Cập nhật nội dung chi tiết về Làm Gì Để Phát Triển Năng Lượng Bền Vững Tại Việt Nam? mới nhất trên website Photomarathonasia.com. Hy vọng thông tin trong bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu ngoài mong đợi của bạn, chúng tôi sẽ làm việc thường xuyên để cập nhật nội dung mới nhằm giúp bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.
Làm gì để phát triển năng lượng bền vững tại Việt Nam?
Ông Lê Tuấn Phong
Ông Lê Tuấn Phong, Phó Tổng Cục trưởng Tổng cục Năng (Bộ Công Thương): “Vốn đầu tư của ngành năng lượng rất lớn”
Việt Nam đang phải đối mặt với những thách thức trong lĩnh vực năng lượng như nhu cầu năng lượng tăng trưởng cao gây áp lực rất lớn đến việc đảm bảo an ninh năng lượng, đồng thời cũng tạo sức ép lớn cho nền kinh tế Việt Nam về vốn đầu tư cho ngành năng lượng.
Việt Nam cần nỗ lực, thực hiện nhiều giải pháp để cải thiện việc hoạch định chiến lược phát triển ngành năng lượng, quy hoạch năng lượng, xây dựng thị trường năng lượng cạnh tranh để cải thiện hiệu quả và năng suất của ngành năng lượng, tăng tỷ trọng các nguồn năng lượng sạch và năng lượng tái tạo, thúc đẩy các giải pháp sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả.
Ông Tô Quốc Trụ
Ông Tô Quốc Trụ, Phó Chủ tịch Hội đồng Khoa học năng lượng VEA (VESB): Phát triển và khai thác hợp lý các nguồn năng lượng
Để đảm bảo phát triển năng lượng bền vững, Việt Nam cần hết sức quan tâm đến điều hành, quản lý, phát triển và khai thác hợp lý các nguồn năng lượng.
Chính sách sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả cần được nhấn mạnh và đưa ra biện pháp mạnh để thực hiện. Trên phương diện tổng thể, Việt Nam cần ưu tiên phát triển các ngành kinh tế – xã hội nói chung và ngành công nghiệp nói riêng có cường độ năng lượng thấp, áp dụng công nghệ mới sản xuất các trang thiết bị hiệu suất cao, khuyến khích về thuế cho các doanh nghiệp tiết kiệm năng lượng, miễn giảm thuế thu nhập hàng hóa và thiết bị tiết kiệm năng lượng…
Ông Nguyễn Tài Anh
Ông Nguyễn Tài Anh, Phó Tổng giám đốc EVN: Thực hiện trách nhiệm của doanh nghiệp đối với xã hội
Tập đoàn Điện lực Việt Nam đã và đang nỗ lực hết sức mình để thực hiện các trách nhiệm của doanh nghiệp đối với xã hội, thực hiện các mục tiêu công ích, an sinh xã hội, đưa điện lưới quốc gia về tới 99,8% số xã, 98,76% số hộ dân nông thôn, đảm nhận cấp điện cho 9/12 huyện đảo trên toàn bộ lãnh thổ Việt Nam.
Cùng với việc bảo đảm đủ điện cho phát triển kinh tế xã hội của đất nước, trước những yêu cầu ngày càng khắt khe của khách hàng về chất lượng, dịch vụ, thực hiện các trách nhiệm về môi trường, EVN đang xây dựng chương trình tái cấu trúc lại tổ chức, nâng cao năng lực quản trị, năng suất lao động và hiệu quả sản xuất kinh doanh.
Tỷ lệ tổn thất điện năng bao gồm cả lưới điện truyền tải và phân phối điện của EVN đã giảm từ 10,15% năm 2010 xuống còn 7,94% năm 2015, mục tiêu đến năm 2020 là dưới 6,5%. Các chỉ tiêu về độ tin cậy cung cấp điện liên tục được cải thiện: Chỉ số thời gian cắt điện trung bình (SAIDI) giảm từ 8.077 phút năm 2012 xuống còn 2.110 phút năm 2015. EVN đặt mục tiêu phấn đấu năm 2.016 phút còn dưới 400 phút/năm, tương đương với các nước tiên tiến trong khu vực.
Ông Nguyễn Văn Biên
Ông Nguyễn Văn Biên, Phó Tổng giám đốc Tập đoàn Công nghiệp Than & Khoáng sản Việt Nam (TKV): Phát triển ngành than gắn với bảo vệ môi trường
Mặc dù TKV đã tích cực và đang phải tiếp tục triển khai mạnh mẽ các giải pháp nâng cao năng suất lao động, tiết kiệm chi phí nhưng Tập đoàn cũng rất cần sự chia sẻ, thấu hiểu của các nhà làm chính sách đảm bảo lợi ích hài hòa giữa nộp ngân sách, lợi nhuận để đầu tư phát triển doanh nghiệp như ngành mỏ các nước đã thực hiện nhiều năm nay.
Các nhà làm chính sách cần sớm điều chỉnh thuế, chi phí tương đương với các nước trong khu vực để cạnh tranh giữ vững thị trường và năng lực sản xuất của ngành, góp phần phát triển bền vững.
Ngoài ra cũng cần triển khai các giải pháp theo Quy hoạch phát triển ngành than như: Các bộ, ngành phối hợp với các địa phương xây dựng, trình Thủ tướng Chính phủ cơ chế, chính sách đặc thù đảm bảo đủ điều kiện để phát triển ngành than theo Quy hoạch; cần tìm kiếm các cơ hội và thu xếp nguồn vốn để thực hiện việc đầu tư thăm dò, khai thác than ở nước ngoài bằng nhiều hình thức…
Phát Triển Bền Vững Ở Việt Nam
PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG Ở VIỆT NAM
HIỆN TRẠNG, THÁCH THỨC VÀ GIẢI PHÁP
GS.TS. Lê Văn Khoa
TS. Nguyễn Ngọc Sinh
Hội Bảo Vệ Thiên nhiên và Môi trường Việt Nam (VACNE)
I. PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG (PTBV) LÀ TRUYỀN THỐNG CỦA CÁC DÂN TỘC VIỆT NAM
Pierre Gourou, nhà địa lý học nổi tiếng trên thế giới, chuyên gia về các vùng nhiệt đới ẩm, đã đề xuất một khái niệm về văn minh của loài người. Ông cho rằng,Việt Nam có truyền thống hàng nhiều thế kỷ về PTBV. Một nền văn hoá có hiệu suất cao về mật độ, không gian và thời gian (Pierre Gourou, 1982).
Pierre Gourou, nhà địa lý học nổi tiếng trên thế giới, chuyên gia về các vùng nhiệt đới ẩm, đã đề xuất một khái niệm về văn minh của loài người. Ông cho rằng,Việt Nam có truyền thống hàng nhiều thế kỷ về PTBV. Một nền văn hoá có hiệu suất cao về mật độ, không gian và thời gian (Pierre Gourou, 1982).
Với khái niệm này nền văn hoá đồng nghĩa với khả năng duy trì cuộc sống của con người. Sự duy trì này không hoàn toàn phụ thuộc vào tài nguyên thiên nhiên được duy trì. Các châu thổ các sông tại các vùng nhiệt đới khác nhau trên thế giới hầu như có điều kiện đất đai, thuỷ văn, khí hậu tương tự như nhau, nhưng có khả năng duy trì rất khác nhau. Mật độ dân số trung bình của các châu thổ nhiệt đới ở Châu Phi và Nam Mỹ là 14 người/km2, ở Châu Á là 170 người/km2. Tại Đồng Bằng Sông Hồng (ĐBSH), mật độ này là 430 người vào năm 1931; 650 người vào năm 1975 và vào khoảng 1.238 người/km2 hiện nay. ĐBSH rộng 15.000 km2. Khả năng duy trì cuộc sống lâu dài này đã lôi cuốn sự chú ý của nhiều nhà nghiên cứu thuộc các lĩnh vực khoa học khác nhau: địa lý; lịch sử; nhân học; kinh tế… Ở Việt Nam cũng như ở nước ngoài “nền văn hoá sông Hồng“, “nền văn minh lúa nước”, “phương thức sản xuất Châu Á”…là thuật ngữ đã được dùng để chỉ rõ đặc trưng về sử dụng tài nguyên thiên nhiên và mối quan hệ giữa con người với tài nguyên thiên nhiên trên ĐBSH. Đó là do:
– Người dân đã sử dụng các công nghệ với những đặc điểm tiêu tốn ít năng lượng, sử dụng năng lượng tái tạo của mặt trời, thuỷ lực, gió, thuỷ triều; sử dụng vật liệu tái tạo, tìm được tại chỗ hoặc gần nơi sản xuất; sử dụng, tái chế tất cả các phế thải, phụ phẩm của quá trình sản xuất và tiêu dùng. Trong vườn nhà của người nông dân ĐBSH tài nguyên đất được sử dụng 2-3 vụ mỗi năm, nguồn nước được sử dụng nhiều lần từ dùng để uống, đun nấu, rửa đến tưới vườn, ruộng. Năng lượng mặt trời được dùng để phơi sấy, năng lượng thuỷ triều để tưới tiêu, gió để đẩy thuyền; nhiệt lượng từ không khí để biến thực phẩm qua lên men. Nhiều vật liệu xây dựng lấy từ cây cỏ, tre nứa. Nước bẩn từ nhà bếp, nhà vệ sinh chảy về vườn, ruộng.
– Sự tạo lập nên những giá trị văn hoá đề cao sự tự tôn trong lao động sản xuất, tiết kiệm trong tiêu thụ và sử dụng tài nguyên, tránh những hành động can thiệp vào cân bằng và hài hoà của thiên nhiên. Trong xã hội truyền thống ở Việt Nam, người có học được đặt vào vị trí cao nhất (nhất sĩ) người nông dân được đặt ở vị trí thứ hai(nhì nông). Kham khổ, tiết chế trong ăn, mặc, ở, được xem là đức tính quan trọng, ăn chay, cấm sát sinh là những tập quán phổ biến trong tín đồ phật giáo.
