Đề Xuất 3/2023 # Hội Đồng Tư Vấn Thuế Phường…: Nhiệm Vụ, Quyền Hạn.. Của Hội Đồng Tư Vấn Thuế # Top 9 Like | Photomarathonasia.com

Đề Xuất 3/2023 # Hội Đồng Tư Vấn Thuế Phường…: Nhiệm Vụ, Quyền Hạn.. Của Hội Đồng Tư Vấn Thuế # Top 9 Like

Cập nhật nội dung chi tiết về Hội Đồng Tư Vấn Thuế Phường…: Nhiệm Vụ, Quyền Hạn.. Của Hội Đồng Tư Vấn Thuế mới nhất trên website Photomarathonasia.com. Hy vọng thông tin trong bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu ngoài mong đợi của bạn, chúng tôi sẽ làm việc thường xuyên để cập nhật nội dung mới nhằm giúp bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.

Hội đồng tư vấn thuế có nhiệm vụ tư vấn cho Chi cục Thuế về mức thuế của các hộ kinh doanh trên địa bàn, bảo đảm đúng pháp luật, dân chủ, công khai, công bằng, hợp lý. Các nhiệm vụ cụ thể như sau:

1. Tư vấn về mức doanh thu dự kiến, mức thuế dự kiến của hộ kinh doanh nộp thuế ổn định đầu năm gồm hộ kinh doanh thuộc diện không phải nộp thuế giá trị gia tăng, không phải nộp thuế thu nhập cá nhân; hộ kinh doanh thuộc diện phải nộp thuế.

2. Tư vấn về mức doanh thu dự kiến, mức thuế dự kiến của hộ kinh doanh mới ra kinh doanh; hộ kinh doanh có thay đổi về hoạt động kinh doanh trong năm.

3. Tư vấn về mức thuế miễn, giảm đối với hộ kinh doanh.

Điều 6. Quyền hạn của Hội đồng tư vấn thuế

2. Yêu cầu Đội thuế liên xã, phường, thị trấn cung cấp thông tin về tình hình quản lý thu thuế đối với hộ kinh doanh trên địa bàn.

Điều 7. Trách nhiệm của Chủ tịch Hội đồng tư vấn thuế

1. Quyết định chương trình, kế hoạch công tác của Hội đồng tư vấn thuế.

2. Mời đại biểu, triệu tập các thành viên và chủ trì các cuộc họp của Hội đồng tư vấn thuế.

3. Phân công các thành viên Hội đồng tư vấn thuế theo dõi từng việc cụ thể.

4. Quyết định và chịu trách nhiệm chung về hoạt động của Hội đồng tư vấn thuế và thành viên Hội đồng tư vấn thuế trong quá trình thực hiện nhiệm vụ theo quy định.

5. Báo cáo bằng văn bản với Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp huyện và Chi cục trưởng Chi cục Thuế trong trường hợp cá nhân hoặc các thành viên khác không thể tiếp tục tham gia Hội đồng tư vấn thuế.

6. Ký các văn bản, tài liệu giao dịch nhân danh Hội đồng tư vấn thuế.

Điều 8. Trách nhiệm của thành viên Hội đồng tư vấn thuế

1. Trách nhiệm chung của các thành viên Hội đồng tư vấn thuế

a) Triển khai công việc theo sự phân công của Chủ tịch Hội đồng tư vấn thuế và chịu trách nhiệm trước Chủ tịch Hội đồng tư vấn thuế về kết quả công việc được phân công.

b) Bố trí tham gia đầy đủ các hoạt động của Hội đồng tư vấn thuế.

c) Trình bày ý kiến tại cuộc họp hoặc bằng văn bản.

d) Báo cáo bằng văn bản với Chủ tịch Hội đồng tư vấn thuế trong trường hợp không thể tiếp tục tham gia Hội đồng tư vấn thuế.

2. Trách nhiệm của Thành viên thường trực Hội đồng tư vấn thuế

a) Đề xuất xây dựng chương trình, kế hoạch công tác của Hội đồng tư vấn thuế và dự kiến phân công nhiệm vụ cho các thành viên để Chủ tịch Hội đồng tư vấn thuế xem xét, quyết định.

b) Chuẩn bị tài liệu, ghi biên bản trong các cuộc họp và tổng hợp ý kiến tham gia của các thành viên Hội đồng tư vấn thuế.

c) Báo cáo Chủ tịch Hội đồng tư vấn thuế và Chi cục trưởng Chi cục thuế trong trường hợp phải thay đổi, bổ sung thành viên Hội đồng tư vấn thuế.

Luật Sư Tư Vấn Báo Cáo Thuế

Vì vậy, nếu thiếu đi sự chuyên nghiệp thì dù chỉ một sai sót rất nhỏ cũng có thể mang đến những hậu quả khó lường, ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển của doanh nghiệp. Doanh nghiệp phải tốn nhiều thời gian, nguồn lực để giải quyết những vấn đề này nhưng không mang lại hiệu quả. Chính vì điều đó, các nhà tư vấn thuế, kế toán chuyên nghiệp có thể giúp doanh nghiệp loại bỏ hầu hết tình trạng thiếu chắc chắn và nhầm lẫn quanh việc áp dụng các chuẩn mực kế toán và các thông lệ báo cáo, và giúp doanh nghiệp đạt được những kết quả mong muốn.

Luật sư tư vấn báo cáo thuế – Giải pháp tối ưu cho doanh nghiệp

Công ty Luật Giải Pháp Việt có nhiều kinh nghiệm tư vấn báo cáo thuế và tài chính cho doanh nghiệp cũng như trong việc hoạch định chiến lược, phát triển tổ chức, nâng cao hiệu suất, thiết kế mô hình kinh doanh, xây dựng hệ thống bán hàng. Chúng tôi tư vấn báo cáo thuế cho nhiều doanh nghiệp trong và ngoài nước với những giải pháp mang tính thực tiễn cao nhất để đảm bảo hồ sơ kế toán, báo cáo quyết toán thuế của doanh nghiệp phù hợp với quy định của pháp luật về thuế. Đồng thời, giúp doanh nghiệp tiết giảm thời gian và chi phí, giảm thiểu rủi ro sai sót của số liệu. Bên cạnh đó, chúng tôi còn hỗ trợ rà soát hồ sơ quyết toán thuế nhằm kiểm tra và soát xét kế toán. Với mục đích thực hiện các điều chỉnh cần thiết để sổ sách kế toán và các báo cáo kế toán phù hợp theo đúng quy định của pháp luật.

Nội dung luật sư tư vấn báo cáo thuế của Công ty Luật Giải Pháp Việt

Cách tiếp cận của Giải Pháp Việt luôn bắt đầu bằng việc nhận dạng đúng các vấn đề khách hàng đang gặp phải. Sau đó, các Luật sư, chuyên viên theo từng dự án sẽ cùng nhau làm việc để đưa ra các giải pháp thiết thực và hiệu quả nhất cho việc giải quyết các vấn đề của khách hàng. Đồng thời, dựa vào kết quả rà soát về sổ sách chứng từ kế toán, chúng tôi sẽ tư vấn giúp doanh nghiệp bổ sung hoàn thiện chứng từ kế toán, sổ sách kế toán và bộ hồ sơ quyết toán thuế cũng như điều chỉnh lại phù hợp với quy định của luật thuế hiện hành trước khi Cơ quan thuế thanh tra, đáp ứng yêu cầu của doanh nghiệp là tối ưu hóa số thuế phải nộp trong khuôn khổ pháp luật. Ngoài tư vấn báo cáo thuế, chúng tôi còn hỗ trợ và tư vấn cho doanh nghiệp những nội dung như:

– Luật sư tư vấn, hướng dẫn doanh nghiệp tổng hợp và lập các báo cáo tài chính;

– Luật sư tư vấn quy trình soát xét báo cáo kế toán – tài chính cho doanh nghiệp;

– Luật sư tư vấn, hỗ trợ doanh nghiệp rà soát lại các Báo cáo thuế tháng – quí – năm;

– Luật sư tư vấn, hỗ trợ doanh nghiệp rà soát lại sổ sách kế toán;

– Luật sư tư vấn, hướng dẫn thiết kế, triển khai và hỗ trợ vận hành hệ thống kế toán cho doanh nghiệp;

– Luật sư tư vấn hệ thống kế toán tính giá thành;

– Luật sư tư vấn, hỗ trợ lập sổ sách kế toán cho doanh nghiệp.

Tin chắc rằng khách hàng được hưởng nhiều lợi ích từ nguồn kiến thức sâu rộng của đội ngũ luật sư trong lĩnh vực tư vấn báo cáo thuế của Chúng tôi. Tuỳ vào tình huống cụ thể mà chúng tôi sẽ đưa ra các giải pháp mang tính thực tiễn cao nhất cho khách hàng. Quý khách hàng chưa rõ, cần hỗ trợ vui lòng liên hệ Công ty Luật TNHH Giải Pháp Việt.

Chức Năng Và Nhiệm Vụ Của Đội Quản Lý Thuế Xã, Phường/Liên Xã Phường Thuộc Chi Cục Thuế

Chức năng và nhiệm vụ của đội Quản lý thuế xã, phường/liên xã phường thuộc Chi cục thuế quy định tại Mục 9 Quyết định 245/QĐ-TCT năm 2019, cụ thể như sau:

Giúp Chi cục trưởng Chi cục Thuế quản lý thu thuế các tổ chức (nếu có), cá nhân nộp thuế trên địa bàn xã, phường được phân công (bao gồm các hộ sản xuất kinh doanh công thương nghiệp và dịch vụ, kể cả hộ nộp thuế thu nhập cá nhân; thuế sử dụng đất phi nông nghiệp, thuế sử dụng đất nông nghiệp, thuế tài nguyên…); Thực hiện dự toán thu thuế đối với đối tượng được giao quản lý.

