Đề Xuất 3/2023 # Giải Pháp Phát Triển Đội Ngũ Giảng Viên Khoa Qlvh Ở Trường Đại Học Văn Hóa Tp. Hồ Chí Minh Đáp Ứng Nhu Cầu Xã Hội # Top 12 Like | Photomarathonasia.com

Đề Xuất 3/2023 # Giải Pháp Phát Triển Đội Ngũ Giảng Viên Khoa Qlvh Ở Trường Đại Học Văn Hóa Tp. Hồ Chí Minh Đáp Ứng Nhu Cầu Xã Hội # Top 12 Like

Cập nhật nội dung chi tiết về Giải Pháp Phát Triển Đội Ngũ Giảng Viên Khoa Qlvh Ở Trường Đại Học Văn Hóa Tp. Hồ Chí Minh Đáp Ứng Nhu Cầu Xã Hội mới nhất trên website Photomarathonasia.com. Hy vọng thông tin trong bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu ngoài mong đợi của bạn, chúng tôi sẽ làm việc thường xuyên để cập nhật nội dung mới nhằm giúp bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.

1. Đặt vấn đề

2. Một số khái niệm cơ bản

2.1. Phát triển đội ngũ

          Khái niệm đội ngũ được dùng cho các tổ chức trong xã hội một cách rộng rãi như “đội ngũ cán bộ, công chức, đội ngũ trí thức, đội ngũ y bác sỹ, đội ngũ giảng viên (ĐNGV)…”. Từ đội ngũ xuất phát theo cách hiểu của thuật ngữ quân sự đó là: “khối đông người được tập hợp lại một cách chỉnh tề và được tổ chức lại thành lực lượng chiến đấu”. Tuy có nhiều cách hiểu khác nhau nhưng đều có chung một điểm là: một nhóm người được tổ chức và tập hợp thành một lực lượng để thực hiện một hay nhiều chức năng, có thể cùng hay không cùng nghề nghiệp nhưng đều có chung một mục đích nhất định [1]. Như vậy, có thể nói đội ngũ là một tập thể gồm số đông người, có cùng lý tưởng, cùng mục đích, làm việc theo sự chỉ huy thống nhất, có kế hoạch, gắn bó với nhau về quyền lợi vật chất cũng như tinh thần.

Khái niệm đội ngũ giảng viên là một tập hợp những người làm nghề dạy học, giáo dục được tổ chức thành một lực lượng, cùng chung một nhiệm vụ là thực hiện các mục tiêu giáo dục đã đề ra cho tập hợp đó. Họ làm việc có kế hoạch và gắn bó với nhau thông qua lợi ích về vật chất và tinh thần trong khuôn khổ qui định của pháp luật, thể chế xã hội.

2.2. Phát triển đội ngũ giảng viên

`         Theo Từ điển bách khoa Việt Nam: Phát triển là “biến đổi hoặc làm cho nó biến đổi từ ít đến nhiều, hẹp hay rộng, thấp đến cao, đơn giản đến phức tạp” [2, tr.759]. Phát triển trong giáo dục được hiểu là quá trình học tập nhằm mở ra cho những cá nhân những công việc mới dựa trên những định hướng tương lai của tổ chức.

Theo quan điểm phát triển đội ngũ của ngành giáo dục: “Phát triển đội ngũ là làm sao để có một lực lượng những người làm giáo dục đủ về số lượng và đảm bảo chất lượng (nhân cách) đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội của đất nước nói chung và yêu cầu phát triển giáo dục nói riêng”.

          Phát triển đội ngũ giảng viên là tổng thể các phương pháp, biện pháp, cách thức, chính sách để hoàn thiện và nâng cao chất lượng đội ngũ (đủ về số lượng, phù hợp về cơ cấu, có trình độ chuyên môn và năng lực nghề nghiệp, phẩm chất tốt) đáp ứng yêu cầu phát triển của tổ chức. Một trong những nhiệm vụ quan trọng để phát triển giáo dục đại học là phát triển nguồn nhân lực. Trong phát triển nguồn nhân lực của cơ sở giáo dục đại học thì giảng viên đóng vai trò trung tâm, là nhân tố quan trọng quyết định chất lương đào tạo của nhà trường.