– Một hệ thống xã hội phát triển tinh thần đoàn kết, tương trợ trong nhân dân, tạo nên khả năng huy động tài sản của cộng đồng hoặc của cá nhân nhằm đảm bảo cho những việc công ích, kể cả việc khai thác tài nguyên thiên nhiên, phòng chống thiên tai và bảo vệ môi trường (BVMT) đang là cơ sở tổ chức xã hội này.
– Từ kinh nghiệm nhiều thế kỷ tại ĐBSH có thể thấy rằng PTBV là có khả năng hiện thực. Tính hiện thực này dựa trên sự tổ hợp của lựa chọn đúng đắn điều kiện thiên nhiên, sử dụng công nghệ “sạch” thích hợp và hình thành một nền văn minh hoá PTBV.
Chiến lược PTBV do IUCN, UNEP, WWWF soạn thảo xác định:
“Đạo đức tạo nên một cơ sở cho PTBV”. Dựa trên nền tảng này, các tổ chức trên đề nghị:
“Phải đề cao đạo đức của thế giới về PTBV; mở rộng và tăng cường giáo dục môi trường; thừa nhận và cải tiến ý thức tập thể và cộng đồng về PTBV; chấp nhận luật pháp và sáng kiến củng cố các biện pháp PTBV”(IUCN,UNEP, WWF,1989).
Gần đây, quốc tế lại đánh giá cao về hệ thống lúa nước có tưới và xem là một hệ thống canh tác bền vững nhất do người Việt Nam sáng tạo. Đó là do:
1. Là một hệ canh tác bền vững, ổn định về năng suất và an toàn để đầu tư thâm canh. Hệ thống tưới tiêu đã nhân tạo hoá một phần điều kiện tự nhiên để canh tác lúa nước.
2. Hạn chế lũ lụt: đê điều nhằm bảo vệ các cánh đồng lúa khỏi bị ngập lụt, nhưng mặt khác cần thấy tác động ngược lại là chính cánh đồng lúa đã góp phần hạn chế lũ lụt. Có thể xem vai trò các cánh đồng lúa như các hồ chứa nước và BVMT có giá trị tương đương như các hồ chứa nước nhất là các cánh đồng cao, ít bằng phẳng.
3. Duy trì tài nguyên nước: Các cánh đồng lúa luôn lưu giữ lớp nước trên bề mặt trải rộng trên diện tích lớn của lãnh thổ, nhờ đó đã tác động tích cực đến chế độ nước ngầm. Nước ngầm được cánh đồng lúa duy trì đã góp phần ổn định lưu lượng các dòng sông mùa cạn và duy trì mực nước ngầm cho các giếng nước sinh hoạt.
4. Làm trong sạch môi trường (đất và khí quyển) và tạo cảnh quan đẹp cho vùng quê. Các cánh đồng lúa và kể cả cánh đồng màu, các vườn cây đã tiêu thụ, phân giải các rác thải góp phần giảm thiểu ô nhiễm đất. Đối với việc làm sạch không khí ngoài chức năng điều tiết khí CO2, các cánh đồng lúa còn hấp thu các khí độc như SO2 và NO2. Các hệ thống canh tác RVAC, nông lâm nghiệp kết hợp, xen canh, luân canh, làm ruộng bậc thang ở những vùng cao đều là những sáng tạo truyền thống của các dân tộc Việt Nam trong sử dụng bền vững các nguồn tài nguyên thiên nhiên và BVMT.
Như vậy, định hướng chiến lược để PTBV ở Việt Nam rất phù hợp với truyền thống của người dân Việt Nam và nếu có những giải pháp phù hợp sẽ khơi dậy mạnh mẽ truyền thống cao đẹp này.
II. HIỆN TRẠNG CÁC HOẠT ĐỘNG VỀ PTBV CỦA VIỆT NAM TRONG NHỮNG NĂM GẦN ĐÂY
Trong quá trình hội nhập quốc tế, vào năm 1991, Việt Nam đã thông qua ” Kế hoạch quốc gia về môi trường và phát triển lâu bền 1991-2000“. Tiếp đó, đây là một trong những hoạt động đầu tiên ở tầm quốc gia về PTBV. Ngày 17/8/2004 Chính phủ đã ra quyết định số 153/2004/TTg ban hành văn bản “Định hướng Chiến lược về phát triển bền vững ở Việt Nam – (Chương trình nghị sự 21 của Việt Nam)”. Nội dung của Định hướng chiến lược về PTBV bao gồm mục tiêu dài hạn, những nguyên tắc, những lĩnh vực ưu tiên,những định hướng về chính sách và biện pháp tổ chức thực hiện PTBV. Định hướng chiến lược đề ra khung chính sách để các ngành, các địa phương, các tổ chức xã hội thiết kế và thực hiện chương trình hành động tiến tới PTBV của mình.
Định hướng chiến lược đã đề ra một số giải pháp nhằm tổ chức thực hiện chính như sau:
1. Phát triển hệ thống thể chế phù hợp với những yêu cầu PTBV, bao gồm hoàn thiện hệ thống cơ chế chính sách và các văn bản pháp luật và xây dựng cơ chế phối hợp hoạt động giữa các Bộ, Ngành, địa phương.
2. Tăng cường năng lực quản lý PTBV của đội ngũ cán bộ.
3. Huy động toàn dân tham gia thực hiện PTBV, thấm nhuần phương châm ” PTBV là sự nghiệp của toàn dân”
4.Xây dựng và thực hiện chương trình hành động về PTBV của ngành và địa phương.
5. Tăng cường hợp tác quốc tế và khu vực trong lĩnh vực PTBV và BVMT.
Chương trình nghị sự 21 của Việt nam (CTNS21) đánh dấu một thời kỳ mới thực hiện quan điểm của Nhà nước Việt Nam. Đó là “Phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường”. Đối với Việt Nam, đây là một cách tiếp cận mang tính hệ thống, dài hạn, bảo đảm sự phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội,môi trường theo hướng bền vững.
Thời gian qua, để đưa những định hướng của chiến lược vào cuộc sống được sự hỗ trợ của Chương trình phát triển Liên Hợp Quốc (UNDP), Cơ quan phát triển Quốc tế Đan Mạch (DANIDA), Cơ quan Phát triển quốc tế Thụy Điển (SIDA) cùng các tổ chức quốc tế khác, Dự án “Hỗ trợ xây dựng và thực hiện Chương trình nghị sự 21 quốc gia của Việt nam – VIE/01/021 do Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì thực hiện với sự phối hợp của các Bộ, Ngành, địa phương đã triển khai nhiều hoạt động đến các tỉnh, thành và huyện, nhiều phương pháp tiếp cận, xây dựng và đánh giá định lượng các mô hình PTBV đã ra đời, trong đó phải kể đến các phương pháp xây dựng ma trận: “Động lực – Áp lực – Hiện trạng – Đáp ứng” đã trở thành phổ biến trong đánh giá tiến bộ về PTBV. Bên cạnh đó, Dự án VIE/01/021 đã lần lượt ban hành 10 chuyên đề, bước đầu kiến nghị Bộ chỉ tiêu khởi đầu VN0 ở 2 cấp Quốc gia và các địa phương.
Ở cấp quốc gia, gồm:
– 12 chỉ tiêu (CT) về lĩnh vực kinh tế
– 17 CT về lĩnh vực xã hội
– 12 CT về lĩnh vực tài nguyên- môi trường và
– 3 CT về lĩnh vực thể chế nhằm PTBV
Ở
cấp các địa phương, gồm:
– 7 CT về lĩnh vực kinh tế
– 14 CT về lĩnh vực xã hội
– 6 CT về tài nguyên- môi trường và
– 2 CT về lĩnh vực thể chế
Năm 2006, Hội Bảo vệ Thiên nhiên và Môi trường Việt Nam(VACNE), với sự hỗ trợ của Dự án VIE/01/21 bước đầu phát hiện các loại mô hình trong nhiều lĩnh vực và tiến hành mô tả chi tiết và kiến nghị khả năng mở rộng nếu có điều kiện (bảng1)
Bảng 1. Các mô hình về Phát triển Bền vững ở Việt nam
Lĩnh vực
Mô hình
Số lượng mô hình đã được nghiên cứu
Khả năng mở rộng mô hình
Công nghiệp
Sản xuất sạch hơn (cơ sở sản xuất)
4
120
Nông nghiệp
Làng sinh thái
3
18
Cộng đồng
Cộng đồng tham gia BVMT, PTBV(xã)
4
3.000
Thành phố
PTBV thành phố (thành phố)
3
100
Vùng ven biển
PTBV vùng ven biển(tỉnh, thành phố)
3
23
Lưu vực sông
PTBV lưu vực sông(lưu vực)
1
20
Nguồn: Hội BVTN và MT Việt Nam, 2006
Nhìn lại quá trình gần 5 năm thực hiện những nhiệm vụ đã nêu trong định hướng, Hội BVTN&MT Việt Nam với tư cách là tổ chức phản biện phi Chính phủ nhận thấy, kể từ khi Quyết định 153 của Chính phủ được ban hành, Việt Nam đã đạt được bước tiến khá dài trên con đường đi tới mục tiêu phát triển bền vững (PTBV). Có thể kể ra đây những kết quả chính như sau:
1. Phát triển hệ thống thể chế phù hợp với yêu cầu PTBV
Chủ trương PTBV được các cơ quan lãnh đạo Đảng và Quốc Hội tích cực hưởng ứng và PTBV đã trở thành một quan điểm chủ đạo trong đường lối và chính sách phát triển dài hạn của Việt Nam thông qua việc lồng ghép một số chỉ tiêu cơ bản vào kế hoạch phát triển KT-XH 5 năm 2006-2010. Một số biện pháp về tổ chức và thể chế cho PTBV đã được thành lập: sự hình thành Hội đồng PTBV quốc gia theo quyết định số 1032/QĐ/TTg ngày 27/9/2005 của Thủ tướng Chính phủ và Văn phòng PTBV đặt trong Bộ KH&ĐT(Văn phòng 21) có nhiệm vụ giúp Thủ tướng Chính phủ tổ chức, hướng dẫn và chỉ đạo thống nhất việc thực hiện trong phạm vi cả nước Chiến lược PTBV.