Nhiệm vụ cụ thể:

9.1. Xây dựng chương trình, kế hoạch công tác quản lý thuế đối với người nộp thuế trên địa bàn được phân công;

9.2. Nắm tình hình sản xuất kinh doanh trên địa bàn; lập danh sách và sơ đồ quản lý người nộp thuế; trình lãnh đạo Chi cục Thuế kiến nghị cơ quan cấp Đăng ký kinh doanh thu hồi các giấy phép kinh doanh đã cấp nhưng người nộp thuế không kinh doanh, địa chỉ không rõ ràng hoặc đã ngừng, nghỉ theo quy định;

9.3. Thực hiện khảo sát doanh thu, ổn định doanh thu thuế với trường hợp khoán ổn định đối với người nộp thuế thuộc phạm vi quản lý của Đội theo quy định của pháp luật; Thực hiện lập bộ thuế sử dụng đất phi nông nghiệp, lập bộ thuế hộ khoán;

9.4. Tiếp nhận tờ khai đăng ký thuế, tờ khai thuế, hồ sơ miễn thuế, giảm thuế (nếu có) chuyển Đội Kê khai – Kế toán thuế – Tin học xử lý; tiếp nhận thông báo ngừng nghỉ kinh doanh, văn bản đề nghị miễn giảm thuế của các hộ kinh doanh trên địa bàn thuộc phạm vi quản lý của Đội chuyển Đội Kê khai – Kế toán thuế – Tin học xử lý;

9.5. Thực hiện kiểm tra, đối chiếu xác minh hóa đơn và trả lời kết quả xác minh hóa đơn theo quy định; xử lý và kiến nghị xử lý vi phạm về quản lý và sử dụng hóa đơn, sai phạm về thuế theo kết quả xác minh hóa đơn; tổ chức kiểm tra việc chấp hành các quy định về quản lý, sử dụng biên lai, ấn chỉ thuế của các tổ chức (nếu có), cá nhân nộp thuế trên địa bàn xã, phường được phân công;

9.6. Đôn đốc việc kê khai, nộp thuế của hộ kinh doanh cá thể thuộc địa bàn quản lý; ấn định thuế đối với người nộp thuế theo phương pháp kê khai trong trường hợp không nộp tờ khai thuế, khai thuế không đủ căn cứ, không đúng thực tế phát sinh mà người nộp thuế không giải trình được;

9.7. Phát hiện, phối hợp với Đội Kiểm tra thuế theo dõi, quản lý thu đối với cơ sở xây dựng tư nhân vãng lai, cá nhân cho thuê tài sản thuộc địa bàn quản lý;

9.8. Thực hiện công khai thuế theo quy định; phát thông báo thuế đến người nộp thuế theo quy định;

9.9. Thực hiện phân loại nợ, quản lý nợ, đôn đốc thu tiền thuế nợ, tiền phạt, tiền chậm nộp; chủ trì, phối hợp với Đội Quản lý nợ và cưỡng chế nợ thuế thực hiện cưỡng chế thu tiền thuế nợ, tiền phạt, tiền chậm nộp đối với người nộp thuế thuộc phạm vi quản lý của Đội Quản lý thuế xã, phường/liên xã phường;

9.10. Đề xuất ủy nhiệm thu đối với từng địa bàn đặc thù và đôn đốc ủy nhiệm thu thực hiện thu nộp thuế theo đúng quy định; giám sát công tác ủy nhiệm thu, phát hiện kịp thời các dấu hiệu vi phạm để uốn nắn; đôn đốc ủy nhiệm thu thu đúng, thu đủ và nộp kịp thời vào Ngân sách, chống lạm thu, chống nợ đọng thuế (nếu có) đối với Người nộp thuế thuộc địa bàn quản lý;

9.11. Phối hợp với Đội Kiểm tra thuế tham gia kiểm tra người nộp thuế, các tổ chức được ủy nhiệm thu thuế trong việc chấp hành pháp luật thuế, các quyết định hành chính thuế theo quy định của pháp luật;

9.12. Xử lý hoặc đề nghị xử lý các hành vi vi phạm trong lĩnh vực thuế của người nộp thuế, các tổ chức, cá nhân được ủy nhiệm thu thuế;

9.13. Nhận và thực hiện dự toán thu ngân sách của người nộp thuế thuộc Chi cục Thuế trực tiếp quản lý đối với các khoản thu do Đội quản lý

9.14. Tổ chức công tác bảo quản, lưu trữ hồ sơ nghiệp vụ và các văn bản pháp quy của Nhà nước thuộc lĩnh vực quản lý của Đội;

9.15. Thực hiện các nhiệm vụ khác do Chi cục trưởng Chi cục Thuế giao.

Ban biên tập phản hồi thông tin đến bạn.

Luận Văn: Giám Sát Của Hội Đồng Nhân Dân Phường Quận Đống Đa

Published on

Download luận văn thạc sĩ ngành luật hiến pháp với đề tài: Giám sát của Hội đồng nhân dân phường từ thực tiễn quận Đống Đa – Thành phố Hà Nội, cho các bạn làm luận văn tham khảo

1. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN PHÚ BÌNH GIÁM SÁT CỦA HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN PHƯỜNG TỪ THỰC TIỄN QUẬN ĐỐNG ĐA, THÀNH PHỐ HÀ NỘI Chuyên ngành: Luật Hiến pháp và Luật hành chính Mã số : 60.38.01.02 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: chúng tôi Thái Vĩnh Thắng Hà Nội, 2016

2. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi. Các số liệu nêu trong luận văn này là trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác. TÁC GIẢ LUẬN VĂN Nguyễn Phú Bình

3. LỜI CẢM ƠN Để hoàn thiện luận văn, tôi đã nhận được sự giúp đỡ nhiệt tình của các thầy cô, bạn học và đồng nghiệp. Nhân dịp này cho tôi được gửi lời cảm ơn chân thành tới các thầy cô giáo tham gia giảng dạy, công tác tại Học viện Khoa học xã hội – nơi tôi đã học tập; cảm ơn các bạn bè và đồng nghiệp, những người đã cung cấp nhiều số liệu cho tôi. Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành của mình tới thầy giáo, giáo sư, tiến sĩ Thái Vĩnh Thắng đã tận tình hướng dẫn khoa học, giúp đỡ tôi trong quá trình hoàn thiện Luận văn này. TÁC GIẢ LUẬN VĂN Nguyễn Phú Bình

4. MỤC LỤC MỞ ĐẦU …………………………………………………………………………………………………….1 Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ VỀ HOẠT ĐỘNG GIÁM SÁT CỦA HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN PHƯỜNG……………………………………………………8 1.1. Địa vị pháp lý và chức năng của Hội đồng nhân dân phường………………..8 1.2. Khái niệm, đặc điểm, vai trò hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân phường……………………………………………………………………………………………13 Chương 2. THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG GIÁM SÁT CỦA HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN PHƯỜNG TẠI QUẬN ĐỐNG ĐA – THÀNH PHỐ HÀ NỘI ……35 2.1. Khái quát điều kiện tự nhiên, tình hình kinh tế xã hội quận Đống Đa và cơ cấu tổ chức của hội đồng Nhân dân các phường trong Quận Đống Đa……..35 2.2. Hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân các phường trong nhiệm kỳ 2011 – 2016…………………………………………………………………………………………..39 2.3. Vấn đề bảo đảm cho hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân phường………………………………………………………………………………………………….48 2.4. Những hạn chế trong hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân phường………………………………………………………………………………………………….49 Chương 3. QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG HIỆU QUẢ GIÁM SÁT CỦA HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN PHƯỜNG…………………………………54 3.1. Quan điểm tăng cường hiệu quả giám sát của Hội đồng nhân dân phường………………………………………………………………………………………………….54 3.2. Giải pháp tăng cường hiệu quả giám sát của Hội đồng nhân dân phường………………………………………………………………………………………………….58 KẾT LUẬN …………………………………………………………………………………………………73 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO……………………………………………………….75

5. DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam Chủ nghĩa xã hội Quốc hội Hội đồng nhân dân Ủy ban hành chính Ủy ban nhân dân Mặt trận tổ quốc Tòa án nhân dân Viện kiểm sát nhân dân CHXHCNVN CNXH QH HĐND UBHC UBND MTTQ TAND VKSND

6. PHỤ LỤC Phụ lục 1: Bảng thống kê số lượng và cơ cấu thành phần đại biểu Hội đồng nhân dân 21 phường – nhiệm kỳ 2011-2016. Phụ lục 2: Bảng thống kê số lượng đại biểu và kết quả lấy phiếu tín nhiệm theo nghị quyết 35/2012/QH13 của Quốc hội.

