có thể được sử dụng làm thước đo cho chất lượng [1].

Vì vậy, Chiến lược phát triển giáo dục 2011 – 2020 cũng đã xác định giải pháp “Phát triểnđội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục” là giải pháp then chốt, trong đó”củng cố, hoàn thiện hệ thống đào tạo giáo viên, đổi mới căn bản và toàn diện nội dung và phương pháp đào tạo, bồi dưỡng nhằm hình thành đội ngũ nhà giáovà cán bộ quản lý giáo dục đủ sức thực hiện đổi mới chương trình giáo dục phổthông sau năm 2015″ là một nội dung hết sức quan trọng. Trong bối cảnh đó, việc nghiên cứu đề xuất các giải pháp nâng cao chất lương đào tạo giáo viên đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục trong bối cảnh hội nhập quốc tế và cách mạng công nghiệp 4.0 trên cơ sở đánh giá một cách đầy đủ bối cảnh và thực trạng công tác đào tạo giáo viên trong và ngoài nước là việc làm hết sức cần thiết.

2. Khuynh hướng đổi mới đào tạo giáo viên trên thế giới

Theo Cheng & Townsend (2000) và Maclean (1999), tác động của toàn cầu hoá, cạnh tranh quốc tế và yêu cầu chính trị xã hội ở các địa phương đã gây ra những thay đổi nhanh chóng trong hầu hết mọi xã hội ở khu vực Châu Á – Thái Bình Dương. Trong bối cảnh đó, cải cách giáo dục đã trở thành yêu cầu cấp thiết ở mỗi quốc gia trong khu vực. Là những người chủ chốt trong quá trình đổi mới giáo dục, giáo viên phải đối mặt với nhiều thay đổi, họ được kỳ vọng có năng lực đảm trách tốt nhiều nhiệm vụ, ngoài việc giảng dạy, họ còn phải có trách nhiệm phát triển chương trình giáo dục, chương trình môn học, quản lý trường học, tự bồi dưỡng chuyên môn, tự phát triển bản thân, giúp đỡ các giáo viên mới và làm việc với cha mẹ học sinh, phát triển các quan hệ xã hội hỗ trợ cho các hoạt động giáo dục của nhà trường . Để đáp ứng với những thay đổi đó, mỗi nước ở khu vực Châu Á – Thái Bình Dương đều có những cải cách trong hoạt động đào tạo giáo viên với những quy mô, hình thức khác nhau.

Người Hàn Quốc tin rằng giáo dục là yếu tố quan trọng thúc đẩy, dẫn dắt và sẽ tiếp tục dẫn dắt họ tới sự thành công trong tăng trưởng kinh tế và phát triển xã hội. Chính vì vậy, Chính phủ Hàn Quốc đã xác định ưu tiên cho giáo dục và thực hiện các cải cách giáo dục như là các nhiệm vụ trọng tâm nhằm đối phó với những thách thức trong bối cảnh hội nhập quốc tế và cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 . Hàn Quốc đã có rất nhiều đổi mới về đào tạo giáo viên, cải cách giáo dục ở Hàn Quốc gần đây được đưa ra với mục tiêu đào tạo ra những giáo viên giỏi có thể đáp ứng yêu cầu của thời kỳ toàn cầu hoá và cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 . Trong quá trình đổi mới, các lĩnh vực như phát triển chương trình đào tạo giáo viên; phương pháp dạy học, giáo dục; năng lực ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học; năng lực quản lý thông tin, quản lý lớp học và đạo đức của giáo viên đã được nhấn mạnh. Bên cạnh đó, các vấn đề đánh giá giáo viên, tuyển dụng giáo viên và phân công, sử dụng giáo viên cũng được quan tâm đổi mới [5].

Ở Mỹ, đầu những năm 2000, nghiên cứu của David chúng tôi cho thấy, chương trình đào tạo giáo viên theo kiểu truyền thống đang đứng trước những thử thách gay go ở mọi quốc gia. Những ý kiến phê phán không chỉ nhằm vào chất lượng thấp của đầu vào mà còn chỉ rõ sự thiếu chuẩn bị về nội dung đào tạo. Chương trình đào tạo lúc đó bị coi là vừa thiếu tính học thuật vừa xa rời kinh nghiệm thực tế. Mặt khắc, bởi các yếu tố ảnh hưởng tới việc đào tạo cũng như phương thức đào tạo giáo viên vẫn chưa được xác định rõ, cho nên các chương trình đào tạo giáo viên được đánh giá là có tính chắp vá, rời rạc. Trước bối cảnh đó, đào tạo giáo viên ở Mỹ đứng trước thử thách phải điều chỉnh chương trình đào tạo của mình theo hướng phù hợp với nhu cầu của các trường địa phương. Trải qua hơn 10 năm qua, các chương trình đào tạo giáo viên ở Mỹ đã có những thay đổi, nổi bật là: i) chuyển đổi chương trình đào tạo chuyên môn sang chú trọng nhiều hơn đến kinh nghiệm thực tiễn; ii) phát triển chương trình đào tạo giáo viên đáp ứng tiêu chuẩn quốc gia cũng như theo tiêu chuẩn của từng bang, từng địa phương; iii) kết hợp đào tạo kỹ thuật giảng dạy như một phần trong chương trình đào tạo giáo viên, tăng cường trang bị cả phần cứng và phần mềm giảng dạy và thử nghiệm nhiều kỹ thuật giảng dạy mới [6].

– Ở Đức, năm 2000, thực hiện tiến trình Bologna đã có nhiều cải cách trong đào tạo giáo viên. Định hướng nghề nghiệp được nhấn mạnh hơn trong giai đoạn đầu của quá trình đào tạo giáo viên. Về chương trình đào tạo, chương trình khung do các bang xây dựng, các bang cũng đều có chuẩn đào tạo giáo viên, chuẩn gồm 4 lĩnh vực năng lực là dạy học, giáo dục, đánh giá, đổi mới và phát triển, trên cơ sở chương trình khung và chuẩn đào tạo giáo viên đó, các trường tự xây dựng chương trình đào tạo. Đức đã đào tạo giáo viên theo hai bậc nối tiếp cử nhân và thạc sĩ với khung về thời gian đào tạo và số tín chỉ áp dụng theo hệ thống chuyển đổi tín chỉ châu Âu ECTS. Trong đó, chương trình đào tạo giáo viên trung học có cấu trúc ở bậc đại học (để lấy bằng cử nhân) bao gồm 6 học kỳ (180 ECTS) và bậc sau đại học (lấy bằng thạc sĩ) là 4 học kỳ (120 ECTS). Tuy nhiên, đối với chương trình đào tạo giáo viên tiểu học thì ở bậc đại học cũng bao gồm 6 học kỳ (180 ECTS) nhưng bậc sau đại học thì từ 2- 4 học kỳ (60-120 ECTS) tuỳ quy định của từng bang. Ở Đức, sinh viên sau khi có trình độ thạc sĩ mới được đăng ký vào giai đoạn đào tạo giáo viên tập sự. Trải qua quá trình đào tạo tập sự kéo dài 12-18 tháng, giáo viên tập sự phải vượt qua kỳ thi quốc gia trước khi được tuyển dụng làm giáo viên. Mặc dù đào tạo giáo viên theo mô hình đào tạo phân 2 bậc nối tiếp cử nhân và thạc sĩ, nhưng ngay trong bậc đào tạo đại học, chương trình đào tạo đã có song song hai nội dung là khoa học ngành và khoa học giáo dục bao gồm cả thực tiễn giáo dục phổ thông [7, 8].