2.3. Ngành Quản lý văn hóa

Quản lý văn hóa (QLVH), là công việc của Nhà nước được thực hiện thông qua việc ban hành, tổ chức, kiểm tra và giám sát việc thực hiện các văn bản qui phạm pháp luật trong lĩnh vực văn hóa, đồng thời nhằm phát triển kinh tế, xã hội của từng địa phương nói riêng, cả nước nói chung [3, tr.25]. QLVH là sự tác động chủ quan bằng nhiều hình thức, phương pháp của chủ thể quản lý (Đảng, Nhà nước, cơ quan có thẩm quyền) đối với khách thể (là mọi thành tố tham gia và làm nên đời sống văn hóa) nhằm đạt được mục tiêu mong muốn.

Ngành QLVH, một ngành khoa học đào tạo chuyên môn về lĩnh vực văn hóa, Ngành QLVH đáp ứng nhu cầu nguồn nhân lực trong hoạt động văn hóa trên phạm vi cả nước, gồm: quản lý nhà nước về lĩnh vực văn hóa – nghệ thuật, thông tin tuyên truyền, quảng bá, xuất bản, dịch vụ văn hóa công cộng, thiết chế văn hóa (Chính phủ qui đinh) và tổ chức các hoạt động của sự nghiệp văn hóa như: đào tạo bồi dưỡng, sáng tác, biểu diễn, quản lý tốt tài sản, cơ sở vật chất và các phương tiện chuyên dùng, kinh doanh các dịch vụ văn hóa nhằm nâng cao mức hưởng thụ của nhân dân và hội nhập quốc tế [3, tr.1]. Chương trình đào tạo ngành QLVH  ngày càng được hoàn thiện và đổi mới, đã dựa vào ba tiêu chí cơ bản sau: là ngành khoa học thực hành; chương trình đào tạo ngày càng được chuẩn hóa; phải gắn liền với sử dụng hiệu quả công nghệ thông tin và thiết bị hiện đại [4].

2.4. Những thành tố của quá trình phát triển ĐNGV

Bao gồm “phẩm chất” và “năng lực”, hai mặt này nó biểu hiện ở mọi lúc, mọi nơi trong quá trình dạy học mà thể hiện rõ nét nhất là năng lực chuyên môn, khả năng điều khiển trong phạm vi trường học, uy tín trước tập thể sư phạm, khả năng ứng biến trong các tình huống sư phạm xã hội, trong đó vấn đề tổ chức thực hiện nhiệm vụ sẽ sáng tỏ được năng lực người giảng viên. Bên cạnh đó người giảng viên còn phải có phẩm chất về chính trị, tư cách đạo đức, tác phong sư phạm trước tập thể sư phạm, sinh viên, phụ huynh và các lực lượng giáo dục khác ngoài nhà trường.

2.5. Nhu cầu xã hội

          Hiện nay, khái niệm nhu cầu xã hội còn nhiều tranh luận và chưa đi đến thống nhất. Có quan điểm cho rằng đào tạo theo nhu cầu xã hội gồm: đào tạo theo yêu cầu của Nhà nước, các địa phương, nhu cầu của người sử dụng lao động, nhu cầu của người học và cả nhu cầu của phụ huynh học sinh. Song cũng có quan điểm cho rằng: đào tạo theo nhu cầu xã hội là phương thức tổ chức đào tạo ngắn hạn, đào tạo đáp ứng ngay nhu cầu trước mắt. Và quan điểm khác lại cho rằng nhu cầu cầu xã hội là nhu cầu của người học, khách hàng quan trọng nhất của nhà trường trong cơ chế thị trường là người học, có người học nhà trường mới tồn tại. Hiện nay, có rất nhiều người muốn đi học, nhất là học đại học nên phải mở rộng tuyển sinh, mở thêm nhiều trường đại học để đáp ứng nhu cầu xã hội. Bởi vậy, đào tạo đáp ứng yêu cầu xã hội, thì cần phải trả lời được câu hỏi (1) Xã hội là ai; họ yêu cầu gì; (2) Làm thế nào để đáp ứng yêu cầu của họ…[5].

          Đào tạo theo nhu cầu xã hội chính là mục tiêu của giáo dục đại học nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực phục vụ đắc lực cho quá trình CNH – HĐH đất nước, nó không chỉ là trách nhiệm của nhà trường mà còn là của toàn xã hội. Trong đó nhà nước đóng vai trò chủ đạo, điều phối dẫn đường thúc đẩy các mối quan hệ giữa nhà trường và nhà tuyển dụng các ngành kinh tế mà đại diện là các doanh nghiệp làm cho nhu cầu xích lại gần nhau vì lợi ích chung.