7. 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Đất nước Việt Nam với bốn ngàn năm lịch sử, trải qua các chế độ xã hội khác nhau với hai tầng lớp xã hội chính là tầng lớp thống trị và tầng lớp bị trị. Đa số người dân lao động thuộc tầng lớp bị áp bức bóc lột, họ không có hoặc có rất ít địa vị trong xã hội. Họ sản xuất ra phần lớn của cải vật chất nuôi sống xã hội nhưng lại không có quyền định đoạt việc phân chia của cải đó, không có tiếng nói trong đời sống chính trị và được coi như những tầng lớp thấp kém trong xã hội. Cách mạng tháng 8 năm 1945 thành công; nước Việt Nam thoát khỏi ách đô hộ hơn tám mươi năm của thực dân Pháp và chế độ phong kiến kéo dài hàng ngàn năm. Nước Việt Nam trở thành Nhà nước công nông đầu tiên ở khu vực Đông Nam châu Á, là Nhà nước dân chủ cộng hòa; “tất cả quyền bính trong nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam, không phân biệt nòi giống, gái trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo” [13, Điều 1]. Để thực sự làm chủ hệ thống chính quyền, ngay từ khi mới ra đời, Nhà nước ta đã ban hành nhiều văn bản pháp luật về quyền làm chủ của nhân dân; đó là: Sắc lệnh số 63 ngày 22 tháng 11 năm 1945 về tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban hành chính xã, huyện, tỉnh, kỳ; Sắc lệnh số 77 ngày 21 tháng 12 năm 1945 về tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban hành chính Thành phố, khu phố. Hiến pháp Việt Nam các năm 1946; 1959; 1980; 1992; Hiến pháp 2013 đều có các quy định về quyền làm chủ của nhân dân đối với chính quyền và được cụ thể bằng các văn bản: Luật chính quyền địa phương 1958, Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban hành chính các cấp 1962; Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân 1983 (sửa đổi bổ sung 1989); Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân 1994 (sửa đổi bổ sung 2003); Quy chế hoạt động của Hội đồng nhân dân ban hành kèm theo nghị quyết số 753/2005/NQ-UBTVQH 11 ngày 02/4/2005 và gần đây nhất là

8. 2 Luật tổ chức chính quyền địa phương 2015 đã tạo lập khuôn khổ pháp lý cho việc xây dựng, hoàn thiện, tổ chức hệ thống Hội đồng nhân dân các cấp và thực hiện quyền quản lý, quyền làm chủ của nhân dân đối với chính quyền. Trải qua hơn 70 năm hình thành và phát triển, có cả những bước thụt lùi, hệ thống tổ chức của Hội đồng nhân dân các cấp ở nước ta ngày càng được hoàn thiện. Ngày càng thể hiện tốt chức năng, vai trò của mình và là bộ phận quan trọng nhất của chính quyền địa phương. Hội đồng nhân dân các cấp đã thực sự đại diện cho ý chí nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân, là cơ quan quyền lực Nhà nước ở địa phương Từ thực tiễn công tác thời gian qua cộng thêm qua các kênh thông tin chính thống khác cho thấy, vai trò của Hội đồng nhân dân các cấp ngày càng được coi trọng và nâng cao. Hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân có vị trí vai trò hết sức quan trọng trong hoạt động công tác của Hội đồng nhân dân nói chung, đảm bảo Hội đồng nhân dân thực sự là cơ quan quyền lực Nhà nước tại địa phương, thể hiện nguyên tắc quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân. Thực hiện tốt chức năng giám sát là góp phần nâng cao vị thế, vai trò của Hội đồng nhân dân trong bộ máy chính quyền địa phương. Tổng kết nhiệm kỳ 2011-2016 vừa qua, Hội đồng nhân dân phường trong Quận Đống Đa đã tiến hành giám sát tại kỳ họp, giám sát giữa hai kỳ họp của thường trực Hội đồng nhân dân, của các tổ đại biểu Hội đồng nhân dân, các vị đại biểu Hội đồng nhân dân và các cuộc giám sát theo chuyên đề. Hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân các phường đã đạt được những hiệu quả và kết quả nhất định. Các chủ thể giám sát đã đưa ra được nhiều kiến nghị quan trọng, góp phần nâng cao hiệu quả quản lý Nhà nước, nâng cao năng lực điều hành của cơ quan hành chính Nhà nước là Ủy ban nhân dân phường; được cử tri ghi nhận và đánh giá cao. Tuy nhiên bên cạnh những kết quả đã đạt được, hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân các phường còn có những hạn chế như: nhiều cuộc giám sát chỉ mang tính hình thức, chỉ nghe báo cáo rồi báo cáo lại, giám sát chưa

9. 3 sâu, hiệu quả chưa cao dẫn đến kiến nghị còn chung chung. Công tác kiểm tra sau giám sát còn chưa hiệu quả (kiến nghị xong để đấy). Đặc biệt việc giám sát chuyên đề là 1 công tác rất khó khăn với Hội đồng nhân dân cấp phường vì nó đòi hỏi phải đi sâu nghiên cứu, tìm hiểu chi tiết về lĩnh vực chuyên môn mới có thể ra chỗ đúng, chỗ sai, mới chỉ đúng, chỉ trúng công việc. Một ví dụ cụ thể là việc giám sát chuyên đề của Thường trực Hội đồng nhân dân phường đối với Ủy ban nhân dân phường về công tác tài chính và thu chi ngân sách. Đây là 1 công việc rất khó khăn vì nếu chỉ làm hình thức qua loa thì không có hiệu quả, không có tác dụng; nhưng nếu không nắm được các nguyên tắc nghiệp vụ tài chính thì việc giám sát quá kỹ thì lại thành can thiệp sâu, lấn sân vượt thẩm quyền của cơ quan chuyên môn và có thể là xung đột …. Vì vậy đối với Hội đồng nhân dân cấp phường việc giám sát theo chuyên đề trong cả nhiệm kỳ là rất ít.[8] Từ những vấn đề trên cho thấy việc nghiên cứu lý luận và thực tiễn về hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân phường là nhu cầu cấp thiết. Việc đi sâu nghiên cứu vào thực trạng hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân tại cấp phường – cấp cuối cùng trong hệ thống chính quyền của Nhà nước ta hiện nay lại càng có ý nghĩa quan trọng. Chính vì vậy tôi đã chọn đề tài: “Giám sát của Hội đồng nhân dân phường từ thực tiễn quận Đống Đa – Thành phố Hà Nội” làm luận văn Thạc sỹ Luật học. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Nghiên cứu hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân nói chung đã được nhiều nhà khoa học nghiên cứu, tiếp cận. Có thể kể ra 1 số công trình nghiên cứu tiêu biểu sau: Các cuốn sách – Võ Khánh Vinh, 2003, Một số vấn đề chung về hiệu quả và việc nâng cao hiệu quả giám sát việc thực hiện quyền lực Nhà nước, NXB Công an nhân dân. – Thái Vĩnh Thắng, 2011, Tổ chức và kiểm soát quyền lực Nhà nước, NXB Tư pháp.

10. 4 – Trịnh Thị Xuyến, 2008, Kiểm soát quyền lực Nhà nước, một số vấn đề lí luận và thực tiễn ở Việt Nam hiện nay, NXB Chính trị Quốc gia. – Trần Ngọc Đường, 2004, Cẩm nang thông tin về kỹ năng nghiệp vụ hoạt động của đại biểu Hội đồng nhân dân và thành viên Ủy ban nhân dân các cấp, NXB Chính trị quốc gia Hà Nội. – chúng tôi Bùi Xuân Đức, 12/2003, Bàn về tính chất của Hội đồng nhân dân trong điều kiện cải cách bộ máy nhà nước hiện nay, Tạp chí Nhà nước và pháp luật. – Nguyễn Ngọc Kỳ, 2007, Quyền giám sát của Hội đồng nhân dân và kỹ năng giám sát cơ bản, NXB Tư pháp. – Đặng Đình Tân (chủ biên), 2006, Nhân dân giám sát các cơ quan dân cử ở Việt Nam trong thời kỳ đổi mới, NXB Chính trị quốc gia Hà Nội. Các luận văn: – Vũ Mạnh Thông, 1998, Luận văn thạc sỹ Luật học: Nâng cao hiệu lực giám sát của HĐND cấp tỉnh trong điều kiện đổi mới ở Việt Nam hiện nay, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh. – Hồ Thị Hưng, 2006, luận văn thạc sỹ Luật học: Nâng cao hiệu quả giám sát của Hội đồng nhân dân tỉnh Nghệ An trong giai đoạn hiện nay, thực hiện tại Học viện Chính trị – Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh. – Nguyễn Thị Thanh Nhàn, 2007, luận văn thạc sỹ Luật học: Năng lực của đại biểu Hội đồng nhân dân tỉnh Hà Tĩnh trong thực hiện chức năng quyết định, thực hiện tại Học viện Chính trị – Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh. – Nguyễn Thị Nhung, 2012, luận văn thạc sỹ Luật học: Hoạt động chất vấn của đại biểu HĐND tỉnh Ninh Bình, thực hiện tại Đại học Luật Hà Nội. – Đào Thị Hồng Hạnh, 2014, luận văn thạc sỹ Luật học: Hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân từ thực tiễn tỉnh Hải Dương, thực hiện tại Học viện Khoa học xã hội. – Lý Ngọc Thanh, 2015, luận văn thạc sỹ Luật học: Hoạt động giám sát của