2.2. Thực trạng đào tạo giáo viên 2.2.1. Về quy mô

Theo Bộ Giáo dục và Ðào tạo, tính đến năm 2017, cả nước có 155 cơ sở đào tạo giáo viên, gồm: 58 trường đại học, 57 trường cao đẳng, 40 trường trung cấp có ngành đào tạo giáo viên, trong số đó có 14 trường đại học sư phạm, 33 trường cao đẳng sư phạm và 02 trường trung cấp sư phạm. Mặc dù vẫn còn 49 trường sư phạm nhưng trong thực tiễn gần như tất cả 155 cơ sở đào tạo giáo viên ở nước ta ngoài đào tạo giáo viên còn đào tạo cả các ngành khác ngoài đào tạo giáo viên.

Kể từ khi ngành sư phạm được thành lập, các cơ sở đào tạo giáo viên đã đào tạo cho đất nước hơn 2 triệu giáo viên, trong số đó hiện có hơn 1 triệu giáo viên đang công tác. Quy mô đào tạo giáo viên có thay đổi trong từng thời kỳ, nhưng theo xu hướng ngày càng mở rộng. Tại thời điểm năm học 2013-2014, tổng quy mô sinh viên các ngành sư phạm (bao gồm sinh viên cao đẳng và đại học) xấp xỉ 430.100, trong đó đào tạo hệ chính quy là 232.900 sinh viên (54,2%); đào tạo hệ vừa làm vừa học là 149.050 sinh viên (34,6%) và hệ đào tạo từ xa là 48.150 sinh viên (11,2%). Xét quy mô đào tạo giáo viên ở các cấp, bậc học, cho thấy quy mô đào tạo giáo viên trung học phổ thông chiếm 40,2%; giáo viên trung học cơ sở chiếm 24,2%; giáo viên tiểu học chiếm 13,4% và giáo viên mầm non chiếm 22,2%. Đào tạo sau đại học khoảng 9.341 học viên (bằng khoảng 2,2% quy mô sinh viên đại học và cao đẳng) với 8.811 học viên cao học và 530 nghiên cứu sinh [10] . Tuy phát triển mạnh về quy mô đào tạo, có nhiều cơ sở đào tạo, phân bố cơ sở đào tạo trên phạm vi rộng, nhưng quy mô đào tạo của nhiều cơ sở đào tạo nhỏ dẫn đến tình trạng đầu tư manh mún và dàn trải. Việc phát triển quy mô và mạng lưới cơ sở đào tạo giáo viên trong thời gian qua cũng chưa thực sự xuất phát từ nhu cầu nguồn nhân lực giáo viên trong cả nước, nhiều trường sư phạm phát triển trong tình trạng thiếu ổn định, năng lực và quy mô đào tạo vượt quá nhu cầu về số lượng giáo viên ở một số ngành học, bậc học, do đó, quy mô đào tạo giáo viên đang lớn hơn nhu cầu thực tế, dẫn đến dư thừa giáo viên được đào tạo. Theo Bùi Văn Quân, dự báo, đến năm 2018 số giáo viên mới tốt nghiệp ra trường mỗi năm sẽ khoảng 90.000; trong đó: giáo viên mầm non là 29.600; giáo viên tiểu học là 19.200; giáo viên trung học cơ sở là 18.700 và giáo viên trung học phổ thông là 23.030. Trong khi đó, theo khảo sát của Bộ Giáo dục và Đào tạo về nhu cầu giáo viên phổ thông để thực hiện chương trình giáo dục phổ thông mới, bắt đầu từ năm học 2019-2020 cho thấy nhu cầu về giáo viên tiểu học, giáo viên THCS và THPT cơ bản không có sự biến động tăng/giảm nhiều so với số giáo viên hiện có, cụ thể :

Đối với tiểu học, bình quân 1 năm có 2% giáo viên nghỉ hưu, tương đương với 7940 giáo viên, như vậy, số cần được tuyển mới bổ sung thay thế giáo viên nghỉ hưu hàng năm sẽ khoảng 3970 giáo viên, cộng với mỗi năm tuyển mới khoảng 3900 giáo viên do tăng quy mô, trung bình mỗi năm sẽ tuyển mới khoảng hơn 7000 nghìn giáo viên .

Đối với THCS, bình quân 1 năm có 2% giáo viên THCS nghỉ hưu, tương đương với 6219 giáo viên, số giáo viên cần tuyển bổ sung thay thế nghỉ hưu là 3110 GV, cộng với số giáo viên cần tuyển mới do tăng quy mô học sinh là 1.250 giáo viên.

Đối với THPT, bình quân 1 năm có 2% số giáo viên nghỉ hưu, tương đương với khoảng 3014 giáo viên, số cần được tuyển mới bổ sung thay thế giáo viên nghỉ hưu hàng năm sẽ khoảng 1507 giáo viên, cộng với số giáo viên cần tuyển mới do tăng quy mô học sinh là 2.250 giáo viên.