2. Tăng cường năng lực quản lý PTBV của đội ngũ cán bộ
Trong những năm qua nhiều cuộc hội thảo, lớp tập huấn đã được tổ chức ở tất cả các vùng, miền trong cả nước để phổ biến nội dung của Định hướng Chiến lược PTBV. Đặc biệt ở 6 tỉnh tiến hành thí điểm (Thái Nguyên, Sơn La, Ninh Bình, Quảng Nam, Lâm Đồng, Bến Tre).
3. Huy động được một bộ phận dân chúng tham gia thực hiện PTBV
4. Xây dựng và thực hiện chương trình hành động về PTBV của ngành và địa phương
Cụ thể, Thông tư hướng dẫn các Ngành và địa phương xây dựng Chương trình nghị sự 21 cấp Ngành và địa phương đã được Bộ KH &ĐT ban hành 2005 (Thông tư 01/2005/TT-BKH ngày 9/3/2005). Theo tinh thần của Thông tư này, 6 tỉnh nói trên đã được Dự án VIE/01/021- Bộ KH&ĐT triển khai thí điểm thực hiện quy trình mẫu xây dựng CTNS21 của tỉnh. Các tỉnh còn lại, trong đó có Hà Nội, một số cũng đã và đang tiến hành xây dựng CTNS21 của địa phương mình. Tại các tỉnh làm thí điểm đã thành lập Uỷ Ban PTBV do 1 Phó Chủ tịch tỉnh làm chủ nhiệm, Giám đốc Sở KH&ĐT làm Phó Chủ nhiệm. Tại những địa phương, hoặc ngành này nhiều mô hình trình diễn về PTBV đã được thực hiện và VACNE đã tổng kết để phổ biến (bảng 1).
Cụ thể, mô hình xây dựng Hương ước làng bản về PTBV, phổ biến các mô hình nông nghiệp kết hợp với bảo vệ rừng ở tỉnh Sơn La; phổ biến các phương thức thực hiện nông nghiệp bền vững trong việc trồng trọt và chế biến chè sạch ở 2 tỉnh Thái Nguyên và Lâm Đồng; xây dựng Quy ước cộng đồng để thực hiện du lịch sinh thái bền vững ở Ninh Bình; phổ biến quy trình tạo năng lượng sạch trong cộng đồng nghèo ở Quảng Nam; phương thức nuôi tôm sinh thái ở Bến Tre; kết hợp phát triển ngành nghề để xoá đói giảm nghèo với việc bảo tồn các giá trị văn hoá dân tộc thiểu số ở Lâm Đồng…
5. Tăng cường hợp tác quốc tế và khu vực trong lĩnh vực PTBV và BVMT
Với sự hợp tác và hỗ trợ của cộng đồng quốc tế, nhiều Dự án quan trọng đang thực hiện nhằm xoá đói giảm nghèo, nâng cao bình đẳng giới, BVMT, giảm nhẹ tác động của thiên tai, cải cách thể chế và quản trị…
6. Xu hướng tích cực trong chính sách đảm bảo công nghiệp hoá sạch
Xu hướng tích cực trong chính sách đảm bảo công nghiệp hoá sạch là sản xuất sạch hơn đã được chú ý thúc đẩy áp dụng ở quy mô cả nước. Chỉ thị số 08/CT-BCN ngày 10/7/2007 của Bộ trưởng Bộ công nghiệp về việc áp dụng sản xuất sạch hơn trong các cơ sở công nghiệp đã chỉ đạo các tập đoàn, tổng công ty và doanh nghiệp công nghiệp nghiên cứu, phổ biến và áp dụng.
Đến nay đã có hơn 30% số cơ sở công nghiệp áp dụng. Tuy chưa kèm theo những công cụ điều chỉnh pháp lý, khuyến khích kinh tế và hỗ trợ kỹ thuật để hiện thực hoá Chỉ thị, song đây là bước tiến về nhận thức của giới lãnh đạo công nghiệp với vai trò sản xuất sạch hơn.
7. Văn kiện Định hướng Chiến lược PTBV đặt phát triển bền vững nông nghiệp và nông thôn như là một lĩnh vực ưu tiên hàng đầu
Bên cạnh đó, Đề án ” Vấn đề nông nghiệp, nông thôn và nông dân” được Hội nghị BCH Trung ương lần thứ 7 (năm 2008) thông qua đã vạch ra những kết quả, những tồn tại và giải pháp. Tuy có nhiều khó khăn thực hiện PTBV ở nông thôn do chủ yếu sản xuất tiêu nông, nhưng trong những năm gần đây đã gặt hái nhiều thành công trong chuyển giao công nghệ, trong xây dựng các mô hình sản xuất bền vững như VAC, mô hình canh tác bền vững trên đất dốc (SALT), mô hình làng kinh tế sinh thái…và phong trào làm hầm biogas đã cải thiện đáng kể bộ mặt nông thôn và ở mức độ nào đó đã thể hiện tính bền vững.
III. NHỮNG THÁCH THỨC
1. Phát triển hệ thống thể chế phù hợp với yêu cầu PTBV
Quá trình thực hiện PTBV đã bắt đầu được các cơ quan nhà nước và chính quyền địa phương chú ý và đã có những bước tiến đáng kể. Tuy vậy, tiến độ thực hiện còn chậm so với mong đợi và vì vậy tình hình phát triển kinh tế vẫn đang tiếp tục gây suy thoái môi trường và nhiều lĩnh vực xã hội yếu kém vẫn chưa được cải thiện. Những ví dụ điển hình là các vụ gây ô nhiễm môi trường trầm trọng của Công ty Vedan Việt Nam, Công ty Miwon, gần 1500 làng nghề nông thôn phát triển không bền vững, vẫn tiếp tục sản xuất theo phương thức cũ gây ô nhiễm môi trường. Một số trung tâm làng nghề ở Bắc Ninh, Hưng Yên đã hình thành, nhưng công tác quản lý yếu kém dẫn đến việc các hộ chuyển cả gia đình ra sống ở các trung tâm và chiếm dụng luôn đất đai.
– Quyết định số 685/QĐ-BKH ngày 28/6/2004 của Bộ KH&ĐT về việc thành lập văn phòng PTBV.
– Quyết định số 1032/QĐ-TTg ngày 27/9/2005 của Thủ tướng Chính Phủ về việc thành lập Hội đồng PTBV Quốc gia.
– Quyết định số 248/QĐ-TTg ngày 24/2/2009 của Thủ tướng Chính phủ về việc điều chỉnh chức năng, nhiệm vụ, cơ cấu tổ chức của Hội đồng PTBV Quốc gia.
– Thông tư số 01/2005/TT-BKH ngày 09/3/2005 của Bộ KH&ĐT về việc triển khai thực hiện Quyết định của Thủ tướng Chính phủ về Định hướng chiến lược PTBV ở Việt Nam.
2. Về tổ chức
Văn phòng PTBV đã qua 4 năm hoạt động, nhưng đội ngũ cán bộ mỏng và năng lực yếu. Văn phòng chưa thực hiện được tất cả các chức năng quản lý cũng như triển khai thực hiện, đặc biệt là công tác đôn đốc, giám sát, đánh giá kết quả hoạt động PTBV. Một số tỉnh thí điểm tuy có tổ chức Uỷ ban phát triển bền vững nhưng hoạt động như thế nào là tuỳ thuộc vào từng địa phương, khâu kiểm tra, đánh giá còn yếu.
Hội đồng PTBV quốc gia được thành lập từ 2005, ban đầu quá cồng kềnh (gồm 44 thành viên đại diện lãnh đạo các Bộ, Ngành, đoàn thể, tổng công ty lớn). Chính vì vậy, tháng 2/2009 Chính phủ đã có quyết định điều chỉnh tổ chức của Hội đồng với chức năng và nhiệm vụ tập trung hơn, cơ cấu tổ chức gọn hơn (gồm 30 thành viên).
3. Về Thông tư hướng dẫn triển khai CTNS21
Tuy đã được phổ biến tới tất cả các tỉnh và Bộ, Ngành, nhưng mới chỉ có những tỉnh thành nằm trong diện thí điểm, được Dự án VIE/01/021 cấp kinh phí thì khởi động, tuyệt đại đa số các tỉnh, thành còn lại chưa thực hiện đầy đủ. Lý do có thể là:
– PTBV và CTNS21 là những vấn đề mới nên rất cần những hướng dẫn về việc xây dựng Chương trình nghị sự 21 cho các địa phương. Cần phải có sự hỗ trợ qua tập huấn, bồi dưỡng cán bộ và tư vấn về các phương pháp tiến hành công việc.
– Chương trình nghị sự 21 quốc gia mới chỉ mang tính chất khung định hướng và chưa có văn bản nào quy định phải bắt buộc tuân thủ tất cả các Điều trong đó.