11. 5 Hội đồng nhân dân cấp tỉnh từ thực tiễn tỉnh Tuyên Quang, thực hiện tại Học viện Khoa học xã hội. Với những cách tiếp cận khác nhau, các công trình nêu trên đều đề cập đến các vấn đề lý luận và thực tiễn trong hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân với những luận giải, đánh giá rất khoa học, có ý nghĩa thiết thực đối với hoạt động của Hội đồng nhân dân. Tuy nhiên, nghiên cứu cụ thể về hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân cấp phường (cụ thể là cấp phường trong Quận Đống Đa – Thành phố Hà Nội) thì chưa có công trình nào nghiên cứu, để đưa ra những giải pháp có giá trị thực tiễn nhằm nâng cao hiệu quả giám sát của Hội đồng nhân dân các phường Quận Đống Đa. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu – Mục đích nghiên cứu: Nghiên cứu lý luận về hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân và thực trạng giám sát của Hội đồng nhân dân cấp phường trong quận Đống Đa, nêu thực trạng cơ chế giám sát của Hội đồng nhân dân, chỉ ra những bất hợp lý, những tồn tại trong hoạt động giám sát của HĐND cấp phường. Trên cơ sở đó đề ra quan điểm và một số giải pháp tăng cường hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân cấp phường trên địa bàn quận Đống Đa. – Nhiệm vụ nghiên cứu: Luận văn có nhiệm vụ là làm rõ cơ sở lí luận về hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân, từ đó: + Đánh giá chất lượng hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân phường nhiệm kỳ 2011-2016. + Xác định những quan điểm và giải pháp nhằm nâng cao chất lượng hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân phường trong giai đoạn hiện nay và những năm tiếp theo. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu – Đối tượng nghiên cứu: Những vấn đề lí luận và thực tiễn về hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân phường từ thực tiễn Quận Đống Đa. – Phạm vi nghiên cứu: Từ năm 2011 đến năm 2016.

13. 7 Chương 1: Cơ sở lí luận và pháp lý về hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân phường. Chương 2: Thực trạng hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân phường tại Quận Đống Đa – TP Hà Nội. Chương 3: Quan điểm và giải pháp tăng cường hiệu quả giám sát của Hội đồng nhân dân phường.

14. 8 Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ VỀ HOẠT ĐỘNG GIÁM SÁT CỦA HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN PHƯỜNG 1.1. Địa vị pháp lý và chức năng của Hội đồng nhân dân phường 1.1.1. Địa vị pháp lý của Hội đồng nhân dân phường Ở Việt Nam, cùng với sự ra đời của chính quyền nhân dân, các tổ chức chính quyền dân chủ tại địa phương đã được hình thành. Chính quyền địa phương bao gồm Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân (hoặc ủy ban hành chính) các cấp. Trong đó Hội đồng nhân dân có vai trò đặc biệt quan trọng, thể hiện quyền làm chủ của nhân dân, “Là cơ quan quyền lực Nhà nước ở địa phương, do nhân dân bầu ra”; “Hội đồng nhân dân lãnh đạo các ngành công tác, các mặt sinh hoạt, và quyết định tất cả công việc Nhà nước trong phạm vi địa phương được quyền quản lý, dưới sự lãnh đạo tập trung và thống nhất của trung ương.” [15, Điều 6]. Xuyên suốt các bản Hiến pháp 1946, 1959,1980, 1992 và Hiến pháp 2013 đều thể hiện vai trò của Hội đồng nhân dân các cấp theo tinh thần trên. Điều 113 Hiến pháp 2013 quy định “1. Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực Nhà nước ở địa phương, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của Nhân dân, do Nhân dân địa phương bầu ra, chịu trách nhiệm trước Nhân dân địa phương và cơ quan Nhà nước cấp trên. 2. Hội đồng nhân dân quyết định các vấn đề của địa phương do luật định; giám sát việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật ở địa phương và việc thực hiện nghị quyết của Hội đồng nhân dân.” [23]. Cụ thể hóa Hiến pháp 2013; Luật Tổ chức chính quyền địa phương 2015 cũng quy định: “Hội đồng nhân dân gồm các đại biểu Hội đồng nhân dân do cử tri ở địa phương bầu ra, là cơ quan quyền lực Nhà nước ở địa phương, đại diện

15. 9 cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của Nhân dân, chịu trách nhiệm trước Nhân dân địa phương và cơ quan Nhà nước cấp trên.” [25]. Như vậy, có thể thấy địa vị pháp lý của Hội đồng nhân dân đã được xác định rõ ràng và xuyên suốt trong quá trình hình thành và phát triển của Nhà nước CHXHCN Việt Nam từ năm 1945 đến nay. Hội đồng nhân dân là cơ quan đại diện cho dân, thể hiện bản chất dân chủ của Nhà nước ta, do nhân dân bầu ra, chịu sự giám sát của nhân dân. Vì vậy, Hội đồng nhân dân có vị trí đặc biệt quan trọng trong bộ máy chính quyền địa phương, quyết sách những vấn đề quan trọng của địa phương và giám sát việc thực hiện những quyết định đó. Tuy Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực Nhà nước nhưng xét về vị trí pháp lý, Hội đồng nhân dân không giống với Quốc hội. Quốc hội là cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất. Sự khác biệt ở đây không chỉ ở phạm vi, cấp độ mà ở thẩm quyền. Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến, lập pháp. Hội đồng nhân dân cũng là cơ quan quyền lực nhưng chỉ có quyền ban hành Nghị quyết trong phạm vi địa phương và phải dựa trên cơ sở Hiến pháp, luật [5]. Hội đồng nhân dân có tính đại diện và tính quyền lực, thể hiện ở những khía cạnh sau: Hội đồng nhân dân là cơ quan đại biểu của nhân dân, do nhân dân địa phương bầu ra theo nguyên tắc phổ thông, bình đẳng trực tiếp và bỏ phiếu kín. Mọi công dân đều có quyền bầu cử và lá phiếu của họ có giá trị ngang nhau (trừ những người bị tước quyền bầu cử). Cơ cấu HĐND được hợp thành từ những đại biểu ưu tú đại diện cho giai cấp công nhân, nông dân, tầng lớp trí thức, các dân tộc, thành phần xã hội trong phạm vi địa phương. HĐND tồn tại, hoạt động trước hết vì lợi ích của nhân dân địa phương nhưng phải phù hợp với lợi ích chung của cả đất nước. Hội đồng nhân dân chịu trách nhiệm và chịu sự giám sát của nhân dân địa phương. Một yếu tố khác thể hiện tính đại diện của HĐND là chế độ bãi nhiệm đại biểu HĐND, đại biểu nào không còn xứng đáng với sự tín nhiệm của nhân dân thì tùy mức độ vi phạm mà bị HĐND hoặc cử tri

16. 10 bãi nhiệm. Tính quyền lực của Hội đồng nhân dân thể hiện ở các điểm – Hội đồng nhân dân bầu ra cơ quan chấp hành, là cơ quan hành chính Nhà nước tại địa phương và có quyền bãi nhiệm, miễn nhiệm các chức danh trên. – Hội đồng nhân dân ban hành nghị quyết về các mặt Kinh tế, văn hóa xã hội, an ninh quốc phòng của địa phương để Ủy ban nhân dân thực hiện và giám sát việc thực hiện các nghị quyết đó. – HĐND giám sát việc tuân theo Hiến pháp, pháp luật ở địa phương Tính chất đại diện và tính chất quyền lực của HĐND có quan hệ biện chứng với nhau. Tính đại diện là tiền đề bảo đảm và là lý do để Hội đồng nhân dân trở thành cơ quan quyền lực Nhà nước ở địa phương. Và chỉ có thể là cơ quan quyền lực Nhà nước ở địa phương, Hội đồng nhân dân mới có đủ quyền năng thực hiện được tính chất đại diện cho nhân dân, thay mặt nhân dân quyết định những vấn đề quan trọng ở địa phương đảm bảo quyền làm chủ của nhân dân. Như vậy, với vị trí, tính chất của Hội đồng nhân dân được quy định trong Hiến pháp 2013 và Luật Tổ chức HĐND và UBND năm 2003, Luật Luật Tổ chức chính quyền địa phương 2015 thì Hội đồng nhân dân vừa là một cơ quan trong bộ máy Nhà nước, có nghĩa vụ thi hành Hiến pháp, pháp luật vừa là chủ thể quyền lực, đại diện cho nhân dân địa phương và có quyền quyết định những vấn đề quan trọng của địa phương, giám sát việc tuân theo pháp luật của cơ quan Nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, công dân ở địa phương nhằm phát huy tiềm năng của địa phương trên mọi mặt kinh tế, xã hội. 1.1.2. Chức năng và nhiệm vụ của Hội đồng nhân dân phường Chức năng của Hội đồng nhân dân là những phương diện hoạt động chủ yếu của Hội đồng nhân dân nhằm thực hiện vai trò, nhiệm vụ của Hội đồng nhân dân. Với vị trí, vai trò của mình, Hội đồng nhân dân có 2 chức năng quan trọng nhất đó là chức năng quyết định và chức năng giám sát. a. Chức năng quyết định: Hội đồng nhân dân quyết định những vấn đề