2.2.2. Về mô hình đào tạo 2.2.3. Về chương trình đào tạo 2.3. Giải pháp nâng cao chất lượng đào tạo giáo viên

Trước yêu cầu của phát triển kinh tế-xã hội, của đổi mới giáo dục và đào tạo, đòi hỏi nguồn nhân lực nhà giáo mầm non và phổ thông phải có chất lượng cao. Tuy nhiên hiện nay đang có mâu thuẫn lớn giữa quy mô đào tạo và nhu cầu đào tạo. Với 155 cơ sở đào tạo giáo viên trên phạm vi cả nước, đào tạo khoảng 50.000 sinh viên/năm. Trong khi đó nhu cầu đào tạo giáo viên theo ước tính của Bộ Giáo dục và Đào tạo chỉ cần khoảng hơn 50.000 giáo viên/3 năm tới.Bên cạnh đó,năng lực đào tạo giáo viên của nhiều cơ sở đào tạo giáo viên hiện nay còn nhiều hạn chế, đặc biệt là các cơ sở đào tạo giáo viên không trực thuộc Bộ Giáo dục và Đào tạo quản lý. Vì vậy, quy hoạch lại mạng lưới cơ sở đào tạo giáo viên trong bối cảnh hiện nay là việc làm hết sức cấp thiết.

Thực hiện quy hoạch mạng lưới cơ sở đào tạo giáo viên cần phải đảm bảo phù hợp với nhu cầu phát triển kinh tế – xã hội của đất nước, gắn với từng vùng, từng địa phương; Chuyển phát triển hệ thống cơ sở đào tạo giáo viên từ chủ yếu theo số lượng sang chú trọng chất lượng và hiệu quả, đồng thời đáp ứng yêu cầu nhân lực nhà giáo trong bối cảnh mới (đáp ứng chuẩn nghề nghiệp giáo viên mầm non và phổ thông mới, trong đó đề nghị chuẩn trình độ đào tạo giáo viên mầm non là cao đẳng sư phạm, chuẩn trình độ đào tạo giáo viên phổ thông là đại học sư phạm).Trong quy hoạch cần nâng cao năng lực của hệ thống, điều chỉnh quy mô đào tạo của các cơ sở đào tạo giáo viên phù hợp với nhu cầu phát triển sự nghiệp giáo dục của cả nước và của từng vùng miền và bảo đảm các tiêu chí quy định về chất lượng và số lượng đội ngũ giảng viên, quy mô diện tích đất đai, cơ sở vật chất – kỹ thuật – trang thiết bị. Đặc biệt cần tập trung đầu tư phát triển các trường đại học sư phạm và các cơ sở giáo dục đại học đào tạo giáo viên có uy tín là các trường trọng điểm của các vùng và quốc gia.

Để thực sự cải thiện chất lượng đào tạo giáo viên, ngoài chính sách cho đội ngũ giảng viên sư phạm, những người trực tiếp lao động trong cơ sở đào tạo giáo viên, vấn đề chính sách cho đội ngũ giáo viên có một vai trò đặc biệt quan trọng, chính sách tốt cho đội ngũ giáo viên một mặt khuyến khích, thu hút những sinh viên xuất sắc theo học các ngành sư phạm, một mặt góp phần cải thiện môi trường giáo dục trong nhà trường sư phạm, qua đó thúc đẩy nâng cao chất lượng đào tạo của các cơ sở đào tạo giáo viên. Cải thiện chính sách giáo viên, thực chất là cải thiện cách quản lý và sử dụng lực lượng giáo viên một cách hợp lý, bao gồm các chính sách tuyển chọn, sử dụng và bổ nhiệm giáo viên; đào tạo và bồi dưỡng giáo viên; đổi mới chính sách tiền lương, ưu đãi đối với giáo viên , … Cần lưu ý rằng, việc đãi ngộ về tiền lương, về các quyền lợi vật chất là điều rất quan trọng, nhưng chưa đủ để đội ngũ nhà giáo phát triển hết khả năng đóng góp của họ. Tạo điều kiện để ghi nhận thành tựu của họ; sử dụng những ý kiến đóng góp của họ, xây dựng một môi trường làm việc đầy cảm hứng, khích lệ sự đóng góp của họ vào công việc phục vụ nhà trường, phục vụ cộng đồng chính là động lực giúp đội ngũ giáo viên phát triển tình cảm nghề nghiệp, củng cố mối hệ gắn bó bền vững đầy tốt đẹp giữa giáo viên với học sinh, đồng nghiệp và nhà trường. Như một hệ quả, khi môi trường sư phạm mẫu mực trong các nhà trường được xây dựng, người giáo viên được tôn vinh thì việc theo học các ngành sư phạm để trở thành các nhà giáo trong tương lai được nhiều học sinh xuất sắc lựa chọn. Với đầu vào tốt, môi trường đào tạo tốt, chắc chắn chất lượng đào tạo giáo viên trong các trường/khoa sư phạm sẽ được cải thiện.

3. Kết luận

Trước thực trạng công tác đào tạo giáo viên hiện nay ở nước ta, nâng cao chất lượng đào tạo giáo viên đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục trong bối cảnh hội nhập quốc tế và cách mạng công nghiệp 4.0 là hết sức cấp thiết.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

[2]. Võ Văn Thắng, Hồ Nhã Phong, Lê Hải Yến, Cách mạng công nghiệp lần thứ tư – cơ hội và thách thức đối với cơ sở giáo dục đại học Việt Nam, Tạp chí Khoa học, Trường Đại học An Giang, Số 4 (16), 2017, trang 112 – 120.

[3]. Bùi Kiên Trung, Nguyễn Đức Hòa, Lê Thu Thủy, Giáo dục 4.0 – Tầm nhìn mới cho giáo dục tương lai , Kỷ yếu Hội thảo khoa học Quốc gia – Đào tạo trực tuyến trong thời kỳ Cách mạng công nghiệp 4.0, Nhà xuất bản Đại học Kinh tế Quốc dân, 2017, trang 51- 64.

[4]. The Hong Kong Institute of Education, 2004, Reform of Teacher Education in the Asia-Pacific in the New Millennium Trends and Challenges, Published by Kluwer Academic Publishers.

[5]. Emely D. Dicolen, South Korea’s Teacher Education Innovations: Impact and Implications , International Journal of Education and Learning Vol.6, No.1 (2017), pp.67-78.

[6] David G. Imig, The State of Teacher Education in the 21st Century in the USA, Asia -Pacific Journal of Techer Education & Development, December 2002, Vol.5, No.2, pp.241-254.

[8] Lê Quang Sơn, Đào tạo giáo viên – kinh nghiệm CHLB Đức, Tạp chí Khoa học và Công nghệ, Đại học Đà Nẵng, số 5 (40), 2010.

[9]. Francis Ries, Cristina Yanes Cabrerab & Ricardo González Carriedo, A Study of Teacher Training in the United States and Europe, The European Journal of Social and Behavioural Sciences, EJSBS Volume XVI (eISSN: 2301-2218).