5. Định hướng Chiến lược PTBV mới chỉ dừng lại ở phạm trù lý luận, chưa thực sự đi vào thực tiễn cuộc sống. Quá trình chuyển sang phát triển theo chiều sâu hầu như không có như định hướng chiến lược đã đề ra là chuyển tăng trưởng từ chiều rộng sang chiều sâu bằng cách áp dụng công nghệ mới, nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm, nâng cao hiệu quả…Các cấp chính quyền hiện vẫn theo đuổi tốc độ tăng trưởng kinh tế thông qua các chính sách thu hút đầu tư “thoáng” bằng cách xây dựng cơ sở hạ tầng ở những địa điểm thuận tiện, hạ giá cho thuê đất, ưu đãi thuế, đơn giản hoá thủ tục…Nếu xét theo các tiêu chí PTBV thì chính sách này là không bền vững, là nới lỏng những tiêu chuẩn sử dụng tiết kiệm tài nguyên quý hiếm như đất đai, khoáng sản, năng lượng và hạ thấp tiêu chuẩn BVMT. Tình trạng lãng phí đất ở các khu công nghiệp (tỷ lệ lấp đầy diện tích các khu công nghiệp trên cả nước chưa đến 50%), đã chuyển đổi gần 400.000 ha đất nông nghiệp màu mỡ thành các khu công nghiệp, đô thị, sân golf, cho phép đầu tư các nhà máy có nguy cơ gây ô nhiễm cao, khai thác và hối hả khai thác các loại khoáng sản để xuất khẩu thô hiện đang là những vấn đề bức xúc trong xã hội. Những ví dụ điển hình là như dự án khai thác bauxite Tây Nguyên đã thể hiện rõ nét những khía cạnh tiêu cực về kinh tế, xã hội, tài nguyên và môi trường. Việc cả nước hiện có 141 sân golf ở 39 tỉnh sử dụng 49.268 ha đất trong đó có 2.625 ha đất trồng lúa, sân golf đã trở thành một hiện tượng đang bùng nổ, là sát thủ của nhà nông, đe dọa an ninh lương thực quốc gia, mất việc làm của một bộ phận không nhỏ nông dân và gây ô nhiễm môi trường do dùng nhiều nước và hoá chất bảo vệ mặt cỏ.
6. Các nhà hoạch định chính sách và lập quy hoạch
còn xem nhẹ và chưa nhận thức đầy đủ sự cần thiết của việc gắn kết môi trường vào các quy hoạch phát triển.
Trong khi đó các nhà môi trường lại bị đứng ngoài quá trình xây dựng các quy hoạch phát triển đó. Nhiều ngành kinh tế phát triển nhanh gây áp lực lớn đến môi trường và xã hội, nhưng khi lập quy hoạch phát triển lại hầu như không đề cập đến PTBV theo khía cạnh môi trường và an sinh xã hội. Đa số các bản quy hoạch này thường nặng về phát triển kinh tế, chưa quan tâm đúng mức đến sinh kế của một bộ phận đông đảo dân cư và BVMT. Nói cách khác, nhận thức về PTBV mới chỉ dừng lại ở phạm trù lý thuyết chưa có tính thực tiễn, khoảng cách giữa nhận thức về lý luận và thực tiễn còn rất rộng. Ví dụ, công trình thuỷ điện Sơn La mang tầm cỡ Quốc gia tuy đã được tiến hành, nhưng kéo dài còn sơ sài, không xét tới tính bền vững. Việc tách riêng đánh giá tác động môi trường với tái định cư, với giao thông thuỷ bộ là không hợp lý, không thể hiện tính bền vững.
7. Công tác truyền thông về CTNS21
còn yếu ở Trung ương và địa phương, chỉ những cán bộ quản lý chủ chốt mới được thông tin, còn nhiều bộ phận cán bộ các Sở, Ban Ngành và cộng đồng đều thiếu thông tin. Do đó, quá trình lập quy hoạch thiếu sự tham gia của cộng đồng địa phương, dẫn đến hiệu quả và tính thực thi các quy hoạch rất thấp. Dự án VIE/01/021- Bộ KH&ĐTđã lựa chọn bộ chỉ tiêu khởi đầu gồm 58 CT. Trong đó lĩnh vực kinh tế gồm 12 CT, lĩnh vực xã hội: 17 CT; lĩnh vực TNMT 12 CT; lĩnh vực thể chế 3 CT, nhưng đến nay vẫn chưa được công bố chính thức. Một mặt khác, đến nay không có một văn bản nào quy định về việc đưa vào giảng dạy CTNS21 ở các Trường Đại học và Cao đẳng, nếu có chỉ mang tính tự phát và theo yêu cầu của rất ít khối trường.
8. Những thách thức trong lĩnh vực xã hội:
Thực hiện Định hướng Chiến lược PTBV, một số chính sách mới đã được ban hành trong các lĩnh vực dân số, xoá đói giảm nghèo, đô thị hoá, di dân, y tế và giáo dục là những định hướng ưu tiên. Tuy chưa tạo ra những đột phá về cơ chế, song những chính sách về xã hội cơ bản có tác dụng tích cực đối với ổn định xã hội, nâng cao thu nhập và phúc lợi của các nhóm yếu thế và nghèo, phát triển nguồn lực con người. Ví dụ điển hình là đã điều chỉnh ngưỡng nghèo theo hướng tích cực, với ngưỡng thu nhập cao hơn ở thành thị cũng như khu vực nông thôn. Nhưng do thay đổi về tổ chức, chuẩn bị không đồng bộ, quản lý bị buông lỏng nên đã tác động tiêu cực đến kết quả. Trong 5-6 năm trở lại đây, có tới 2 lần thay đổi tổ chức về công tác dân số gây xáo trộn rất lớn trong toàn bộ hệ thống chuyên trách dân số kế hoạch hoá gia đình ở các địa phương. Kết quả là, xu hướng gia tăng tốc độ tăng dân số và việc lựa chọn giới tính thai nhi đang là nỗi lo trong xã hội; mục tiêu giảm sinh năm 2007 đã không đạt chỉ tiêu của Quốc Hội. Theo báo cáo của Bộ Y tế vào tháng 6/2008, có 39/64 tỉnh thành có mức sinh tăng mạnh như Tp. HCM tăng 30%, Hà Nội tăng 27%, Sơn La tăng 40%, Sóc Trăng tăng 41%. Trong số này số trẻ là con thứ ba tăng 17% so với cùng kỳ năm 2007.
9. Những thách thức trong lĩnh vực tài nguyên, môi trường:
Lĩnh vực BVMT gắn bó mật thiết với PTBV. Vì vậy các Bộ luật và các chính sách về tài nguyên – môi trường là một bộ phận không tách rời của quá trình phát triển. Theo thống kê của Bộ Tư pháp, Việt Nam đã ban hành khoảng 300 văn bản pháp luật BVMT. Đó là những cố gắng lớn, phát huy tác dụng tích cực trong quản lý, sử dụng tài nguyên và BVMT. Tuy nhiên, hệ thống văn bản trong lĩnh vực này còn thiếu nhiều quy định cần được xem xét và bổ sung trong bối cảnh môi trường nước ta ngày càng xuống cấp nghiêm trọng. Thiếu những văn bản về chi trả dịch vụ môi trường (PES), thiếu chính sách cụ thể khuyến khích công nghệ sản xuất sạch hơn. Các chính sách còn thiếu tính hệ thống và thiếu đồng bộ. Nhiều Bộ Luật thiếu chi tiết đòi hỏi văn bản hướng dẫn thi hành Luật dài hơn so với Luật; tính ổn định không cao vì thay đổi quá nhanh, như Nghị định 80/2006/NĐ-CP về việc quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số Điều của Luật BVMT, được ban hành năm 2006, qua 1 năm áp dụng đã phải sửa đổi, bổ sung(ngày 28/02/2008, Chính Phủ đã ban hành Nghị định số 21/2008/NĐ- CP về sửa đổi, bổ sung Nghị định 80 đối với các quy định về thời hạn và quy trình nghiệm thu báo cáo ĐTM); tác dụng răn đe của các hệ thống pháp luật thấp, chế tài xử phạt còn quá nhẹ, chỉ là những giải pháp tạm thời có tính chất cảnh cáo. Mức phạt cao nhất là 70 triệu đồng. So với chi phí để đầu tư thiết bị xử lý ô nhiễm hàng tỷ đồng, thì với mức phạt này nhiều cơ sở công nghiệp sẵn sàng nộp phạt để tiếp tục xả thải các chất thải không qua xử lý ra môi trường; 10% tổng lượng hoá chất bảo vệ thực vật dùng trong nông nghiệp không rõ xuất xứ, chủng loại và có tính độc cao vẫn tràn vào nước ta theo đường tiểu ngạch, sử dụng bừa bãi gây ô nhiễm môi trường và các vụ ngộ độc thực phẩm. Có thể đánh giá rằng, các chính sách thưởng phạt yếu, việc thực thi Luật pháp không đầy đủ và nghiêm túc làm cho các chính sách BVMT không có hiệu cao như mong đợi.
IV. NHỮNG GIẢI PHÁP CẦN THỰC HIỆN TRONG THỜI GIAN TỚI ĐỂ TIẾP TỤC THỰC HIỆN CTNS21
Định hướng Chiến lược PTBV quốc gia cần phải được thực hiện thông qua hàng loạt chính sách, chương trình, dự án và biện pháp cụ thể ở quy mô toàn quốc. Tất cả các hoạt động như xây dựng thể chế, truyền thông và giáo dục cho toàn dân, đào tạo và nâng cao năng lực quản lý PTBV cho cán bộ, cho các tổ chức tham gia CTNS21 đều phải được tiếp tục mở rộng quy mô hoạt động và tăng hiệu quả của tác động. Cụ thể:
1. Các cơ quan lãnh đạo và điều phối hoạt động PTBV là Hội đồng PTBV quốc gia và văn phòng PTBV phải được tổ chức tốt để hoạt động tích cực, định hướng và chỉ đạo có hiệu quả sự phối hợp hoạt động giữa các ngành, các địa phương nhằm đảm bảo sự kết hợp hài hoà giữa tăng trưởng kinh tế nhanh với phát triển xã hội và BVMT. Trong bối cảnh hiện nay các cơ quan điều phối hoạt động PTBV phải ý thức được vấn đề lồng ghép các quy hoạch phát triển và các chính sách và hướng dẫn các ngành, các địa phương lập quy hoạch của riêng mình với vấn đề biến đổi khí hậu toàn cầu.