17. 11 quan trọng của địa phương thuộc thẩm quyền của Hội đồng nhân dân được quy định rõ đối với từng cấp. VD: theo Sắc lệnh 63/SL ngày 23/11/1945 của Chủ tịch Chính phủ lâm thời Việt Nam dân chủ cộng hòa có quy định: “Điều thứ 66: Hội đồng nhân dân hàng xã có quyền quyết nghị về tất cả các vấn đề thuộc trong phạm vi xã mình. Những quyết nghị của Hội đồng nhân dân hàng xã không được trái với chỉ thị của các cấp trên.” [1]. Đến Luật Tổ chức HĐND và UBND năm 2003 lại càng quy định chi tiết hơn khi có tới 7 điều từ Điều 29 đến Điều 35 quy định nhiệm vụ quyền hạn của Hội đồng nhân dân cấp xã. Đến nay là Luật Tổ chức chính quyền địa phương 2015 còn quy định tách biệt hẳn về nhiệm vụ, quyền hạn giữa Hội đồng nhân dân xã, phường, thị trấn tại các điều luật khác nhau. Nhưng tựu chung lại đều thể hiện rõ quyền quyết định của Hội đồng nhân dân cấp xã về những vấn đề quan trọng của địa phương. Căn cứ vào nội dung, có thể chia quyết định của Hội đồng nhân dân làm hai loại: – Các quyết định về biện pháp nhằm đảm bảo việc thi hành nghiêm chỉnh Hiến pháp, pháp luật ở địa phương, hoàn thành nhiệm vụ do cơ quan Nhà nước cấp trên giao. Ví dụ: quyết định về việc thực hiện chính sách văn hóa, xã hội; quyết định về việc thi hành pháp luật… – Các quyết định về biện pháp xây dựng địa phương vững mạnh trên các mặt: kinh tế, xã hội, an ninh, quốc phòng, xây dựng chính quyền, ổn định và nâng cao đời sống nhân dân. Ví dụ, như quyết định về kế hoạch phát triển kinh tế xã hội ở địa phương; quyết định về quốc phòng an ninh, trật tự an toàn xã hội…. Như vậy, nội dung chức năng quyết định những vấn đề quan trọng ở địa phương của Hội đồng nhân dân là rất rộng, bao gồm nhiều mặt của đời sống kinh tế – xã hội, văn hóa giáo dục, quốc phòng, an ninh… của địa phương. Điều này càng xác định rõ hơn vị trí, vai trò và tầm quan trọng của Hội đồng nhân dân đối với chính quyền địa phương. Mặt khác, đây cũng là những căn cứ pháp lý để chính quyền địa phương khai thác hết tiềm năng, nội lực sẵn có ở địa phương

18. 12 nhằm nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân địa phương, làm tròn mọi nhiệm vụ mà nhân dân và cấp trên giao cho. b. Chức năng giám sát: Luật Tổ chức HĐND và UBND năm 2003 quy định: “Hội đồng nhân dân thực hiện quyền giám sát đối với hoạt động của Thường trực Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân, Toà án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp; giám sát việc thực hiện các nghị quyết của Hội đồng nhân dân; giám sát việc tuân theo pháp luật của cơ quan Nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân và của công dân ở địa phương.” [22, Điều 1]. Luật Tổ chức chính quyền địa phương 2015 quy định về chức năng giám sát của Hội đồng nhân dân phường tại khoản 4 Điều 61 như sau: “Giám sát việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật ở địa phương, việc thực hiện nghị quyết của Hội đồng nhân dân phường; giám sát hoạt động của Thường trực Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân cùng cấp, Ban của Hội đồng nhân dân cấp mình; giám sát văn bản quy phạm pháp luật của Ủy ban nhân dân cùng cấp.” [25]. Hội đồng nhân dân giám sát việc thực hiện các quyết định của Hội đồng nhân dân trong phạm vi địa phương. Việc giám sát được triển khai trên các mặt công tác: tuyên truyền, phổ biến nghị quyết trong nhân dân, qua hoạt động của đại biểu HĐND, Tổ đại biểu HĐND và các cơ quan chức năng thuộc UBND; Thường trực Hội đồng nhân dân chỉ đạo, đôn đốc UBND triển khai thực hiện nghị quyết của Hội đồng nhân dân, trong đó có việc ban hành các văn bản cụ thể hóa (quyết định, nghị quyết) đề ra các biện pháp thực hiện. Hội đồng nhân dân giám sát việc thực hiện Hiến pháp, pháp luật và nghị quyết của cơ quan Nhà nước cấp trên. Giám sát việc thực hiện các nhiệm vụ của cơ quan hành chính Nhà nước cùng cấp, thông qua việc xem xét các báo cáo của Thường trực Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, các cơ quan chuyên môn của UBND thông qua hoạt động của đại biểu Hội đồng nhân dân

19. 13 trong kỳ họp và giữa hai kỳ họp nhất là qua chất vấn của đại biểu Hội đồng nhân dân tại kỳ họp. Chức năng giám sát có mối quan hệ chặt chẽ với chức năng quyết định của Hội đồng nhân dân. Chức năng giám sát là cơ sở kiểm nghiệm tính đúng đắn của các quyết định trên thực tiễn, là biện pháp phát hiện kịp thời các vi phạm của mọi chủ thể trong hoạt động tuân thủ pháp luật. Ngược lại, các quyết định về chủ trương chính sách lớn tại địa phương là cơ sở cho hoạt động giám sát được tôn trọng trên thực tế, tạo định hướng cho hoạt động giám sát tập trung vào các vấn đề cấp bách của địa phương. Thực hiện tốt chức năng giám sát không chỉ giúp Hội đồng nhân dân kiểm tra, đánh giá hoạt động của cơ quan hành chính Nhà nước trong việc tuân thủ Hiến pháp, pháp luật và nghị quyết của Hội đồng nhân dân mà còn giúp Hội đồng nhân dân nhận thấy những ưu khuyết điểm trong hoạt động ban hành nghị quyết của mình. 1.2. Khái niệm, đặc điểm, vai trò hoạt động giám sát của hội đồng nhân dân phường 1.2.1. Khái niệm, đặc điểm hoạt động giám sát của hội đồng nhân dân phường 1.2.1.1. Khái niệm giám sát của Hội đồng nhân dân phường Tùy theo phạm vi nghiên cứu khác nhau, khái niệm giám sát có thể hiểu theo các nghĩa như sau: Hoạt động lập pháp của các nước trên thế giới, có định nghĩa giám sát của Nghị viện: là việc theo dõi các hoạt động của hành pháp có hiệu quả, tin cậy, minh bạch và trung thực hay không, để đảm bảo rằng các khoản tiền được Nghị viện phê duyệt sẽ được sử dụng một cách hợp pháp, có hiệu quả và đúng mục đích đã đề ra [37, tr. 2]. Trong từ điển ngôn ngữ tiếng Việt, “Giám sát” được hiểu như một động từ chỉ “sự theo dõi, xem xét làm đúng hoặc sai những điều đã qui định” hoặc “theo dõi và kiểm tra xem có thực hiện đúng những điều qui định không”[40]. Theo từ điển Hán – Việt của Đào Duy Anh thì “giám sát là xem xét và đàn hạch”[32].

21. 15 pháp luật về việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình, xử lý theo thẩm quyền hoặc yêu cầu, kiến nghị cơ quan có thẩm quyền xử lý.” [24, Điều 2]. Giám sát là một chức năng cơ bản và cũng là 1 quyền đặc biệt của Hội đồng nhân dân. Hoạt động giám sát nhằm đảm bảo quyền lực của nhân dân được tôn trọng và thực thi. Hội đồng nhân dân phường thực hiện quyền giám sát đối với Thường trực Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, các cơ quan chuyên môn của Ủy ban nhân dân trong việc thực hiện Hiến pháp, pháp luật, các văn bản của cơ quan Nhà nước cấp trên và việc thi hành nghị quyết của Hội đồng nhân dân. Để thực hiện quyền giám sát một cách có hiệu quả, Hội đồng nhân dân có nhiều phương thức thực hiện khác nhau như: Xem xét các báo cáo của Thường trực Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, các cơ quan chuyên môn của Ủy ban nhân dân tại các kỳ họp; thông qua hoạt động chất vấn của đại biểu Hội đồng nhân dân trong kỳ họp và giữa hai kỳ họp; hoặ thông qua các cuộc giám sát thường xuyên hay giám sát chuyên đề. Mục tiêu cuối cùng là nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động chung của Hội đồng nhân dân và bộ máy chính quyền phường nói chung. 1.2.1.2. Đặc điểm hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân phường a. Giám sát của Hội đồng nhân dân mang tính quyền lực Nhà nước Tại Việt Nam, quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân. Nhân dân thực hiện quyền lực Nhà nước bằng các hình thức dân chủ trực tiếp hoặc dân chủ đại diện. Hiến pháp 2013 đã khẳng định: “Quyền lực Nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan Nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”, “Nhân dân thực hiện quyền lực Nhà nước bằng dân chủ trực tiếp, bằng dân chủ đại diện thông qua Quốc hội, Hội đồng nhân dân và thông qua các cơ quan khác của Nhà nước” [23, Điều 3,6]. Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực Nhà nước ở địa phương, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của Nhân dân, do Nhân dân địa