[10]. Bùi Văn Quân, 2016, Đào tạo, bồi dưỡng giáo viên, thực trạng và quan điểm đổi mới , Đại học Thủ Đô – Kỷ yếu Hội thảo Khoa học Quốc gia – Đào tạo giáo viên tại các trường đại học đa ngành đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục hiện nay.

[11]. Bộ Giáo dục và Đào tạo, Tài liệu Hội nghị Giám đốc Sở Giáo dục và Đào tạo tiếp tục triển khai việc xây dựng và chuẩn bị các điều kiện để áp dụng Chương trình, Sách giáo khoa mới, Hà Nội, tháng 12/2017.

[12]. Đinh Xuân Khoa, Thái Văn Thành, Nguyễn Ngọc Hiền, Phát triển chương trình đào tạo và mô hình đào tạo giáo viên trong bối cảnh hội nhập quốc tế, Tạp chí Khoa học Giáo dục, Số 1, tháng 1, 2018.

chất lượng, đào tạo, giáo viên, đổi mới, công nghiệp 4.0.

Enhancing the quality of teacher training to meet the requirements of education innovations in the integrated period of time and industry 4.0

It is necessary to enhance the quality of teacher training to meet the requirements of education innovations in the integrated period of time and industry 4.0. This paper endeavors to analyze current issues of teacher training in Vietnam and other countries. The critique is expected to provide some useful implications and solutions to improve the quality of teacher training to meet the needs of society.

Một Số Biện Pháp Nâng Cao Chất Lượng Đội Ngũ Giáo Viên

Một số biện pháp nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viêntrong trường mầm non………………………… A. ĐẶT VẤN ĐỀI. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI.Sự nghiệp giáo dục đào tạo luôn được Đảng và nhà nước đặc biệt chú trọng và quan tâm hàng đầu trong đường lối chiến lược phát triển kinh tế – xã hội của đất nước. Điều đó cũng đã khẳng định tại Nghị quyết Hội nghị lần thứ II BCH Trung ương Đảng khóa VIII Đảng đã khẳng định.“Giáo dục là quốc sách hàng đầu”, là sự nghiệp của toàn Đảng, toàn dân. Để đáp ứng nhu cầu phát triển của sự nghiệp giáo dục, đào tạo trong giai đoạn đổi mới, Ban bí thư TW Đảng đã có Chỉ thị 40 – CT/TW ngày 15 thánh 6 năm 2004 về việc nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục là nhiệm vụ rất quan trọng, cần thiết, là nhân tố có tính quyết định đến việc nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện trong giai đoạn hiện nay.Giáo dục Mầm non là bậc học đầu tiên trong hệ thống giáo dục quốc dân,là nền tảng quan trong trong việc hình thành và phát triển nhân cách trẻ. Vì vậy việc chăm sóc giáo dục trẻ là trách nhiệm của nhà trường, của mỗi gia đình và của toàn xã hội. Trong đó Trường mầm non là môi trường thuận lợi nhất để trẻ phát triển một cách toàn diện đức, trí, thể, mỹ cho trẻ. Bởi đội ngũ giáo viên là lực lượng nòng cốt của sự nghiệp giáo dục. Muốn vậy, cần có đội ngũ nhà giáo đạt trình độ

chuẩn và trên chuẩn , giỏi về chuyên môn nghiệp vụ, yêu nghề, mến trẻ , tập thể sư phạm nhà trường phải đoàn kết thống nhất, có tình thương yêu, tương thân, tương ái, giúp đỡ lẫn nhau, luôn có ý thức phấn đấu , rèn luyện học tập và bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn cũng như năng lực công tác. Có như vậy mới đáp ứng được yêu cầu đòi hỏi của sự nghiệp đổi mới quản lý và nâng cao chất lượng giáo dục trong giai đoạn hiện nay.1Trong những năm qua chất lượng đội ngũ giáo viên Ngành học mầm non Thị xã Bỉm Sơn nói chung và trường mầm non Ba Đình nói riêng đã có những chuyển biến rõ rệt cả về số lượng và chất lượng. Song trong thực tế hiện nay các trường mầm non trên địa bàn và đặc biệt là Trường mầm non Ba Đình có nhiều giáo viên trẻ mới vào ngành năng lực chuyên môn còn rất hạn chế, vì vậy viÖc vận dụng phương pháp giảng dạy chương trình giáo dục Mầm non non mới còn lúng túng, tác phong chưa linh hoạt nên ảnh hưởng đến việc nâng cao chất lượng chăm sóc giáo dục trẻ trong nhà trường. Từ những lý do trên với trách nhiệm lớn lao của một người quản lý, đặc biệt bản thân tôi là Phó Hiệu trưởng được phân công phụ trách về chuyên môn. Do đó tụi luụn luôn trăn trở, suy nghĩ để nghiên cứu với mong muốn tìm ra những biện pháp tối ưu nhất để áp dụng xây dựng , bồi dưỡng đội ngũ giáo viên vững vàng về mọi mặt, đủ khả năng hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Chính vì vậy, mà tôi đã chọn đề tài ” Nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên trong trường mầm non” làm đề tài nghiên cứu của mình trong năm học 2012 – 2013. B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀI. CƠ SỞ LÝ LUẬN:Như chúng ta đã biết Ngành học Mầm non là bậc học đầu tiên là nền móng sơ khai của hệ thống giáo dục quốc dân. Song việc bồi dưỡng cho đội ngũ giáo viên lại càng quan trọng hơn, quyết định hơn, làm đòn bẩy để nâng cao chất lượng giáo dục mầm non. Do đó việc xây dựng bồi dưỡng cho đội ngũ giáo viên với phương châm là yêu nghề mến trẻ và thực sự là người mẹ hiền thứ hai của trẻ. Để đạt được mục tiêu trên chúng ta phải xây dựng được một đội ngũ giáo viên vững mạnh, một đội ngũ cán bộ quản lý giỏi có như vậy với đáp ứng được yêu cầu của giáo dục hiện nay. Đó chính là tập thể sư phạm của nhà trường đủ về số lượng, đảm bảo về chất lượng vừa ” Hồng” vừa “chuyên” Tập thể sư phạm bao gồm cán bộ quản lý và giáo 2viên, trong đó giáo viên là lực lượng chủ yếu vì đó là người trực tiếp tổ chức quá trình giáo dục phải có những thành viên trong tập thể sư phạm gắn bó với nhau, phải có lý tưởng chung, tinh thần trách nhiệm chung trước thế hệ trẻ, với những tình cảm đẹp đẽ đó các cán bộ giáo viên động viên giúp đỡ nhau hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.