2. Để đưa Định hướng PTBV vào thực tiễn cuộc sống, sự hỗ trợ từ bên ngoài về tài chính, kinh nghiệm, tài liệu, phương pháp tiến hành, đào tạo nguồn nhân lực là cực kỳ quan trọng nên phải có giải pháp để thu hút sự hỗ trợ tối đa của các tổ chức Quốc tế, hoặc dưới dạng các Hiệp định đa phương, song phương. Phải đặt vấn đề hội nhập vào trào lưu quốc tế, một mặt tranh thủ sự giúp đỡ, nhưng mặt khác để các Liên doanh, các Dự án 100% vốn nước ngoài phải tôn trọng tính truyền thống về PTBV của nước ta và thiết thực đóng góp vào tiến trình thực thi CTNS21 của Việt Nam, tránh không để hiện tượng Công ty Vedan và Miwon lặp lại lần nữa.
3. Đẩy mạnh công tác giáo dục, truyền thông nhằm nâng cao nhận thức của mọi người về PTBV. Đặc biệt phải làm cho PTBV trở thành cách suy nghĩ của mọi cơ quan và tất cả những người chịu trách nhiệm lập kế hoạch và quản lý sự PTBV ở các cấp. Cách tiếp cận PTBV phải được cụ thể hoá thành các chính sách, biện pháp, tổ chức bộ máy thích hợp và có những công cụ hành chính, kinh tế, tài chính phù hợp để thực hiện. Làm tốt công tác giáo dục, truyền thông đồng nghĩa với việc hình thành phong trào tham gia của các tầng lớp nhân dân vào quá trình ra quyết định phương hướng phát triển, thực hiện và giám sát việc thực hiện các kế hoạch và quy hoạch đảm bảo các tiêu chí của PTBV.
4. Có các giải pháp đào tạo nguồn nhân lực, huy động, phân bổ và sử dụng các nguồn lực trong xã hội một cách hợp lý để các ngành, các địa phương có bộ phận chuyên trách, tích cực và chủ động xây dựng và thực hiện chương trình hành động PTBV của mình và hợp tác với nhau đảm bảo sự PTBV ở quy mô liên vùng, liên ngành và quy mô cả nước, nhằm phát huy được hiệu quả kinh tế, xã hội và môi trường cao nhất.
5. Phải nhanh chóng hình thành cơ chế theo dõi, báo cáo, giám sát, thu thập và công bố rộng rãi thông tin về quá trình thực hiện những nội dung của Định hướng chiến lược PTBV. Có những biện pháp khuyến khích và tạo cơ chế để lôi kéo cộng đồng cùng tham gia vào tiến trình thực hiện CTNS21, kiểm tra, theo dõi và đánh giá những kết quả thu được.
Hà Nội, tháng 5 năm 2009
Đề Xuất Giải Pháp Phát Triển Đô Thị Bền Vững Tại Việt Nam
TÓM TẮT:
Đô thị bền vững là một đô thị được phát triển dựa trên cơ sở bền vững của các yếu tố chính trị, văn hóa, xã hội, môi trường và kinh tế. Dân cư hiện tại và những thế hệ tương lai đều được tận hưởng bản sắc văn hóa dân tộc, lịch sử, tôn giáo, tín ngưỡng, có quyền chăm lo, bảo vệ cảnh quan và môi trường. Hiện nay ở Việt Nam, nhiều yếu tố thuận lợi thúc đẩy mọi mặt quá trình phát triển đô thị bền vững (ĐTBV). Tuy nhiên, đô thị Việt Nam còn có nhiều vấn đề bất cập cần phải nghiên cứu khắc phục. Bài viết phân tích thực trạng của đô thị Việt Nam, các hạn chế tồn tại và đưa ra các giải pháp khắc phục, nhằm phát triển các đô thị một cách bền vững.
Từ khóa: Đô thị bền vững, phát triển hài hòa, môi trường sống, qui hoạch tổng thể, cư dân đô thị.
1. Đặt vấn đề
Đô thị là một khu vực có mật độ gia tăng các công trình kiến trúc do con người xây dựng so với các khu vực xung quanh nó. Đô thị là một trung tâm dân cư đông đúc, có thể là thành phố, thị xã hay thị trấn (1). Trong một đô thị, có ba loại hình môi trường khác nhau cùng tồn tại: môi trường vật chất (tự nhiên và xây dựng), môi trường kinh tế và môi trường xã hội. Các ảnh hưởng xấu sinh ra từ các hoạt động kinh tế trong đô thị lên môi trường vật chất rất rõ ràng, có thể xác định là thảm họa về môi trường sinh ra từ đô thị, sự giảm sút của tài nguyên thiên nhiên, tiếng ồn, ô nhiễm nguồn nước và không khí, sự thu hẹp của các không gian xanh, tắc nghẽn giao thông và việc sử dụng quá mức năng lượng. Sự tác động giữa môi trường kinh tế và xã hội làm tăng lên các hiệu quả kể cả thuận lợi và bất lợi. Hiệu quả thuận lợi xuất phát từ các dịch vụ xã hội như giáo dục, sức khỏe, tiện nghi xã hội và những nghề nghiệp có chất lượng. Ngược lại, các yếu tố bất lợi về kinh tế có thể gây ra các hậu quả xấu về môi trường xã hội. Sự tác động thứ ba nêu lên những thuận lợi và khó khăn xuất phát từ các môi trường vật chất và xã hội. Các khu cây xanh cho sinh hoạt công cộng là nguồn môi trường tốt cho phúc lợi xã hội. Mặt khác, sự xuống cấp của các công trình lịch sử, sự mất mát của những công trình văn hóa hoặc các vấn đề về sức khỏe đô thị là những ví dụ về hậu quả của môi trường vật chất lên môi trường xã hội.
Như vậy có thể nhận thấy, bản thân đô thị đã được nhìn nhận như một “Cơ thể sống” luôn tự điều chỉnh để tồn tại và phát triển hướng tới sự “cân bằng” hay nói cách khác là “phát triển bền vững”. Sự “cân bằng” này ngoài một số các tác động bất lợi từ thiên nhiên lại bị chính con người hoặc tác động, làm biến dạng khái niệm cải tạo và phát triển đô thị.
2. Thực trạng phát triển đô thị tại Việt Nam
Tình hình phát triển đô thị tại Việt Nam trong những năm qua diễn ra quá nhanh, đã vượt quá khả năng kiểm soát của chính quyền, làm nảy sinh nhiều bất cập và hệ lụy, lãng phí và tài nguyên quốc gia, làm mất cân bằng hệ sinh thái môi trường, mất cân bằng về không gian kiến trúc, làm suy giảm các công trình kiến trúc văn hóa lịch sử và văn hóa tâm linh, văn hóa dân tộc. Tốc độ đô thị hóa quá nhanh trong thời gian qua đã làm cạn kiệt quỹ đất đô thị nhanh chóng và gây áp lực lớn lên hệ thống hạ tầng kỹ thuật…
Tính đến tháng 12/2015, cả nước có 787 đô thị, trong đó có 02 đô thị đặc biệt, 15 đô thị loại I, 25 đô thị loại II, 42 đô thị loại III, 75 đô thị loại IV và 628 đô thị loại V. (2). Về cơ bản, Việt Nam đã có định hướng về qui hoạch phát triển đô thị và qui hoạch tổng thể đô thị với tầm nhìn đến năm 2050, tạo không ít thuận lợi cho các địa phương hoạch định chiến lược phát triển lãnh thổ của mình. Nhưng trên thực tế, sự phát triển đô thị ở nhiều nơi vẫn đang gặp phải nhiều khó khăn, trở ngại trong quá trình tiến tới sự phát triển bền vững, bởi rất nhiều nguyên nhân:
2.1. Tốc độ đô thị hóa quá nhanh
Theo đánh giá của Ngân hàng Thế giới (World Bank), Việt Nam đang đô thị hóa nhanh chóng, không gian đô thị và dân số tại các đô thị tăng nhanh. Trong quá trình mở rộng đô thị tại Việt Nam, tốc độ đô thị tăng nhanh tại hai khu đô thị đặc biệt là Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh. Tốc độ mở rộng của Hà Nội là 3,8% và TP. Hồ Chí Minh là 4%. Tốc độ này lớn hơn nhiều so với tốc độ tăng trưởng các khu đô thị của các nước khác trong khu vực, trừ Trung Quốc. Nếu cứ tiếp tục tăng với tốc độ hiện nay, đến năm 2020 cả hai thành phố sẽ lớn gấp đôi so với năm 2000. Hai khu đô thị này cũng tăng trưởng nhanh hơn nhiều so với các khu đô thị khác của Việt Nam. Trong số các khu đô thị của Việt Nam có dân số hơn 500.000 người, chỉ Đà Nẵng có tỉ lệ tăng gần bằng (3,5%).
Cho đến nay, tình trạng đô thị hóa nhanh chủ yếu diễn ra ở ngoại thành Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh, Đà Nẵng, Nha Trang, Hạ Long… Đô thị hóa kéo theo tình trạng tăng vọt dân số cơ học ở khiến các thành phố này phải chịu áp lực quả tải rất nặng nề về dân số, áp lực về việc làm, cơ sở hạ tầng qua tải.
2.2. Quy hoạch không gian kiến trúc đô thị bất cập, chính sách chưa theo kịp thực tiễn.
Tuy đã có nhiều thành phố đã được phê duyệt quy hoạch đến năm 2030 tầm nhìn đến năm 2050. Tuy nhiên, do việc quy hoạch được phê duyệt còn thiếu chi tiết và cụ thể hóa, tầm nhìn chiến lược dài hạn vẫn còn nặng về yếu tố tăng trưởng, thiếu sự phối kết hợp nhịp nhàng giữa các bộ, ban ngành. Đặc biệt là thiếu cơ quan chủ quản đầu mối chịu trách nhiệm chính. Chính quyền đô thị còn nặng về yếu tố thành tích, chạy đua với tăng trưởng GDP theo kế hoạch. Hệ lụy của nó trong thời gian qua là diện tích đất nông nghiệp, đất công cộng bị thu hẹp nhanh chóng để nhường chỗ cho các khu đô thị, nhà cao tầng mọc lên trong nội thành nhanh chóng, nhiều khu tự nhiên sinh thái bị phá vỡ, ao hồ bị vùi lấp, sông suối bị thu hẹp, trường học và bệnh viện trong thành phố tăng lên…
3. Đề xuất một số giải pháp
“Phát triển bền vững phải lấy yếu tố con người làm trọng tâm, cân bằng hài hòa giữa kinh tế, xã hội, môi trường sinh thái và không gian kiến trúc. Đảm bảo mang lại lợi ích tốt nhất cho thế hệ hiện tại nhưng không làm ảnh hưởng tiêu cực đến thế hệ tương lai. Nâng cao chất lượng cuộc sống của con người về mặt xã hội, kinh tế, môi trường trong giới hạn khả năng chịu tải của các hệ sinh thái dịch vụ và cơ sở tài nguyên của môi trường, nghĩa là vẫn đảm bảo tính bền vững của môi trường” (4). Theo Luật Bảo vệ môi trường 2005 của nước ta: “Phát triển bền vững là phát triển đáp ứng được nhu cầu của các thế hệ hiện tại mà không làm tổn hại đến khả năng đáp ứng nhu cầu đó của các thế hệ tương lai trên cơ sở kết hợp chặt chẽ, hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế, bảo đảm tiến bộ xã hội và bảo vệ môi trường”.