23. 17 mang tính quyền lực Nhà nước như giám sát của Hội đồng nhân dân, mà mang tính kỷ luật nội bộ Đảng, đó là sự lãnh đạo của Đảng trong giám sát nhằm phát hiện, khắc phục những khuyết điểm, thiếu sót trong lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy Đảng, của cán bộ đảng viên về nhận thức và chấp hành đường lối, chủ trương chính sách của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước và chấp hành Điều lệ Đảng. Nếu phát hiện có dấu hiệu vi phạm thì chuyển cuộc giám sát sang cuộc kiểm tra của Đảng để xem xét, thi hành kỷ luật đảng đúng thẩm quyền, theo quy định của Điều lệ Đảng. Kỷ luật Đảng không thay thế kỷ luật hành chính và trách nhiệm pháp lý khác mà cấp ủy quản lý đảng viên phải kịp thời chỉ đạo tổ chức Nhà nước, đoàn thể chính trị – xã hội có thẩm quyền trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày công bố quyết định kỷ luật đảng phải xem xét, xử lý kỷ luật về hành chính, đoàn thể theo quy định của cơ quan Nhà nước và điều lệ của đoàn thể. Hoạt động giám sát của Mặt trận tổ quốc: “là giám sát mang tính nhân dân, hỗ trợ cho công tác giám sát, kiểm tra, thanh tra của Nhà nước, nhằm góp phần xây dựng và bảo vệ Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong sạch, vững mạnh, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả, bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân” (Điều 12, Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam). Về hậu quả pháp lý: Mặt trận Tổ quốc không có quyền xử lý khi phát hiện sai phạm mà chỉ kiến nghị với cơ quan Nhà nước có thẩm quyền. b. Giám sát của Hội đồng nhân dân luôn gắn với 1 chủ thể nhất định Giám sát luôn luôn gắn với một chủ thể nhất định, tức là phải trả lời câu hỏi ai (người hoặc tổ chức) có quyền thực hiện việc theo dõi, xem xét, đánh giá về một việc đã được thực hiện đúng hoặc sai những điều đã quy định? Giám sát vấn đề gì, và giám sát việc gì? Điều này có ý nghĩa quan trọng ở chỗ nó phân biệt giữa “giám sát” với “kiểm tra”. Vì kiểm tra thì chủ thể hoạt động và đối tượng chịu sự tác động của hoạt động đó có thể đồng nhất với nhau, đó là việc tự kiểm tra lại hoạt động chính mình của chủ thể hoạt động. Giám sát của

26. 20 Giám sát là hoạt động có tính chủ động và mục đích được xác định trước của chủ thể thực hiện hoạt động giám sát. Hoạt động giám sát của HĐND được thực hiện thường xuyên theo một chương trình kế hoạch nhất định. 1.2.1.3. Sơ lược về sự phát triển chế định giám sát của Hội đồng nhân dân trong lịch sử lập pháp Việt Nam a. Hiến pháp năm 1946 Hiến pháp 1946 quy định về Hội đồng nhân dân tại chương V: “Hội đồng nhân dân và Ủy ban hành chính”. Vị trí tính chất, chức năng, tổ chức và hoạt động của Hội đồng nhân dân chưa được Hiến pháp quy định cụ thể. Về nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng nhân dân, Hiến pháp quy định: “Hội đồng nhân dân quyết định các vấn đề thuộc về địa phương mình. Những nghị quyết ấy không được trái với chỉ thị của cấp trên.” Theo Điều 62 thì: “Một đạo luật cụ thể sẽ định rõ những chi tiết tổ chức các Hội đồng nhân dân và Ủy ban hành chính”. Nhưng do điều kiện của đất nước trong hoàn cảnh kháng chiến chống thực dân Pháp và can thiệp Mỹ, mà thời kỳ đó đã không có một đạo Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban hành chính nào được ban hành. Bởi vậy, trên thực tế cách thức tổ chức quyền hạn và hoạt động của HĐND vẫn được thực hiện theo quy định của Sắc lệnh số 63 ngày 22/11/1945 về tổ chức chính quyền nhân dân xã, huyện, tỉnh, kỳ và Sắc lệnh số 77 ngày 21/12/1945 quy định tổ chức chính quyền nhân dân thành phố, thị xã, khu phố. Nhìn chung, theo tinh thần của Sắc lệnh số 63 và Sắc lệnh số 77 thì trong tổ chức và hoạt động của chính quyền nhân dân đã có sự phân biệt giữa thành thị và nông thôn, quyền và trách nhiệm pháp lý của Hội đồng nhân dân các cấp được quy định khá chi tiết. Đồng thời vai trò giám sát của Ủy ban hành chính cấp trên đối với HĐND cấp dưới cũng được chú trọng, cơ quan hành chính cấp trên có quyền giải tán Hội đồng nhân dân cấp dưới, thủ tiêu hoặc giao về sửa chữa hay chuẩn y quyết định của Hội đồng nhân dân cấp dưới. b. Hiến pháp năm 1959

27. 21 Cùng với Hiến pháp năm 1959, Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban hành chính lần đầu tiên được ban hành vào năm 1962, đánh dấu một sự đổi mới căn bản trong tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương ở nước ta. Khác với Hiến pháp năm 1946 chỉ có cấp tỉnh và cấp xã mới có Hội đồng nhân dân, Hiến pháp mới quy định tất cả các đơn vị kể trên đều thành lập Hội đồng nhân dân. Lần đầu tiên Hội đồng nhân dân các cấp được xác định là cơ quan quyền lực Nhà nước ở địa phương, do nhân dân địa phương bầu ra và chịu trách nhiệm trước nhân dân. Cơ cấu tổ chức bộ máy giúp việc của Hội đồng nhân dân được quy định trong mục bốn Chương II Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban hành chính năm 1962. Theo điều 28 Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban hành chính năm 1962: ” Tùy theo nhu cầu công tác, HĐND có thể thành lập các Ban của HĐND”[17]. Mặc dù đã đề cập về việc thành lập các Ban, nhưng luật lại chưa quy định cụ thể, đầy đủ về cơ cấu tổ chức, trật tự hình thành nhiệm vụ, quyền hạn, mối quan hệ giữa các ban của Hội đồng nhân dân và các cơ quan Nhà nước ở địa phương. Dường như mô hình tổ chức các ban tùy vào sự vận dụng của từng địa phương, dẫn đến hoạt động giám sát thực sự chưa được chú trọng nhiều, hiệu quả hoạt động giám sát của các Ban HĐND còn thấp. c. Hiến pháp năm 1980 Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và UBND năm 1983 quy định Hội đồng nhân dân ở tất cả các cấp không có thường trực Hội đồng nhân dân. Chỉ có các Ban của Hội đồng phối hợp với Ủy ban nhân dân cùng cấp đã trở thành cơ quan hoạt động thường xuyên của Hội đồng nhân dân. Hoạt động của Hội đồng nhân dân mang nặng tính hình thức của thời kỳ, chức năng giám sát rất hạn chế. Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân năm 1989 quy định chỉ thành lập Thường trực Hội đồng nhân dân ở cấp tỉnh, cấp huyện. Ở cấp xã không thành lập Thường trực Hội đồng nhân dân mà Ủy ban nhân dân đóng vai trò thường trực. Ủy ban nhân dân triệu tập kỳ họp Hội đồng nhân dân, điều hòa phối hợp với hoạt động của các Ban thuộc HĐND, dự kiến chương trình và

29. 23 cơ sở pháp lý quan trọng, để thông qua Thường trực, Hội đồng nhân dân thực hiện quyền giám sát thường xuyên của mình đối với UBND, TAND, VKSND cùng cấp cũng như các cơ quan Nhà nước khác, các tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội ở địa phương, để đảm bảo cho nghị quyết của HĐND và các văn bản pháp luật của cơ quan Nhà nước cấp trên được thực hiện. Từ đây Hội đồng nhân dân có thêm hình thức giám sát mới, giám sát thường xuyên thông qua hoạt động giám sát của Thường trực Hội đồng nhân dân. Năm 2001, Quốc hội đã sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992. Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân năm 2003 ra đời với nhiều quy định mới tiến bộ. Đặc biệt, Luật dành riêng Chương III với 24 Điều từ Điều 57 đến Điều 81 để quy định về hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân , Thường trực HĐND, các Ban của HĐND và đại biểu Hội đồng nhân dân. Từ sau khi Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân năm 2003 có hiệu lực, nhất là sau khi có quy chế hoạt động của Hội đồng nhân dân ban hành kèm theo Nghị quyết 753/2005/NQ-UBTVQH11 ngày 02 tháng 4 năm 2005 của UBTV Quốc hội; hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân ngày càng được quan tâm hơn và có hiệu quả hơn, vai trò của HĐND với việc phát triển kinh tế, xã hội ở địa phương ngày càng được khẳng định, góp phần nâng cao đời sống của nhân dân. e. Hiến pháp năm 2013 Trong xu thế hội nhập và toàn cầu hóa, đất nước ta đang có những bước chuyển mình mạnh mẽ, với nhiều thành công, thuận lợi nhưng cũng không ít khó khăn, thách thức. Đáp ứng hoàn cảnh lịch sử mới, Quốc hội xây dựng bản Hiến pháp mới năm 2013. Cụ thể hóa các quy định của Hiến pháp về chính quyền địa phương, Luật Tổ chức chính quyền địa phương được ban hành ngày 19/6/2015 với nhiều điểm mới, tiến bộ hơn về cơ cấu tổ chức, cách thức hoạt động của chính quyền địa phương. Trong đó, cơ cấu tổ chức của Hội đồng nhân dân phường cũng có nhiều đổi mới quan trọng như thành lập thêm hai ban của