XÁC NHẬN CỦA HIỆU TRƯỞNG Ba Đình, ngày 20 tháng 4 năm 2013 Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình viết, không sao chép nội dung của người khác. Người viết Nguyễn Thị Vui

Một Số Biện Pháp Nâng Cao Chất Lượng Giáo Dục Thể Chất Cho Trẻ Mẫu Giáo 5

n: truyện "Tích Chu", "Cây khế", "Quả táo", "Sự tích mùa xuân"... hoặc tạo những tình huống như: Hôm nay là sinh nhật bạn An cùng đến thăm nhà bạn An, tình huống vào vai một nhân vật trong câu chuyện để dẫn dắt trẻ vào bài)... Ví dụ dạy hoạt động phát triển vận động bài : "Bò dích dắc bằng bàn tay, bàn chân". Cô giới thiệu chương trình " Hội khỏe măng non" với các đội chơi. + Khởi động: Cho trẻ làm đoàn tầu đến tham gia chương trình. + Trọng động: Cô tạo tình huống giới thiệu các phần thi: Phần thi thứ nhất: Đồng diễn thể dục (Cho trẻ tập bài tập phát triển chung) Phần thi thứ hai: Khỏe và khéo (Cho trẻ tập bài vận động cơ bản: Bò dích dắc bằng bàn tay, bàn chân). Phần thi thứ ba: Chung sức (Trò chơi vận động) + Hồi tĩnh: Cho trẻ đi lại nhẹ nhàng. Ví dụ dạy hoạt động phát triển vận động bài: "Đi thăng bằng trên ghế thể dục". Tôi sử dụng truyện "Tích Chu" Dẫn dắt trẻ vào nội dung câu chuyện và dẫn dắt cho trẻ biết là giúp bạn Tích Chu đi lấy nước suối tiên cho bà uống để bà trở lại thành người, đường đi lấy nước suối tiên rất nhiều khó khăn và trải qua nhiều sông suối gồ ghề.. + Khởi động: Cùng đến thăm nhà Tích Chu + Trọng động: Bài tập phát triển chung: Cùng nhau tập luyện cho cơ thể khỏe mạnh để vượt qua mọi thử thách trước mắt. + Hồi tĩnh: Bạn Tích Chu đã gửi tặng mỗi bạn một niềm mơ ước bay tơi những phương trời đẹp. Dạy trẻ kết hợp theo một chương trình với nhiều phần thi hấp dẫn hay theo nội dung câu chuyện... trẻ rất hào hứng tham gia tập luyện. Để phát huy hết hiệu quả tôi không chỉ chọn phương pháp mà tôi còn luôn quan tâm tới hình thức tổ chức để trẻ mạnh dạn tự tin hơn khi hoạt động như: Hình thức tập cả lớp- đồng loạt. Hình thức tập cả lớp - nối tiếp. Hình thức tập theo nhóm. Hình thức tập cá nhân (Hình ảnh trẻ: Đi thăng bằng trên ghế thể dục đầu đôi túi cát) Phát triển thể chất cho trẻ không dừng lại ở các hoạt động học giờ thể dục, mà các nội dung phát triển vận động, được lồng tích hợp vào các giờ hoạt động khác trong ngày của trẻ sẽ giúp trẻ phát triển thể chất hài hòa và tốt hơn. 4.4. Lồng ghép tích hợp giáo dục thể chất trong các hoạt động khác và đánh giá trẻ theo bộ chuẩn phát triển trẻ em 5 tuổi. Ngoài những tiết dạy hoạt động học của hoạt động phát triển thể chất, được quy định trong chương trình giáo dục mầm non, thì trong các hoạt động khác, tôi đều lồng ghép giáo dục phát triển thể chất một cách linh hoạt, ngẫu nhiên, nhẹ nhàng, không gò bó, không làm ảnh hưởng đến sự hứng thú của trẻ trong hoạt động chính, tôi luôn lấy trẻ làm trung tâm để lựa chọn nội dung lồng ghép, các nội dung lồng ghép thường là sử dụng các trò chơi có luật, của hoạt động giáo dục thể chất vào các giờ hoạt động học, điều này giúp cho giờ học được đan xen tĩnh, động hợp lý mà không để trẻ chán, ngược lại trẻ rất thích thú, trẻ rất vui vẻ học trong những tiếng hò reo cổ vũ, niềm phấn khởi của trẻ được thể hiện rõ, trên những khuôn mặt đáng yêu, làm cho các giờ học đó đều đạt kết quả cao hơn. VD: Trong hoạt động làm quen văn học, tôi cho trẻ chơi trò chơi: "Ghép tranh" Trẻ phải đi theo đường hẹp, rồi bật qua con suối để mang những miếng ghép lên bảng, ghép sao cho hợp lý theo yêu cầu của cô. Trong hoạt động khám phá khoa học, tôi cho trẻ chơi trò chơi như sau: Các con sẽ đi theo đường zíc zắc, mang những đồ dùng để đúng nơi quy định. Trong hoạt động làm quen với toán cho trẻ đứng thành hai hàng dọc dưới vạch xuất phát, khi có hiệu lệnh bắt đầu, trẻ đứng đầu hàng bật liên tục qua 5 vòng lên gắn sao cho đủ số lượng, quay về đập tay vào bạn tiếp theo rồi đứng về cuối hàng. Trong hoạt động âm nhạc, tôi cho trẻ chơi trò chơi: "Ai nhanh nhất" Trẻ sẽ được chơi với những chiếc vòng thể dục, trẻ sẽ vừa đi quanh vòng vừa hát khi có hiệu lệnh sắc xô của cô, trẻ sẽ nhanh chân nhảy vào vòng. Những bạn nào hảy được vào vòng sẽ là người thắng cuộc, còn những bạn chưa nhảy được vào vòng sẽ được cả lớp cổ vũ để nhảy lò cò. Hay trong hoạt động tạo hình như vẽ, cắt, xé dán...