Với quan điểm trên, thì các yếu tố tiến bộ xã hội, tăng trưởng kinh tế và quản lý môi trường là những yếu tố nền tảng cho sự phát triển đô thị bền vững. Ba yếu tố nền này có mối quan hệ mật thiết với nhau. Dựa trên thực tế thực trạng đô thị Việt Nam, cần có nhóm giải pháp nhằm phát triển đô thị Việt Nam một cách bền vững.
3.1. Phát triển đô thị phải theo định hướng quy hoạch tổng thể
Tại Quyết định số 445/QĐ-TTg ban hành ngày 07/04/2009 về phê duyệt điều chỉnh định hướng quy hoạch tổng thể phát triển hệ thống đô thị Việt Nam đến năm 2025 và tầm nhìn đến 2050, hệ thống đô thị phải:
“Phù hợp với sự phân bố và trình độ phát triển lực lượng sản xuất, với yêu cầu của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam;
– Phát triển và phân bố hợp lý trên địa bàn cả nước, tạo ra sự phát triển cân đối giữa các vùng. Coi trọng mối liên kết đô thị – nông thôn, bảo đảm chiến lược an ninh lương thực quốc gia; nâng cao chất lượng đô thị, bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống phù hợp từng giai đoạn phát triển chung của đất nước;
– Phát triển ổn định, bền vững, trên cơ sở tổ chức không gian phù hợp, sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên, đất đai, tiết kiệm năng lượng; bảo vệ môi trường, cân bằng sinh thái;
– Xây dựng đồng bộ cơ sở hạ tầng xã hội và hạ tầng kỹ thuật với cấp độ thích hợp hoặc hiện đại, theo yêu cầu khai thác, sử dụng và chiến lược phát triển của mỗi đô thị” (Điều 1, mục 1, Quyết định số 445/QĐ-TTg).
Với mục tiêu từng bước xây dựng hoàn chỉnh hệ thống đô thị Việt Nam phát triển theo mô hình mạng lưới đô thị; có cơ sở hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội phù hợp, đồng bộ, hiện đại; có môi trường và chất lượng sống đô thị tốt; có nền kiến trúc đô thị tiên tiến, giàu bản sắc; có vị thế xứng đáng, có tính cạnh tranh cao trong phát triển kinh tế – xã hội quốc gia, khu vực và quốc tế.
Đồng thời để tăng cường chất lượng đô thị việc thiết lập lại trật tự trong quản lý đất đai, quản lý đô thị.
3.2. Kiểm soát quá trình đô thị hóa đồng thời hạ tầng kỹ thuật phải đáp ứng các chỉ tiêu phát triển đô thị
Cần kiểm soát quá trình đô thị hóa nhằm “Kiểm soát quá trình đô thị hóa công tác quy hoạch xây dựng đô thị phải có giá trị thực tiễn cao, quy chế và thể chế luật lệ phải thích hợp với tình hình phát triển kinh tế – xã hội ứng với từng địa phương. Quy hoạch xây dựng, quy hoạch đô thị và quản lý đô thị phát triển là nội dung cần được ưu tiên và nâng tầm nhìn dài hạn. Các định hướng phát triển không gian lãnh thổ và còn là diễn đàn để các thành phần trong toàn xã hội tham gia đóng góp trí tuệ, vật chất và tự giác thực hiện các nội dung phát triển ở phạm vi, địa bàn của từng đô thị. (5).
Đồng thời, hạ tầng kỹ thuật đô thị phải đáp ứng :”Tại các đô thị lớn, cực lớn (đô thị đặc biệt, đô thị loại I và II) có tỷ lệ đất giao thông chiếm từ 20 – 26% đất xây dựng đô thị, các đô thị trung bình và nhỏ (đô thị loại III trở lên) chiếm từ 15 – 20% đất xây dựng đô thị; tỷ lệ vận tải hành khách công cộng ở các đô thị lớn đạt trên 50% vào năm 2025″(6).
Dân số đô thị được cấp nước sạch, các tuyến phố chính đô thị được chiếu sáng bảo đảm nước thải và chất thải rắn đô thị được thu gom và xử lý triệt để đạt tiêu chuẩn theo quy định. Đồng thời cơ sở hạ tầng thông tin và truyền thông phát triển mạnh mẽ đáp ứng yêu cầu phát triển của đô thị và hội nhập kinh tế quốc tế. “Đến năm 2025 đạt 100% chính quyền các đô thị từ loại III trở lên áp dụng chính quyền đô thị điện tử, công dân đô thị điện tử. Các chỉ tiêu hạ tầng kỹ thuật khác phải bảo đảm theo quy chuẩn xây dựng và các quy định pháp luật của Việt Nam” (6).
3.3. Phát triển đô thị dựa trên mức tăng trưởng dân số đô thị
Năm 2020, dự báo dân số đô thị cả nước khoảng 44 triệu người, chiếm 45% dân số đô thị cả nước; năm 2025, dân số đô thị khoảng 52 triệu người, chiếm 50% dân số đô thị cả nước. Do đó, việc phát triển hạ tầng kỹ thuật đô thị quốc gia qui hoạch dựa trên dự báo mức tăng trường dân số đô thị. “Cần tập trung nguồn lực quốc gia để xây dựng mới hoặc cải tạo nâng cấp các công trình đầu mối hạ tầng kỹ thuật mang tính chất vùng hoặc liên vùng như các tuyến đường bộ, đường sắt, hệ thống cảng hàng không, cảng biển trong đó có các tuyến đường bộ, đường sắt cao tốc Bắc – Nam, xây dựng mới các tuyến nhánh nối các đô thị với các vùng đô thị hóa cơ bản và các hành lang biên giới, ven biển, hải đảo” (6).
Trong từng vùng lãnh thổ phải cân đối việc cấp năng lượng, cấp nước, giao thông, thông tin và truyền thông, thoát nước mặt, nước bẩn, vệ sinh môi trường, đáp ứng yêu cầu và mức độ phát triển của vùng và của đô thị.
Cải tạo và xây dựng mới cơ sở hạ tầng kỹ thuật trong các đô thị theo hướng đồng bộ, hiện đại tùy theo yêu cầu và mức độ phát triển của từng đô thị. Chống lũ, lụt từ xa cho các đô thị; kết hợp quy hoạch tổng thể phát triển thủy lợi, thủy điện trên các lưu vực sông, trong đó khai thác và vận hành hiệu quả các công trình thủy lợi, thủy điện đầu nguồn.
3.4. Xây dựng nền hành chính trong sạch
Đặt lợi ích của người dân trên hết, luôn lắng nghe và tiếp thu ý kiến của người dân để xây dựng nên một nền hành chính dân sự chỉ có duy nhất một mục tiêu là vì dân phục vụ. Có trách nhiệm khi sử dụng tiền thuế của người dân vào mục tiêu xây dựng nhà nước và phục vụ nhân dân vì mục tiêu phát triển. Chính sách quản lý đất đai và quy hoạch của nhà nước phải được minh bạch và công bố rộng rãi để người dân cùng tham gia góp ý và giám sát nhằm hạn chế được tối đa tiêu cực trong quy hoạch và xây dựng. Cần xây dựng nên một nền hành chính công minh bạch, có kỹ cương tôn chỉ luật phát cao. Đẩy mạnh công tác thông tin tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật nâng cao nhận thức của cộng đồng về phát triển đô thị bền vững.
3.5. Tôn trọng môi trường thiên nhiên và lợi ích công cộng
Trong thiết kế tổng thể cần dành một quỹ đất cho công viên, cây xanh để tạo ra môi trường thân thiện với thiên nhiên và điều hòa khí hậu. Cần ngầm hóa hạ tầng như giao thông, điện nước, siêu thị nhà hàng, ga tàu bến bãi để giành lại diện tích trên cho cây xanh và công viên được nhiều hơn.
Ứng dụng công nghệ hiện đại để tạo nên một không gian kiến trúc xanh và giảm thiểu ô nhiễm. Coi trọng yếu tố môi trường, quy hoạch các ngành nghề trong thành phố thiên về các ngành dịch vụ và công nghiệp xanh, công nghiệp không khói; tận dụng công nghệ hiện đại để tạo nên không gian kiến trúc xanh. Tăng cường ứng dụng chiến lược năng lượng thấp trong các tòa nhà và thiên về năng lượng không phát thải như năng lượng gió và năng lượng mặt trời…
Bảo vệ và duy trì hệ khung thiên nhiên gồm rừng tự nhiên, rừng phòng hộ, hệ thống vườn quốc gia, cây xanh mặt nước… gắn với đặc điểm của điều kiện tự nhiên trong từng vùng và trong mỗi trường đô thị. Khai thác và sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên, đất đai, tiết kiệm năng lượng, nguồn nước, khoáng sản, rừng vào mục đích cải tạo và xây dựng đô thị. Quy hoạch cấu trúc đô thị hợp lý, đảm bảo đáp ứng các nhu cầu về chỗ ở, chỗ làm việc, đi lại, nghỉ ngơi giải trí cho người dân và toàn xã hội; bảo đảm tiêu chí đô thị xanh, sạch, đẹp.