30. 24 Hội đồng nhân dân phường (ban Pháp chế và ban Kinh tế xã hội). Đặc biệt, về hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân đã có một luật riêng là Luật hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân (có hiệu lực thi hành từ 01/7/2016) với 5 Chương, 91 Điều. Hai luật trên đã nâng vai trò hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân lên một tầm cao mới, đáp ứng đòi hỏi của công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN. Như vậy, xuyên suốt chiều dài lịch sử lập hiến và lập pháp ở nước ta các quy định về Hội đồng nhân dân vừa được kế thừa đồng thời lại có sự sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện. Mỗi bản Hiến pháp tuy được ban hành trong một hoàn cảnh lịch sử nhất định và thực hiện những nhiệm vụ riêng phù hợp với yêu cầu, đòi hỏi của từng thời kỳ cách mạng. Song tất cả các bản Hiến pháp đều khẳng định vai trò quan trọng của Hội đồng nhân dân trong bộ máy tổ chức Nhà nước, đặc biệt là tầm quan trọng của hoạt động giám sát. 1.2.2. Vai trò giám sát của Hội đồng nhân dân phường Chức năng giám sát là một trong hai chức năng cơ bản của Hội đồng nhân dân, có mối quan hệ và tác động qua lại với chức năng quyết định của Hội đồng nhân dân. Hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân mang tính quyền lực Nhà nước. Muốn thực hiện đúng và có hiệu quả chức năng quyết định, Hội đồng nhân dân phải có được đầy đủ những thông tin về tình hình kinh tế – xã hội của địa phương, về việc thực hiện Hiến pháp và pháp luật ở địa phương, về việc thực hiện các nghị quyết của Hội đồng nhân dân đã ban hành, những vấn đề gì mới phát sinh cần phải giải quyết .v.v.. Để có được những thông tin như thế rất cần hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân. Vì vậy, hoạt động giám sát được xem như một khâu không thể thiếu của quá trình ban hành nghị quyết của Hội đồng nhân dân. Thông qua hoạt động giám sát, các quyết định của Hội đồng nhân dân có thêm những căn cứ khoa học vững chắc, phù hợp với yêu cầu thực tế địa phương, đảm bảo tính khả thi của các quyết định, từ đó nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Hội đồng nhân dân trong thực tế.

36. 30 của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền. 2. Bỏ phiếu tín nhiệm là việc Quốc hội, Hội đồng nhân dân thể hiện sự tín nhiệm hoặc không tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do Quốc hội, Hội đồng nhân dân bầu hoặc phê chuẩn để làm cơ sở cho việc miễn nhiệm, bãi nhiệm hoặc phê chuẩn việc miễn nhiệm, cách chức người không được Quốc hội, Hội đồng nhân dân tín nhiệm.” Thực hiện nghị quyết 35 của Quốc hội, trong nhiệm kỳ hoạt động 2011- 2016, Hội đồng nhân dân cấp phường đã 02 lần lấy phiếu tín nhiệm đối với các chức danh do Hội đồng nhân dân bầu là Chủ tịch, phó chủ tịch Hội đồng nhân dân, Chủ tịch, phó chủ tịch Ủy ban nhân dân, Ủy viên Ủy ban nhân dân vào tháng 6/3013 và tháng 12/2014. 1.2.3.3. Giám sát giữa 2 kì họp Giữa các kỳ họp, hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân phường được thực hiện thông qua Thường trực Hội đồng nhân dân, tổ đại biểu Hội đồng nhân dân, và các đại biểu Hội đồng nhân dân. a. Giám sát thường xuyên Hội đồng nhân dân phường giám sát hoạt động của Uỷ ban nhân dân; giám sát cơ quan Nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân và công dân trong việc thi hành Hiến pháp, luật, các văn bản của cơ quan Nhà nước cấp trên và các nghị quyết của Hội đồng nhân dân cùng cấp. Khi Hội đồng nhân dân không họp, đại biểu Hội đồng nhân dân – thông qua Thường trực Hội đồng nhân dân – có quyền chất vấn và có quyền yêu cầu cơ quan Nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân và công dân kịp thời chấm dứt việc làm trái pháp luật, có quyền đề nghị Hội đồng nhân dân bỏ phiếu tín nhiệm đối với những người giữ chức vụ do Hội đồng nhân dân bầu. b. Giám sát chuyên đề Căn cứ vào nghị quyết về chương trình giám sát hàng năm và chương trình công tác năm của Hội đồng nhân dân phường được thông qua vào kỳ họp cuối

38. 32 hiện quyền giám sát của mình. Nếu luật không quy định cụ thể về thủ tục, trách nhiệm, quyền hạn của hoạt động giám sát thì việc ghi nhận chức năng giám sát của cơ quan quyền lực Nhà nước trong Hiến pháp chỉ là hình thức. Điều này đã được thực tiễn chứng minh. Luật tổ chức HĐND và HĐND năm 2003 và Quy chế hoạt động của Hội đồng nhân dân ban hành kèm theo Nghị quyết 753/2005/NQ-UBTVQH11 đã quy định tương đối cụ thể, rõ ràng về hình thức, thủ tục, trách nhiệm, quyền hạn của Hội đồng nhân dân phường trong hoạt động giám sát. Đã giúp nâng cao vị thế, vai trò của Hội đồng nhân dân phường. Hiện nay, khi bắt đầu thi hành Luật Tổ chức chính quyền địa phương 2015 với nhiều điểm mới, tiến bộ hơn về cơ cấu tổ chức, cách thức hoạt động của chính quyền phường, trong đó, cơ cấu tổ chức của Hội đồng nhân dân phường được lập thêm hai ban là ban Pháp chế và ban Kinh tế xã hội. Đặc biệt, có luật riêng về hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân (có hiệu lực thi hành từ 01/7/2016) với 5 Chương, 91 Điều. Luật trên đã nâng vai trò hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân lên một tầm cao mới, đáp ứng đòi hỏi của công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN. – Tổ chức bộ máy và hoạt động của Hội đồng nhân dân phường Theo quy định, Hội đồng nhân dân phường có thường trực Hội đồng nhân dân, các tổ đại biểu và các đại biểu Hội đồng nhân dân. Thường trực Hội đồng nhân dân gồm Chủ tịch, phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân trong đó Chủ tịch Hội đồng nhân dân có thể làm việc kiêm nhiệm. Tính đến cuối nhiệm kỳ 2011-2016, trong tổng số 21 phường trong Quận Đống Đa có 11 phường Bí thư Đảng ủy kiêm nhiệm Chủ tịch Hội đồng nhân dân, 6 phường có Chủ tịch Hội đồng nhân dân chuyên trách, 4 phường do luân chuyển cán bộ nên khuyết vị trí Chủ tịch Hội đồng nhân dân. 01 chủ tịch Hội đồng nhân dân là cán bộ hưu trí. Việc quy định bộ máy của Hội đồng nhân dân có thường trực như trên đã góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động và năng lực giám sát của Hội đồng nhân dân các phường, nâng cao vị thế của Hội đồng nhân dân trong bộ máy chính quyền.

39. 33 – Năng lực, bản lĩnh, trách nhiệm thực hiện chức năng giám sát của đại biểu Hội đồng nhân dân. Đại biểu Hội đồng nhân dân phường mang tính cơ cấu cao dẫn đến hoạt động của đại biểu không đồng đều. Đại biểu là cán bộ cơ sở có nhiều thời gian, không ngại va chạm nhưng trình độ còn hạn chế. Đại biểu là cán bộ công chức phần lớn là kiêm nhiệm, có trình độ nhưng ngại va chạm, hoạt động cầm chừng nhiều khi chưa làm hết trách nhiệm với cử tri. – Tính khoa học trong kế hoạch và chương trình giám sát của HĐND Giám sát là một công việc phức tạp gồm nhiều khâu, nhiều công đoạn. Nếu không có sự chuẩn bị kế hoạch kỹ càng và nghiên cứu trước đối tượng, nhiệm vụ giám sát thì rất dễ rơi vào hình thức, chỉ nghe xong rồi báo cáo lại, không có sự phản biện, chất vấn. Kết luận giám sát cho xong rồi để đấy. Vì thế chương trình giám sát cần phải có trọng tâm, trọng điểm, nội dung giám sát cần phải tập trung vào những vấn đề thiết thực, bức xúc tại địa phương mà cử tri quan tâm. 1.2.4.2. Các yếu tố bảo đảm, phục vụ Bảo đảm về tham mưu, phục vụ, kinh phí hoạt động. Theo quy định của Luật tổ chức HĐND và HĐND năm 2003, Nghị định 92/2009/NĐ-CP của Chính phủ về công chức cấp xã, tại phường có cán bộ chuyên trách văn phòng Hội đồng nhân dân – Ủy ban nhân dân chung, có trách nhiệm tham mưu và bảo đảm phục vụ, cung cấp thông tin, văn bản và tài chính cho hoạt động của Hội đồng nhân dân, thường trực Hội đồng nhân dân, trong đó có cả hoạt động giám sát. Văn phòng có trách nhiệm bảo đảm về cung cấp thông tin, tài liệu kịp thời cho đại biểu Hội đồng nhân dân, giúp đại biểu tiếp cận một cách đầy đủ, có hệ thống các văn bản cần thiết phục vụ hoạt động của mình. Kinh phí hoạt động của Hội đồng nhân dân phường do ngân sách Nhà nước bảo đảm. Tuy nhiên Hội đồng nhân dân phường không tự quyết về kinh phí hoạt động nên nhiều lúc hoạt động chưa được như mong muốn.