để giảm bớt căng thẳng, mệt mỏi của trẻ tôi cho trẻ vận động "phút thể dục" theo bài: (Đây là anh cả. Béo trục béo tròn. Anh hai chỉ đường. Anh ba cao nhất. Anh tư hơi thấp. Bé nhất là út con) hoặc cho trẻ xoay cổ tay, nghiêng người về hai bên theo nhịp đếm của cô. Các hoạt động trên không chỉ tạo cho trẻ hứng thú trong giờ học, mà còn rèn cho trẻ kỹ năng như: Phải biết lần lượt theo thứ tự, không chen lấn xô đẩy nhau, tinh thần đoàn kết giúp đỡ nhau, sự cố gắng của trẻ từ đó được hình thành, đây cũng là một yếu tố quan trọng, hình thành nên nhân cách của trẻ và đều góp phần giúp trẻ, phát triển thể lực một cách toàn diện. Dù là một trò chơi vận động nhỏ đi chăng nữa, cũng có thể dạy cho trẻ nhiều kỹ năng sống giá trị như: Làm việc theo nhóm, tinh thần trách nhiệm, khả năng phối hợp, khả năng thích nghi, lòng tự trọng, tự tin và nhiều hơn thế nữa. Chúng ta không nên chờ đợi sự phát triển tự nhiên của trẻ, mà hãy chủ động, tập cho trẻ chơi thể thao từ sớm, để trẻ có thể phát triển tốt nhất về thể lực cũng như trí tuệ. Bên cạnh đó hằng ngày, tôi giành thời gian cho trẻ tự do vận động chạy, nhảy, tham gia các trò chơi với đồ chơi có sẵn trong sân trường, đồ chơi dụng cụ mang theo hoặc tham gia lao động chăm sóc cây cối trong sân vườn, vệ sinh đồ dùng, đồ chơi. Đây cũng là một hoạt động giúp trẻ phát triển thể lực qua đó giúp cho trẻ biết yêu thiên nhiên, yêu lao động. (Hình ảnh trẻ chơi trò chơi mèo đuổi chuột) (Hình ảnh trẻ lao động chăm sóc vườn rau, lau đồ chơi ngoài trời) Để tạo điều kiện cho trẻ được vui chơi thoải mái, tôi thường kết hợp với các cô giáo và học sinh lớp khác, thường xuyên tổ chức cho trẻ được giao lưu các trò chơi vận động với nhau, qua đó sẽ giúp trẻ năng động hơn, trẻ có thái độ luyện tập, có điều kiện tiếp xúc, giao lưu với các bạn ở lớp khác, từ đó trẻ ý thức được mình cần phải làm gì? Và trẻ tạo cho mình động cơ phấn đấu sau mỗi lần giao lưu thi đấu. (Ảnh trẻ giao lưu trò chơi vận động: Chuyển bóng, kéo co cùng lớp A2) Trong năm học này, lớp tôi đã kết hợp cùng lớp A3 tổ chức dạy chuyên đề hoạt động giao lưu các trò chơi vận động cho các trường trong huyện đến kiến tập, qua đó giáo viên, học sinh đều nhiệt tình tham gia, trẻ rất hào hứng tập luyện và tích cực tham gia vào các trò chơi, các phần thi. (Hình ảnh trẻ giao lưu các trò chơi vận động trong tiết chuyên đề) Với trẻ 5 tuổi việc đánh giá theo năm lĩnh vực, đều được thực hiện trên 120 chỉ số, với lĩnh vực phát triển thể chất, theo chỉ số, tôi đã nghiên cứu và chọn các chỉ số vào các hoạt động, sao cho phù hợp với khả năng của trẻ từ mức độ thấp đến cao, từ dễ đến khó như. VD: Chỉ số 1: Bật xa tối thiểu 50cm. Tôi đưa vào dạy trẻ ở giai đoạn đầu, để giúp trẻ hiểu được chức năng của các bộ phận trên cơ thể và phát triển cơ lớn cho bản thân Chỉ số 4: Trẻ biết trèo lên xuống thang ở độ cao 1,5m so với mặt đất. Tôi đưa vào dạy trẻ ở giai đoạn hai, trẻ đã quen trường lớp, có thói quen tập luyện vận động rồi, giúp trẻ biết phối hợp chân tay khéo léo, tinh thần bình tĩnh để trèo lên xuống thang... Khi thực hiện bài nào có đánh giá chỉ số, tôi sử dụng bảng đánh giá là cho trẻ đánh giá trực tiếp, đó là cháu nào làm được tự lấy lô gô cài vào mặt cười, trẻ nào không thực hiện được tự lấy lô gô cài vào mặt mếu, điều này giúp trẻ tự biết kết quả của mình và trẻ ngày càng cố gắng hơn trong các hoạt động sau. (Hình ảnh trẻ lấy lô gô cài vào mặt cười, mặt mếu) Phát triển thể chất cho trẻ không chỉ chú ý đến các nội dung hoạt động học, các nội dung vận động cho trẻ, mà môi trường lớp học và vệ sinh cá nhân trẻ góp phần rất lớn, trong việc phát triển thể chất cho trẻ ở trường mầm non. 4.5. Xây dựng môi trường lớp học và vệ sinh cá nhân trẻ * Việc trang trí môi trường lớp học, không chỉ để gây hứng thú cho trẻ thích đến lớp, mà còn làm cho trẻ luôn hứng thú tham gia vào các hoạt động, vì thế môi trường lớp học là rất quan trọng, không thể thiếu được, nó không chỉ giúp cho việc tổ chức các hoạt động cho trẻ, môi trường lớp học đẹp, góp phần không nhỏ trong việc tuyên truyền xã hội hóa giáo dục ở trường mầm non. Ngoài ra môi trường lớp học đẹp tạo cho trẻ như được hòa mình trong một thế giới tuổi thơ, trẻ luôn được tiếp cận với cái mới, trẻ rất hứng thú hoạt động và đến lớp, yêu quý cô giáo, đặc biệt là biết bảo vệ sản phẩm của cô và trẻ làm ra, tăng thêm ý thức giữ gìn môi trường lớp học của mình. Vậy nên tôi luôn chú trọng, chủ động trang trí môi trường lớp học, trang trí các góc có sự lô gíc với nhau, đặc biệt là góc vận động, thường là những đồ dùng luyện tập cồng kềnh, tôi giành khoảng rộng hơn, ở ngoài hành lang để trưng bày được những đồ dùng tập luyện để trẻ dễ quan sát, dễ cất và dễ lấy các đồ dùng mà trẻ thích. Môi trường lớp học ảnh hưởng trực tiếp tới sức khoẻ trẻ do vậy tôi phải luôn giữ cho môi trường lớp xanh- sạch- đẹp, từ đó trẻ tránh được bệnh tật, cơ thể khoẻ mạnh trẻ sẽ tham gia tích cực vào các hoạt động. Để làm được điều đó tôi cùng đồng nghiệp trong lớp của mình thường xuyên lau dọn, sắp xếp các đồ dùng, đồ chơi sạch sẽ gọn gàng, không