3.6. Phát triển kiến trúc cảnh quan đô thị theo định hướng
Cần có sự kết hợp của quy hoạch dài hạn, chính sách đất đai phù hợp, có sự kiểm soát trong phát triển và thiết kế thông minh nhằm phát huy tối ưu tính năng đô thị hóa trong khi vẫn mang tính thẩm mỹ và bảo tồn.
Tổng thể kiến trúc cảnh quan của mỗi vùng và đô thị phải có bản sắc riêng, phù hợp với điều kiện kinh tế, tự nhiên, dân số – xã hội, trình độ khoa học, kỹ thuật, truyền thống văn hóa lịch sử của địa phương và các yêu cầu phát triển mới. Tổng thể kiến trúc của mỗi đô thị phải kết hợp hài hòa giữa cải tạo với xây dựng mới; đổi mới môi trường văn hóa kiến trúc truyền thống.
Hình thành bộ mặt kiến trúc cảnh quan đô thị mới hiện đại, có bản sắc, góp phần tạo nên hình ảnh đô thị tương xứng với tầm vóc đất nước của thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Đẩy mạnh công tác thiết kế đô thị nhằm nâng cao chất lượng không gian, chất lượng kiến trúc cảnh quan cho từng đô thị nói chung, không gian các khu vực trung tâm, các tuyến phố chính đô thị nói riêng, như định hướng phát triển đô thị mà Chính phủ ban hành tại QĐ số 455/QĐ-TTg.
3.7. Công tác phát triển đô thị cần nghiên cứu và vận dụng sáng tạo
Đứng trước những “Lý luận” và “Nguyên lý” mới này, trải qua khá nhiều tranh luận và thử nghiệm, các lý thuyết mới này đã được Chính quyền tại các đô thị nghiên cứu vận dụng vào thực tiễn một cách khoa học để quản lý phát triển đô thị đem lại những thành công to lớn. Cứ như vậy, quá trình cải tạo và phát triển đô thị luôn gắn liền với những nghiên cứu – thử nghiệm của các nhà khoa học và sự vận dụng sáng tạo của Chính quyền đô thị thông qua đội ngũ những người làm công tác quản lý của họ. Có thể khẳng định rằng, công tác “phát triển đô thị” hay nói theo nghĩa rộng hơn là “Quản trị đô thị” là một ngành khoa học đã tồn tại khá lâu, giúp hình thành nên các đô thị văn minh hiện đại ngày nay trên khắp thế giới.
4. Kết luận
Với lợi thế là một nước đi sau, Việt Nam nên tối ưu hóa những kinh nghiệm thực tiễn của các nước trên thế giới và thực trạng của mình với tầm nhìn dài hạn, lợi ích tổng thể, không nên đánh đổi tăng trưởng với môi trường.
Trong bối cảnh khoa học công nghệ phát triển, nguồn lực đa dạng và phong phú, Việt Nam cần thiết phải có chính sách đúng đắn và kịp thời để việc xây dựng và phát triển đô thị được bền vững, đảm bảo hài hòa lợi ích kinh tế, văn hóa xã hội, môi trường sinh thái. Kiến trúc không gian xây dựng phù hợp, bảo tồn được các giá trị công trình văn hóa di tích lịch sự, đảm bảo sự tôn vinh văn hóa dân tộc, có nét kiến trúc độc đáo và mang bản sắc riêng, đảm bảo mang lại lợi ích cao nhất cho cư dân đô thị.
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1. Wikipedia
2. Vietstock.vn
3. chúng tôi Nguyễn Thế Bá (chủ biên). Giáo trình Quy hoạch xây dựng phát triển đô thị.
4. Ngân hàng Thế giới (WB).
5. Xaydung.gov.vn
6. Quyết định số 445/QĐ-TTg, ban hành ngày 7/4/2009 về Phê duyệt điều chỉnh định hướng Quy hoạch tổng thể phát triển hệ thống đô thị Việt Nam đến năm 2025 và tầm nhìn đến năm 2050.
SOLUTIONS TO DEVELOP CITIES IN VIETNAM TOWARD THE SUSTAINABLE WAY
Master. NGUYEN VAN HIEU
ABSTRACT:
A sustianable city is a term to describe a city which is developed on a sustainable basis of political, cultural, social, environmental and economic factors. The generations of citizens living in sustainable cities could be able to experience their cultural identities, history, religions and creed. They also have rights to protect the landscape and environment of their cities. Although Vietnam has many favorable factors to promote the development of sustianable cities, urban areas in Vietnam are still facing some difficulties which must be addressed. This study is to analyze both the current situations and difficulties of cities in Vietnam, and propose some feasible solutions to sustainably develop these cities.
Keywords: Sustainable cities, harmonious development, living environment, master plan, urban citizens.
Phát Triển Bền Vững Thị Trường Bảo Hiểm Việt Nam
Tốc độ tăng trưởng doanh thu phí toàn thị trường năm 2017 duy trì trên 20%
Kết thúc giai đoạn 2011-2015, thị trường bảo hiểm Việt Nam đã đạt vượt mức hầu hết các chỉ tiêu trung hạn đề ra tại Chiến lược phát triển thị trường bảo hiểm giai đoạn 2011-2020. Cụ thể, tổng doanh thu của toàn thị trường trong giai đoạn 2011 – 2015 đạt mức tăng trưởng bình quân 16,8%/năm.
Trong đó, doanh thu phí bảo hiểm tăng bình quân 17,94%/năm; Doanh thu hoạt động đầu tư tăng bình quân 12,19%/năm; Tổng tài sản tăng bình quân 15,57%/năm; tổng các quỹ dự phòng nghiệp vụ bảo hiểm nhằm sẵn sàng đáp ứng nghĩa vụ chi trả bồi thường cho khách hàng của các doanh nghiệp bảo hiểm tăng bình quân 16,78%/năm.
Năm 2016, tốc độ tăng trưởng doanh thu phí của toàn thị trường bảo hiểm đạt 24,46% so với năm 2015; Tổng tài sản toàn thị trường ước đạt 240.507 tỷ đồng, tăng 18,72% so với năm 2015; Tổng đầu tư trở lại nền kinh tế ước đạt 192.896 tỷ đồng, tăng 20,14% so với năm 2015.
Các sản phẩm bảo hiểm được tăng cường cả về số lượng và chất lượng. Các doanh nghiệp bảo hiểm cung cấp hơn 1.187 sản phẩm bảo hiểm, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu đa dạng của khách hàng. Nhiều loại hình sản phẩm mới, bảo hiểm vì mục tiêu an sinh xã hội đã được các doanh nghiệp bảo hiểm nghiên cứu, triển khai như: Bảo hiểm liên kết đầu tư, bảo hiểm vi mô, bảo hiểm tín dụng xuất khẩu, bảo hiểm bảo lãnh, bảo hiểm hưu trí…
Bên cạnh các kênh phân phối truyền thống, các kênh phân phối mới như bảo hiểm qua ngân hàng, bán bảo hiểm qua các đối tác kinh doanh, bán hàng trực tuyến, điện thoại…. cũng được các doanh nghiệp triển khai, giúp khách hàng tiếp cận dễ dàng hơn với các sản phẩm bảo hiểm.
Năng lực tài chính, hiệu quả hoạt động và năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam được nâng cao, hầu hết các doanh nghiệp bảo hiểm đã xây dựng đầy đủ các quy trình nghiệp vụ theo quy định của pháp luật, từng bước chuẩn hoá các khâu trong hoạt động kinh doanh. Nhiều doanh nghiệp bảo hiểm đã tổ chức được hệ thống kiểm soát nội bộ hiệu quả, đầu tư phát triển hệ thống công nghệ thông tin hiện đại phục vụ cho hoạt động kinh doanh và công tác quản trị, điều hành.
Năm 2017, tình hình kinh tế thế giới khởi sắc hơn đã có tác động tích cực đến nền kinh tế trong nước. Đồng thời, Việt Nam đã thực hiện nhiều giải pháp phát triển kinh tế – xã hội, cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, góp phần nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế. Trong bối cảnh chung đó, thị trường bảo hiểm Việt Nam tiếp tục đạt được nhiều kết quả tích cực.
Dự báo cả năm 2017, tốc độ tăng trưởng doanh thu phí của toàn thị trường sẽ được duy trì ở mức trên 20%; Tổng tài sản toàn thị trường được dự báo đạt 301.346 tỷ đồng, tăng 21,96% so với năm 2016; Tổng số tiền đầu tư trở lại nền kinh tế ước đạt 246.173 tỷ đồng, tăng 26,66% so với năm 2016.
Hoàn thiện chính sách, hỗ trợ doanh nghiệp phát triển
Thị trường bảo hiểm phát triển ổn định trong những năm qua là nhờ khung khổ pháp lý trong lĩnh vực này ngày càng được hoàn thiện, góp phần tạo môi trường kinh doanh minh bạch, bình đẳng, tạo thuận lợi cho sự phát triển của thị trường bảo hiểm, đảm bảo thực hiện các cam kết quốc tế. Trong giai đoạn 2011-2015, có 31 văn bản quy phạm pháp luật được ban hành gồm các Nghị định, Quyết định của Thủ tướng Chính phủ, Thông tư của Bộ Tài chính.
Những văn bản này đã được rà soát, sửa đổi, bổ sung và ban hành mới tập trung vào các mục tiêu tháo gỡ khó khăn, hỗ trợ doanh nghiệp bảo hiểm tăng trưởng hiệu quả, tăng cường quản trị doanh nghiệp, cạnh tranh lành mạnh, đảm bảo an toàn tài chính và quyền lợi của người tham gia bảo hiểm.