40. 34 Kết luận Chương 1 Hội đồng nhân dân là một thiết chế của chế độ dân chủ, là biểu hiện của nguyên tắc quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân. Hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân là hoạt động mang tính tất yếu khách quan để Hội đồng nhân dân thực sự thể hiện vai trò của mình “là cơ quan quyền lực Nhà nước ở địa phương, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của Nhân dân, do Nhân dân địa phương bầu ra, chịu trách nhiệm trước Nhân dân địa phương và cơ quan Nhà nước cấp trên.” Hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân mang tính quyền lực Nhà nước; hệ quả của kết luận giám sát có tính ràng buộc pháp lý nhất định. Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, là Nhà nước của nhân dân do nhân dân và vì nhân dân, tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân. Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực Nhà nước ở địa phương, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của Nhân dân, do Nhân dân địa phương bầu ra, theo nguyên tắc phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín; chịu trách nhiệm trước Nhân dân địa phương và cơ quan Nhà nước cấp trên. Hội đồng nhân dân thực hiện hai chức năng cơ bản: chức năng giám sát và chức năng quyết định. Hai chức năng này có mối liên hệ mật thiết với nhau, chức năng giám sát là cơ sở kiểm nghiệm tính đúng đắn của các quyết định trên thực tiễn. Ngược lại, các quyết định về chủ trương chính sách lớn tại địa phương là cơ sở cho hoạt động giám sát được tôn trọng trên thực tế, tạo định hướng cho hoạt động giám sát tập trung vào các vấn đề cấp bách của địa phương; góp phần xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN ở nước ta hiện nay.

41. 35 Chương 2 THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG GIÁM SÁT CỦA HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN PHƯỜNG TẠI QUẬN ĐỐNG ĐA – THÀNH PHỐ HÀ NỘI 2.1. Khái quát điều kiện tự nhiên, tình hình kinh tế xã hội quận Đống Đa và cơ cấu tổ chức của hội đồng nhân dân các phường trong Quận Đống Đa 2.1.1. Điều kiện tự nhiên, tình hình kinh tế xã hội quận Đống Đa (số liệu năm 2015). a. Điều kiện tự nhiên. Quận Đống Đa nằm ở phía Tây – Nam thành phố Hà Nội, là một trong 4 quận nội thành cũ của Thành phố, có địa giới hành chính tiếp giáp với 5 quận (Hoàn Kiếm, Ba Đình, Cầu Giấy, Thanh Xuân, Hai Bà Trưng), gồm 21 phường, dân số trên 400.000 người, mật độ dân cư trung bình là 40.000 người/km2 . Có địa giới hành chính hẹp và dân cư đông. Tổng diện tích tự nhiên theo Quy hoạch chi tiết của quận Đống Đa là 1008,5 ha, chiếm 1,08% diện tích của thành phố (tương đương với diện tích của quận Ba Đình, Thanh Xuân, thuộc loại nhỏ của thành phố, chỉ lớn hơn diện tích của quận Hoàn Kiếm). Trước khi tách 5 phường về quận Thanh Xuân (năm 1996), Đống Đa có 26 phường, hiện nay quận Đống Đa có 21 phường. Trên địa bàn có nhiều cơ quan, trường học, bệnh viện, do quá trình đô thị hóa từ các khu vực làng, xóm cũ nên hạ tầng giao thông đô thị không đồng bộ xuống cấp gặp nhiều khó khăn trong công tác quản lý. Trên toàn Quận có 69 tuyến phố với tổng chiều dài khoảng 46,76 km, trong đó có 11 tuyến, phố do Sở GTVT quản lý bao gồm: Tôn Đức Thắng, Nguyễn Lương Bằng, Tây Sơn, Xã Đàn – Vành đai I (đoạn từ Ô Chợ Dừa -Hoàng Cầu), Tôn Thất Tùng, Giảng Võ, Láng Hạ, Nguyễn Chí Thanh, La Thành, Đường Láng, đường Trường Chinh; 58 tuyến phố do Quận quản lý. Một số tuyến phố xuyên tâm: Tôn Đức Thắng – Nguyễn Lương Bằng – Tây Sơn; Giảng Võ – Láng Hạ; Thái Hà – Chùa Bộc – Huỳnh Thúc Kháng; Vành đai I; Vành đai II nối khu

42. 36 trung tâm với các khu vực Đông Nam, Tây Nam thành phố với lưu lượng tập trung đông người và các phương tiện tham gia giao thông vào giờ cao điểm. b. Tình hình kinh tế- văn hóa- xã hội. Quận Đống Đa là một quận có tốc độ đô thị hóa nhanh với mật độ dân cư cao nhất thành phố. Yếu tố tạo nên nhiều lợi thế tương đối như một thị trường tiêu thụ lớn: là đầu mối giao lưu kinh doanh hàng hóa giữa các địa bàn lân cận và cả nước nên đã thúc đẩy phát triển các doanh nghiệp ở các thành phần kinh tế cũng như các trung tâm thương mại lớn của Thủ đô. Đây là điều kiện thuận lợi cho quận phối hợp khai thác các nguồn lực trên địa bàn vào quá trình phát triển kinh tế xã hội cho quận. Một lợi thế nữa là do địa phận của quận bao gồm mạng lưới các tuyến phố chủ yếu của Thành phố và gần các trung tâm văn hóa khoa học kỹ thuật nên quận cũng có nhiều thuận lợi để đặt các văn phòng đại diện, trụ sở công ty, trung tâm tư vấn và trung tâm thương mại. Các yếu tố trên đã tạo cho quận nhu cầu to lớn về hàng hóa và dịch vụ không chỉ cho tiêu dùng hàng ngày mà còn nhu cầu về các nguyên vật liệu và yếu tố đầu vào cho sản xuất với tốc độ tăng khá cao hàng năm. Quận có một hệ thống trung tâm thương mại và chợ phụ vục cho hoạt động kinh doanh như: Trung tâm thương mại Ngã Tư Sở và một loạt các siêu thị lớn đã được hình thành nhằm đáp ứng nhu cầu tiêu dùng cao cấp của người dân như siêu thị: Thái Hà, Uni mark, trung tâm thương mại Parkson… Hướng phát triển kinh doanh tập trung theo dẫy phố cũng đã được hình thành và phát triển. Hòa cùng tiến trình đô thị hóa của cả nước, quận Đống Đa đang từng bước chuyển mình trên tất cả các lĩnh vực Kinh tế – Văn hóa – Xã hội. Kết quả quá trình đô thị hóa mang lại cho quận là không thể phủ nhận. Đảng bộ quận Đống Đa là một trong những đảng bộ cấp huyện lớn nhất cả nước với hơn 26.000 Đảng viên [12, tr. 3]. Tuy nhiên, quá trình Đô thị hóa hiện nay đang diễn ra quá nhanh, dân cư trong Quận tăng cao cả về tự nhiên lẫn cơ học, tình trạng đất đai bị lấn chiếm (như đất công, ao hồ, công trình văn hoá lịch

43. 37 sử) và chuyển đổi mục đích sử dụng theo hình thức tự phát, mua bán trao tay, xây dựng không phép, xây dựng lộn xộn không theo Quy hoạch – Kiến trúc. Các dự án mở đường vành đai, mở đường Giao thông đã cắm mốc giới, nhưng dự kiến mở rộng quy hoạch các dự án khu công cộng dịch vụ, trung tâm thương mại còn có dự án chưa khả thi. Các dự án đầu tư tập trung thông qua quyết định đầu tư đang gặp mâu thuẫn về cấp quyết định đầu tư, giữa việc quản lý Quận theo lãnh thổ và Quản lý Thành phố theo ngành dọc. Công tác giải phóng mặt bằng các tuyến đường còn chậm, dân không chịu đi do không thấy thoả mãn giá tiền đền bù làm cho công tác quy hoạch thực hiện chậm trễ. Sau khi giải phóng mặt bằng, do không có sự kiểm soát, kiểm tra của cơ quan chức năng dẫn đến hiện tượng tự ý xây dựng không theo tổng thể kiến trúc làm phá vỡ cảnh quan. Tình trạng nhà siêu mỏng siêu méo vẫn còn diễn ra, cả trên những tuyến đường được coi là đắt nhất hành tinh như đường Kim Liên – Xã Đàn – Ô Chợ Dừa mới hay các tuyến mương được cống hóa. Trên các phường còn có các khu đất nhỏ lẻ, hình dạng kích thước hình học không hợp lý, chưa được quản lý chặt. Còn tồn tại chợ xanh, chợ cóc ở các khu tập thể chưa có quy hoạch và chưa được giải quyết triệt để. Trong lập quy hoạch chi tiết các phường chưa bố trí sắp xếp mạng lưới sân chơi, mạng lưới chợ, mạng lưới điện gây khó khăn cho quản lý. Có một bộ phận dân cư ý thức pháp luật chưa cao, chưa nhận thức đầy đủ về nếp sống đô thị nên tình trạng lấn chiếm đất công, xây dựng trái phép, sai phép, không phép xảy ra ở một số phường trên địa bàn Quận. Dân số tăng cao nhưng hạ tầng cơ sở phát triển chậm, nhà ở nhiều khu tập thể xuống cấp chưa được sửa chữa kịp thời, chợ cóc còn nhiều, vệ sinh môi trường không đảm bảo, một số vấn đề bức xúc chưa được giải quyết triệt để có những biểu hiện gia tăng. 2.1.2. Khái quát về cơ cấu tổ chức Hội đồng nhân dân các phường trong Quận Đống Đa nhiệm kỳ 2011-2016 Quận Đống Đa có 21 phường, cuộc bầu cử Quốc hội và Hội đồng nhân dân

Bạn đang đọc nội dung bài viết Hội Đồng Tư Vấn Thuế Phường…: Nhiệm Vụ, Quyền Hạn.. Của Hội Đồng Tư Vấn Thuế trên website Photomarathonasia.com. Hy vọng một phần nào đó những thông tin mà chúng tôi đã cung cấp là rất hữu ích với bạn. Nếu nội dung bài viết hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!