chỉ cô mà còn khuyến khích trẻ cùng tham gia lau dọn, xếp sắp đồ dùng, đồ chơi cùng cô vì trong lớp học mầm non nói chung nhất là lớp học của tôi nói riêng có rất nhiều đồ dùng, đồ chơi cấp phát cũng như đồ dùng tự tạo, giá kệ nhiều nếu chúng ta không thường xuyên vệ sinh, thường xuyên thay đổi các góc, thì nhìn vào lớp học luôn cụ kỹ, nhàm chán với trẻ, nhất là khâu vệ sinh sẽ không được đảm bảo. Qua việc xây dựng và vệ sinh môi trường lớp học thường xuyên, tôi thấy trẻ lớp tôi yêu thích đến lớp, trẻ đi học chuyên cần cao và tham gia các hoạt động tích cực hơn đặc biệt là hoạt động thể chất. (Hình ảnh môi trường trong lớp học) (Hình ảnh góc vận động ngoài hành lang) Việc xây dựng môi trường và vệ sinh môi trường lớp học, là yếu tố quan trọng trong việc phát triển thể chất cho trẻ, nhưng môi trường sạch, đẹp mà cá nhân trẻ không được chú ý chăm sóc sạch sẽ, trẻ cũng không thể phát triển thể chất tốt được. Vì vậy tôi luôn chú ý quan tâm đến hoạt động vệ sinh cho trẻ. Hoạt động vệ sinh không chỉ thực hiện trên giờ hoạt động vệ sinh, hay 4 lần trên ngày, hay sau các hoạt động chơi, tập... Việc vệ sinh cá nhân cho trẻ được tôi chú ý đến từng cách ăn mặc của trẻ như; nếu thời tiết nóng mà trẻ mặc quá dày cũng sẽ dẫn đến mất vệ sinh, bởi trẻ sẽ ra nhiều mồ hôi khiến trẻ sờ mó lau quyệt lên các bộ phận trên cơ thể hay mặc không phù hợp khi tham gia các hoạt động, nhất là hoạt động vận động cần phải chú ý nhiều hơn. Hoặc vệ sinh khi trẻ ăn luôn nhắc nhở trẻ không nói chuyện khi ăn, ho lấy tay che miệng, nhặt cơm dơi song phải lau tay vào khăn...nghiêm túc thực hiện thường xuyên việc cho trẻ xúc miệng bằng nước muối ở lớp. Đặc biệt là khi có dịch bệnh, khi thời tiết giao mùa tôi cũng chủ động, không chờ nhà trường triển khai kế hoạch mới thực hiện, mà bản thân tôi đã chủ động vệ sinh môi trường lớp học khử khuẩn đồ dùng, đồ chơi, căn dặn các cháu và tuyên truyền phụ huynh cùng ngăn ngừa phòng dịch bệnh không để lây lan vào trẻ lớp mình. (Hình ảnh trẻ rửa tay, rửa mặt hàng ngày) 4.6. Thực hiện tốt công tác tuyên truyền - phối hợp với phụ huynh và cộng đồng. Công tác giáo dục phát triển thể chất cho trẻ 5-6 tuổi, chỉ đạt kết quả tốt khi nhà trường và gia đình phối hợp với nhau chặt chẽ, thường xuyên và liên tục. Nhận thức được vai trò kết hợp của các bậc phụ huynh trong công tác chăm sóc giáo dục trẻ nói chung và công tác giáo dục thể chất cho trẻ nói riêng, ngay từ đầu năm học tôi đã có kế hoạch và nội dung tuyên truyền tới các bậc phụ huynh như sau: * Hình thức tuyên truyền: - Trong buổi họp phụ huynh các kỳ. - Qua hệ thống các bảng tuyên truyền tại góc lớp: như "Tháp dinh dưỡng" và "Bé cần gì để lớn và khoẻ mạnh" - Trao đổi trực tiếp với phụ huynh vào giờ đón trẻ và trả trẻ. - Xây dựng góc tuyên truyền, liên tục có nội dung mới lạ, để gây hứng thú cho phụ huynh quan sát. - Tổ chức thường xuyên hoạt động thể dục sáng đúng giờ, cho phụ huynh được quan sát. * Nội dung tuyên truyền: - Cho trẻ ăn các chất có đủ dinh dưỡng hợp lý, chăm sóc sức khoẻ cho trẻ từ khâu vệ sinh cá nhân trẻ, đến cho trẻ ăn ngủ đúng giờ, cách phòng ngừa một số bệnh thường gặp ở trẻ em.. - Tạo dựng cho trẻ môi trường lành mạnh, thân thiện, Tạo điều kiện cho trẻ được lao động tự phục vụ, theo khả năng của độ tuổi, rèn luyện cơ thể cho trẻ tập thể dục sáng thường xuyên. (Hình ảnh trẻ thăm quan Lăng Bác) (Hình ảnh trẻ tập làm lính cứu hỏa, chú bộ đội) 5. Kết quả thực hiện Từ những biện pháp đã thực hiện, để nâng cao chất lượng giáo dục thể chất cho trẻ 5-6 tuổi, tôi nhận thấy kết quả đạt được như sau: * Đối với phụ huynh: - Các bậc phụ huynh đã nhận thức rõ tầm quan trọng của việc giáo dục thể chất cho trẻ. Vì chất lượng của cuộc sống vì tương lai của con em mình, các bậc phụ huynh đã nêu cao tầm quan trọng của giáo dục thể chất cho trẻ, biết kết hợp với cô giáo, trong việc giáo dục thể chất cho con em mình như; + 100% trẻ được đi học đúng giờ, được ăn chế độ ăn sáng đầy đủ, + Có ý thức quan tâm chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ cho con em mình trước khi đến lớp. + Biết đồng tình với cô giáo để cùng giáo dục trẻ, biết lao động tự phục vụ, theo khả năng sức khoẻ và độ tuổi. * Đối với trẻ: - Trẻ có thói quen hứng thú với việc tập thể dục sáng hàng ngày, được ăn uống theo chế độ, có chế độ dinh dưỡng hợp lý, tích cực tham gia vào các trò chơi vận động, có hứng thú trong các hoạt động phát triển thể chất. - Trẻ hiểu được ích lợi và sự cần thiết của việc tập luyện, giữ gìn vệ sinh, ăn uống hợp lý, để phát triển thể chất cho cơ thể mình như thế nào. Vì thế kết quả cuối năm trẻ đã đạt được một số kết quả như sau: + Số liệu cụ thể như sau: * Kết quả khảo sát trước khi thực hiện đề tài: STT Nội dung Đạt yêu cầu Chưa đạt yêu cầu 1 Trẻ mạnh dạn, tích cực tham gia hoạt động. 18/34 = 52,9% 16/34 = 47,1% 2 Trẻ có kỹ năng vận động. 12/34 = 35,3% 22/34 = 64,7% 3 Khả năng tập trung, chú ý khi tham gia vận động. 25/34 = 73,5% 9/34 = 26,5% * Kết quả sau khi thực hiện đề tài: STT Nội dung Đạt yêu cầu Chưa đạt yêu cầu 1 Trẻ mạnh dạn, tích cực tham gia hoạt động. 32/34=94,1% 2/34=5,9% 2 Trẻ có kỹ năng vận động. 28/34=82,4% 6/34=17,6% 3 Khả năng tập trung, chú ý khi tham gia vận động. 33/34=97,1% 1/34=2,9% * Qua kết quả khảo sát đánh giá cho thấy: Tỷ lệ % - Trẻ mạnh dạn, tích cực tham gia hoạt động tăng 41,2% - Trẻ có kỹ năng vận động tăng 47,1% - Khả năng tập trung, chú ý khi tham gia vận động tăng 23,6% So với trước khi áp dụng các biện pháp thực hiện đề tài này, thì trẻ thực hiện các bài tập, xử lý các tình huống, đúng và nhanh hơn, kỹ năng, thao tác của trẻ tốt hơn, trẻ hứng thú với các hoạt động phát triển thể chất, sự bền bỉ dẻo dai của trẻ được kéo dài hơn, trẻ biết chủ động giữ gìn vệ sinh môi trường, vệ sinh cá nhân, ăn uống hợp lý. Đã góp phần không nhỏ vào việc giảm tỷ lệ trẻ suy dinh dưỡng rất tốt, cụ thể cuối năm trẻ lớp A1 chỉ còn 2/34 trẻ SDD, bằng 5,9%, tỷ lệ so với đầu năm giảm được 4,1% trẻ SDD. * Đối với giáo viên. Giáo viên trường mầm non nơi tôi công tác nói chung và nhất là giáo viên khối 5 tuổi nói riêng, không còn quan điểm sợ, chán dạy hoạt động phát triển thể chất cho trẻ là khô khan, khó sáng tạo nữa, ngoài ra còn học tập được nhiều loại trò chơi vận động, tích hợp phát triển thể chất cho trẻ vào các hoạt động khác, rất phong phú và đa dạng, môi trường các lớp được sạch đẹp và thay đổi thường xuyên hơn PHẦN THỨ BA KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ Kết luận: Qua một thời gian tự nghiên cứu và áp dụng các phương pháp trên, tôi cũng đã gặt hái được những thành công bước đầu, bản thân tôi cũng đã hiểu sâu sắc về giáo dục thể chất cho trẻ mầm non. Thông qua giáo dục thể chất, giúp trẻ phát triển toàn diện về các mặt: Đức, trí, thể ,mỹ, lao động và giúp trẻ mạnh dạn tự tin hơn trong cuộc sống. Chính vì vậy tôi nhận thấy là một giáo viên mầm non đòi hỏi phải có phẩm chất đạo đức, trình độ năng lực, đề cao lương tâm và nhân cách nhà giáo, lòng nhân ái tận tụy thương yêu trẻ luôn tìm ra những giải pháp chăm sóc giáo dục giúp trẻ phát triển một cách toàn diện nhất. Tôi rút ra một số bài học kinh nghiệm sau: + Giáo viên phải có kế hoạch năm học, kế hoạch tháng rõ ràng cụ thể, phù hợp với khả năng của trẻ lớp mình và khả năng của bản thân, cũng như điều kiện của nhà trường, kế hoạch phải xây dựng trước khi thực hiện. + Giáo viên phải nắm vững phương pháp, trình tự từng hoạt động, biết lồng ghép, tích hợp trong các hoạt động với nhau. + Phải tạo được môi trường lớp học sạch sẽ, hấp dẫn, sinh động để thu hút trẻ tham gia vào hoạt động. + Giáo viên phải biết phối kết hợp chặt chẽ, giữa cô giáo với nhân viên nuôi dưỡng và phụ huynh học sinh, làm tốt công tác tuyên truyền, để phụ huynh, cùng trẻ thường xuyên tham gia vào các hoạt động bề nổi của nhà trường, nhằm góp phần thúc đẩy cộng đồng tốt hơn. Đề xuất, khuyến nghị: + Đối với PGD&ĐT, thường xuyên mở các lớp bồi dưỡng chuyên môn, hoặc tổ chức phổ biến rộng rãi các tiết mẫu, các sáng kiến kinh nghiệm hay, đạt giải cao các cấp. + Đối với nhà trường, tăng cường bổ xung đầu tư, các loại đồ dùng, phương tiện dạy học, cho các hoạt động chăm sóc giáo dục trẻ hơn nữa. Tôi xin trân trọng cảm ơn! Ba Vì, ngày 1 tháng 5 năm 2017 Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình viết, không sao chép nội dung của người khác. PHẦN THỨ TƯ TÀI LIỆU THAM KHẢO STT Tên tài liệu Nhà xuất bản - tác giả 1 Hướng dẫn tổ chức thực hiện Giáo dục mầm non mẫu giáo 5-6 tuổi Nhà xuất bản Giáo dục 2 Chương trình giáo dục mầm non Nhà xuất bản Giáo dục 3 Các hoạt động phát triển vận động của trẻ mầm non Nhà xuất bản Giáo dục 4 Hướng dẫn các hoạt động phát triển thể chất cho trẻ mầm non Nhà xuất bản Giáo dục 5 Hướng dẫn sử dụng bộ chuẩn phát triển trẻ em 5 tuổi Bộ giáo dục - Đào tạo Đánh giá và xếp loại của Hội đồng khoa học cơ sở Ngày tháng năm 2017 Chủ tịch hội đồng Đánh giá và xếp loại của Hội đồng khoa học, Ngành Giáo dục - Đào tạo Huyện Ba vì Ngày tháng năm 2017 Chủ tịch hội đồng

Bạn đang đọc nội dung bài viết Một Số Biện Pháp Nâng Cao Chất Lượng Bồi Dưỡng Giáo Viên Thpt Trước Yêu Cầu Đổi Mới Giáo Dục trên website Photomarathonasia.com. Hy vọng một phần nào đó những thông tin mà chúng tôi đã cung cấp là rất hữu ích với bạn. Nếu nội dung bài viết hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!