Năm 2016, Chính phủ đã ban hành Nghị định 73/2016/NĐ-CP thay thế 4 Nghị định về kinh doanh bảo hiểm, kịp thời tháo gỡ những vướng mắc của doanh nghiệp, tạo hành làng pháp lý đầy đủ, minh bạch, bình đẳng và đồng bộ, đơn giản hóa các điều kiện kinh doanh, thủ tục hành chính, khơi thông nguồn vốn trong lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm, tạo thuận lợi cho sự phát triển của thị trường.
Nhằm thúc đẩy hơn nữa sự phát triển của thị trường bảo hiểm, Bộ Tài chính sẽ trình Chính phủ ban hành các Nghị định về bảo hiểm nông nghiệp, bảo hiểm vi mô, bảo hiểm cháy nổ bắt buộc và Nghị định sửa đổi bổ sung Nghị định số 98/2012/NĐ-CP nhằm tạo hành lang pháp lý hỗ trợ doanh nghiệp bảo hiểm triển khai các sản phẩm mới.
Khẳng định vai trò quan trọng trong nền kinh tế
Thị trường bảo hiểm Việt Nam ngày càng thể hiện được vai trò, vị trí trong nền kinh tế – xã hội, góp phần thực hiện thành công các giải pháp chủ yếu về chỉ đạo, điều hành thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế của đất nước. Thể hiện cụ thể như:
Một là, thị trường bảo hiểm là công cụ hữu ích bảo vệ tài chính cho các nhà đầu tư. Đến nay, bảo hiểm đã và đang bảo vệ cho hầu hết tất cả các loại hình tài sản của mọi thành phần và ngành nghề kinh tế với nhiều loại hình bảo hiểm đa dạng như bảo hiểm tài sản thiệt hại, bảo hiểm hàng không, bảo hiểm hàng hải, bảo hiểm tín dụng, bảo hiểm nông nghiệp, bảo hiểm thủy sản….
Theo thống kê của các doanh nghiệp bảo hiểm, có khoảng 80% các công trình xây dựng cơ sở hạ tầng, công trình kinh tế lớn của Nhà nước đã và đang được các doanh nghiệp bảo vệ về mặt tài chính trong trường hợp xảy ra sự kiện bảo hiểm mà không cần phải sử dụng đến nguồn kinh phí hỗ trợ thiệt hại từ ngân sách nhà nước, góp phần thực hiện chính sách tài khóa.
Hai là, bảo hiểm đã và đang góp phần bổ trợ cho các chính sách an sinh xã hội. Hiện nay có gần 10 triệu người tham gia bảo hiểm y tế, sức khỏe (trong đó có 6 triệu người tham gia bảo hiểm nhân thọ, 4 triệu người tham gia bảo hiểm phi nhân thọ); 12 triệu học sinh được bảo hiểm sức khỏe, tai nạn; 18 triệu lượt khách được bảo hiểm hàng không; trên 12 triệu lượt khách được bảo hiểm tai nạn đường sắt; 1.620 triệu lượt khách được bảo hiểm tai nạn hành khách vận chuyển đường bộ.
Những người được bảo hiểm nói trên đã có thể tự thu xếp, bảo vệ về mặt tài chính, được bảo hiểm chi trả bồi thường khi không may xảy ra tai nạn, ốm đau, mà không cần tới sự hỗ trợ tài chính từ ngân sách nhà nước. Bên cạnh đó, một số doanh nghiệp bảo hiểm và tổ chức xã hội đã triển khai bảo hiểm vi mô dành cho người có thu nhập thấp với doanh thu phí đạt 25,58 tỷ đồng, tổng số quyền lợi bảo hiểm chi trả là 3,9 tỷ đồng.
Ba là, bảo hiểm góp phần thực hiện các chương trình mục tiêu, nhiệm vụ cấp bách của Chính phủ. Việc thực hiện thí điểm bảo hiểm nông nghiệp đã được triển khai ở 20 tỉnh, thành phố và thu hút 304.017 hộ nông dân tham gia, được sự hưởng ứng cao của cả người dân và các địa phương, góp phần vào việc thực hiện chính sách tam nông của Đảng và Nhà nước. Tổng giá trị bảo hiểm của cả chương trình thí điểm là 7.747,9 tỷ đồng, tổng số tiền bồi thường bảo hiểm là 712,9 tỷ đồng.
Bốn là, bảo hiểm là kênh huy động vốn hữu hiệu cho nền kinh tế. Tính đến hết năm 2016, tổng nguồn vốn đầu tư trở lại nền kinh tế của các doanh nghiệp bảo hiểm ước đạt 194.374 tỷ đồng, góp phần bổ sung nguồn vốn đầu tư dài hạn ổn định cho nền kinh tế.
Trong đó, tổng số tiền đầu tư của các doanh nghiệp bảo hiểm vào trái phiếu chính phủ ước đạt gần 97.900 tỷ đồng, với 90% là trái phiếu chính phủ dài hạn, góp phần thực hiện thành công các kế hoạch phát hành trái phiếu chính phủ, ổn định kinh tế vĩ mô.
Năm là, thị trường bảo hiểm phát triển đã thúc đẩy hội nhập, hợp tác kinh tế quốc tế. Trong các hiệp định tự do hoá thương mại song phương và đa phương, lĩnh vực bảo hiểm luôn cam kết với lộ trình và mức độ mở cửa thị trường cao, tạo điều kiện thúc đẩy hàng hoá Việt Nam thâm nhập vào các thị trường lớn có mức độ bảo hộ cao như Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản…
Đảm bảo thị trường bảo hiểm phát triển bền vững
Sự tăng trưởng kinh tế và các chính sách hỗ trợ phát triển thị trường dịch vụ của Chính phủ trong thời gian sắp tới sẽ góp phần thúc đẩy sự phát triển và hoàn thiện của thị trường bảo hiểm. Mức độ thâm nhập của bảo hiểm hiện nay mới chỉ đạt 2,44% so với GDP thấp hơn so với mức trung bình của khối ASEAN (3,55%), châu Á (5,37%) và mức trung bình thế giới (6,3%). Đặc biệt, một số lĩnh vực như bảo hiểm thiên tai, bảo hiểm tài sản công, bảo hiểm xuất nhập khẩu, bảo hiểm nhân thọ, bảo hiểm sức khỏe… tiềm năng của thị trường vẫn chưa được khai thác hết.
Bên cạnh những cơ hội, thị trường bảo hiểm cũng phải đối mặt với nhiều thách thức như: Nền kinh tế Việt Nam chưa thực sự ổn định; thảm họa, thiên tai xảy ra với tần suất ngày càng lớn; rủi ro bảo hiểm diễn ra nhiều, khó lường, số lượng ngày càng tăng… gây ra những ảnh hưởng bất lợi cho hoạt động kinh doanh bảo hiểm. Những thay đổi của cuộc Cách mạng 4.0 và xu thế hội nhập sâu rộng của kinh tế toàn cầu đòi hỏi các doanh nghiệp phải nâng cao hơn nữa năng lực quản trị, hiệu quả kinh doanh và khả năng tài chính.
Phát huy kết quả đạt được của thị trường bảo hiểm Việt Nam trong những năm qua, để đảm bảo sự phát triển bền vững của thị trường bảo hiểm, thời gian tới cần triển khai đồng bộ các giải pháp sau:
Thứ nhất, hoàn thiện hệ thống pháp luật: Cần nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung Luật Kinh doanh bảo hiểm một cách tổng thể theo hướng hệ thống pháp luật mới sẽ có phạm vi điều chỉnh rộng hơn và đồng bộ hơn hoạt động kinh doanh bảo hiểm trong mối liên kết với các mảng thị trường dịch vụ tài chính, đảm bảo thực hiện có hiệu quả các cam kết quốc tế về dịch vụ bảo hiểm.
Thứ hai, nâng cao hiệu quả hoạt động và năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp bảo hiểm. Xây dựng bộ tiêu chuẩn về đánh giá, xếp loại doanh nghiệp; ban hành các quy định về quản trị rủi ro doanh nghiệp, tiêu chuẩn, vị trí chức danh quản trị điều hành, các yêu cầu đối với hệ thống công nghệ thông tin làm cơ sở để các doanh nghiệp bảo hiểm chuẩn hóa hoạt động, nâng cao khả năng quản trị, điều hành, năng lực tài chính, chất lượng dịch vụ, từ đó nâng cao hiệu quả hoạt động và năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.
Thứ ba, đa dạng và chuyên nghiệp hóa các kênh phân phối bảo hiểm, tăng cường chất lượng và tính chuyên nghiệp của đội ngũ đại lý bảo hiểm, đồng thời phát huy việc áp dụng công nghệ, kỹ thuật số vào việc giới thiệu và bán các sản phẩm bảo hiểm, tăng cường sự minh bạch và khả năng tiếp cận các sản phẩm bảo hiểm của khách hàng.
Thứ tư, đổi mới phương thức quản lý giám sát, tăng cường hiệu quả quản lý nhà nước về kinh doanh bảo hiểm. Công tác quản lý, giám sát cần được đổi mới theo hướng kết hợp linh hoạt giữa quản lý, giám sát từ xa và kiểm tra tại chỗ, tăng cường đối thoại với doanh nghiệp.
Hoạt động quản lý giám sát chuyển dần mô hình sang quản lý giám sát dựa trên cơ sở rủi ro, đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, chuyển các hoạt động quản lý, giám sát từ kiểm tra trước sang kiểm tra sau (hậu kiểm), tăng cường tính chủ động, trách nhiệm của doanh nghiệp trong hoạt động quản trị điều hành, sử dụng và quản lý nguồn vốn, phù hợp với quy mô, phạm vi và đặc thù kinh doanh của từng doanh nghiệp.
Nguồn: tapchitaichinh.vn
Bạn đang đọc nội dung bài viết Làm Gì Để Phát Triển Năng Lượng Bền Vững Tại Việt Nam? trên website Photomarathonasia.com. Hy vọng một phần nào đó những thông tin mà chúng tôi đã cung cấp là rất hữu ích với bạn. Nếu nội dung bài viết hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!