3. Thực trạng đội ngũ giảng viên khoa quản lý văn hóa

          Để có cơ sở đánh giá thực trạng về ĐNGV đào tạo cử nhân ngành QLVH, tác giả đã tiến hành khảo sát thực tế ở các trường ĐHVH TP. HCM  tại TP Hồ Chí Minh từ tháng 6 đến tháng 9/2016; trong đợt khảo sát này, tác giả sử dụng phiếu trưng cầu ý kiến của 16 cán bộ quản lý nhà trường từ trưởng/phó bộ môn trở nên đến Hiệu trưởng; 16 giảng viên trực tiếp tham gia giảng dạy cử nhân ngành QLVH kết quả:

3.1 Phát triển chất lượng đội ngũ giảng viên

Bảng 1. Số lượng ĐNGV cơ hữu hiện có thuộc khoa QLVH-NT đào tạo ngành QLVH

STT

Tên đơn vị khảo sát

Tổng số

PGS

T. sỹ

GVC

Th.sỹ

ĐH

Khác

1

Khoa QLVH-NT

20

01

03

02

12

3

2

 

                       Cộng

20

01

03

02

12

03

02

(Nguồn: do phòng tổ chức Trường ĐHVH chúng tôi cung cấp tháng 9/2016)

Đánh giá về chất lượng hoạt động phát triển chất lượng đội ngũ giảng viên, tác giả dùng thang đo Liker: từ 5 đến 1; 5 = rất thường xuyên, 4 = thường xuyên, 3 = đôi khi, 2 = không thường xuyên, 1 = không thực hiện.

Bảng 2. Đánh giá về chất lượng hoạt động phát triển chất lượng đội ngũ giảng viên

STT

Các tiêu chí đánh giá

 

Mức đánh giá (%)

 

  

Xếp hạng

5

4

3

2

1

1

Tổ chức Hội giảng từ bộ môn trở nên

   0

10,3

45,6

32,4

11,8

2,54

8

2

Bồi dưỡng lý thuyết chuyên môn

   0

13,2

45,6

32,4

8,8

2,63

6

3

Bồi dưỡng thực hành chuyên môn

4,4

19,1

45,6

27,9

2,9

2,94

5

4

Bồi dưỡng năng lực dạy học tích hợp

7,4

33,8

44,1

11,8

2,9

3,31

3

5

Bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm

13,2

29,4

32,4

30,9

2,9

3,40

2

6

Bồi dưỡng lý luận chính trị

4,4

29,4

32,4

30,9

2,9

3,01

4

7

Bồi dưỡng phương pháp NCKH

8,8

39,7

38,2

10,3

2,9

3,41

1

8

Bồi dưỡng ngoại ngữ/tin học

0

16,2

50,0

8,8

25,0

2,57

7

Kết quả khảo sát ở bảng 2 cho thấy số người được hỏi đánh giá về chất lượng hoạt động phát triển chất lượng ĐNGV trong: bồi dưỡng phương pháp nghiên cứu khoa học, xếp hạng 1 có điểm trung bình chung cao nhất 3,41; bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm, xếp hạng 2 có điểm trung bình chung 3,40; trong khi đó, tổ chức hội giảng từ cấp bộ môn trở nên, xếp hạng 8 thấp nhất có điểm trung bình 2,54; sau đó là bồi dưỡng ngoại ngữ/tin học xếp hạng 7, bồi dưỡng lý thuyết chuyên môn, thực hành chuyên môn xếp hạng 6 và 5.

Bảng 3. Qui định việc thực hiện nhiệm vụ chuyên môn của giảng viên ngành QLVH

Nội dung

Số lượng

Tỷ lệ %

Đảm bảo thực hiện đầy đủ kế hoạch lên lớp, kiểm tra đánh giá và NCKH theo qui định

32

51,6%

Tổ chức dự giờ thăm lớp và các hoạt động chuyên môn theo định kỳ

16

25,8%

Thường xuyên đổi mới phương pháp, nâng cao chất lượng giảng dạy

14

22,6%

                                                                                        Tổng cộng

62

100%

 

Kết quả khảo sát qua phiếu hỏi 62 ý kiến của cán bộ quản lý và giảng viên ngành QLVH, bảng 3 cho thấy: có 51,6% GV đảm bảo thực hiện đầy đủ kế hoạch lên lớp, kiểm tra đánh giá và NCKH theo qui định; 25,8% Tổ chức dự giờ thăm lớp và các hoạt động chuyên môn theo định kỳ; 22,6% thường xuyên đổi mới phương pháp, nâng cao chất lượng giảng dạy.

Bảng 4. Công tác đào tạo bồi dưỡng nâng cao  trình độ chuyên môn dành cho ĐNGV ngành  QLVH

Nội dung

Số lượng

Tỷ lệ %

Nội dung, chương trình, thời gian, địa điểm do giảng viên đề xuất nhằm đáp ứng với nhu cầu đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn theo yêu cầu của từng chuyên ngành trong ngành QLVH

17

34,70

Có sự tham gia trực tiếp của các nghệ sỹ, nhà giáo chuyên gia đầu ngành trong lĩnh vực QLVH và đơn vị dụng lao động

17

34,70

Có thời gian điền dã cơ sở, tham quan mô hình, trao đổi kinh nghiệm chuyên môn và trải nghiệm thực tiễn với cơ sở sử dụng lao động

8

16,30

Tổ chức các hình thức thi kỹ năng nghiệp vụ ngành QLVH cho GV

7

14,30

                                                                                       Tổng cộng

49

100%

Kết quả khảo sát công tác đào tạo bồi dưỡng ngắn hạn nâng cao  trình độ chuyên môn dành cho giảng viên khoa  QLVH, cho thấy việc đào tạo bồi dưỡng đã được quan tâm song thời gian điền dã cơ sở, tham quan mô hình, trao đổi kinh nghiệm chuyên môn và trải nghiệm thực tiễn với cơ sở sử dụng lao động còn rất khiên tốn chỉ có 16,3%; tổ chức các hình thức thi kỹ năng nghiệp vụ ngành QLVH cho GV cũng chỉ có 14,3%. Kết quả này sẽ là căn cứ để có giải pháp nâng cao trình độ cho ĐNGV.

Như vậy, để nâng cao trình độ ĐNGV hiện có, cần tạo môi trường cho ĐNGV có điều kiện tham gia các hoạt động như tổ chức hội giảng từ cấp bộ môn trở nên đến việc tham gia các cuộc thi nâng cao tay nghề, bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ một mặt để chuẩn hóa theo qui định hiện hành, mặt khác nâng cao chất lượng ĐNGV nhằm hoàn thiện việc đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ nhà giáo đạt chuẩn, từng bước nâng cao trình độ, bảo đảm đủ về số lượng, đồng bộ về cơ cấu, vững vàng về tư tưởng chính trị, mẫu mực về phẩm chất, đạo đức, lối sống…là việc làm cần thiết của mỗi nhà trường trong giai đoạn hiện nay, cạnh tranh để phát triển và hội nhập quốc tế.

3.2. Công tác qui hoạch và dự báo

Đánh giá công tác qui hoạch và dự báo ĐNGV ngành QLVH, tác giả dùng thang đo Liker: từ 3 đến 1; 3 = rất thường xuyên, 2 = thường xuyên, 1 = không thường xuyên

          Bảng 5.  Đánh giá công tác qui hoạch và dự báo đội ngũ giảng viên ngành QLVH

STT

Nội dung và hình thức tổ chức

Mức độ thực hiện %

 

 

Thứ   bậc

3

2

1

1

Công tác qui hoạch và dự báo được thực hiện bởi nhu cầu của bộ môn/ khoa chuyên môn, được triển khai rộng rãi

dân chủ công khai, 6 tháng/lần

8,2

53,1

38,8

1,69

4

2

Qui hoạch và dự báo chỉ thực hiện khi có yêu cầu của tổ chức

24,5

70,4

5,1

2,19

1

3

Qui hoạch và dự báo không theo đinh kỳ, có thể 1 đến 2 năm mới thực hiện 1 lần

6,1

68,4

25,5

1,81

2

4

Công tác qui hoạch và dự báo chỉ triển khai đến lãnh đạo quản lý (từ tổ trưởng bộ môn trở nên) sau đó thống nhất với cấp ủy đảng và thông báo rộng rãi, công khai

10,2

48,0

41,8

1,68

5

5

Chỉ thực hiện qui hoạch ĐNGV theo yêu cầu của tổ chức, không thực hiện dự báo nhu cầu vì những khó khăn chưa tháo gỡ được như biên chế, độ tuổi, chuyên môn sâu…

8,2

60,2

31,6

1,77

3

Kết quả khảo sát ở bảng 5 cho thấy, số người được hỏi đánh giá về công tác qui hoạch và dự báo ĐNGV khoa QLVH: qui hoạch và dự báo chỉ thực hiện khi có yêu cầu của tổ chức, đã được triển khai, xếp hạng 1 có điểm trung bình chung cao nhất 2,19; qui hoạch và dự báo không theo đinh kỳ có thể 1 đến 2 năm mới thực hiện 1 lần, xếp hạng 2 có điểm trung bình chung 1,81; chỉ thực hiện qui hoạch ĐNGV theo yêu cầu của tổ chức, không thực hiện dự báo nhu cầu vì những khó khăn chưa tháo gỡ được như biên chế, độ tuổi, chuyên môn sâu, xếp hạng 3 có điểm trung bình chung 1,77; công tác qui hoạch và dự báo được thực hiện bởi nhu cầu của bộ môn/ khoa chuyên môn, được triển khai rộng rãi dân chủ công khai 6 tháng/lần, xếp hạng 4 có điểm trung bình chung 1,69; công tác qui hoạch và dự báo chỉ triển khai đến lãnh đạo quản lý (từ tổ trưởng bộ môn trở nên) sau đó thống nhất với cấp ủy đảng và thông báo rộng rãi, công khai, xếp hạng 5 có điểm trung bình chung 1,68.

Như vậy, công tác qui hoạch và dự báo, chưa được làm thường xuyên, việc triển khai công tác qui hoạch và dự báo chỉ thực hiện khi nhà trường có yêu cầu cho nên khoa QLVH chưa chủ động làm công tác qui hoạch cho nên tình trạng giảng viên chưa đạt chuẩn vẫn tồn tại, kéo dài nhiều năm, đến nay rất cần có những giải pháp để giúp giảng viên chuyên ngành hẹp, độ tuổi trên 50 hoàn thành nhiệm vụ. Những GV trẻ cần được bổ sung dự nguồn căn cứ vào: năng lực chuyên môn, có phẩm chất đạo đức, tư cách nghề nghiệp cần được qui hoạch để đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ; cần có lộ trình sắp xếp luân phiên cán bộ trẻ được đào tạo nâng cao, sẽ khắc phục được tình trạng một số môn học không có giảng viên thay thế.

3.3. Sắp xếp luân chuyển

Đây là việc khó, nếu không có biện pháp khoa học, giải pháp cụ thể để GV tự nguyện lựa chọn sẽ nảy sinh đến tư tưởng. Xây dựng chiến lược quy hoạch và luân chuyển lâu nay chưa được triển khai một cách kỹ lưỡng và cụ thể nên việc rà soát, bố trí, sắp xếp, luân chuyển ĐNGV cho phù hợp với điều kiện thực tế là không thể làm được dẫn đến một số GV không có việc làm, trong khi nhiều môn học vẫn phải mời GV thỉnh giảng. Sự thay đổi ngành nghề do đào tạo theo nhu cầu xã hội và đổi mới phương pháp là những bất cập trong sắp xếp và luân chuyển nên cần phải có những giải pháp hữu hiệu để tháo gỡ.

4. Giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ khoa quản lý văn hóa, đáp ứng yêu cầu xã hội

Nâng cao năng lực, phẩm chất đội ngũ nhà giáo, đáp ứng kịp thời với những đổi mới của mỗi nhà trường về chương trình, giáo trình, phương pháp đào tạo theo yêu cầu xã hội, nhằm góp phần nâng cao chất lượng đào tạo, nhà trường phải thường xuyên chú ý tới công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ đặc biệt là đội ngũ cán bộ giảng dạy [6].

Quản lý và phát triển ĐNGV nhằm xây dựng ĐNGV trong tương lai đảm bảo về chất lượng, đủ về số lượng, đồng bộ về cơ cấu ngành nghề đào tạo, đáp ứng nhu cầu phát triển nguồn nhân lực ngành QLVH giai đoạn 2016 – 2020 và tầm nhìn đến năm 2030 là trách nhiệm của khoa QLVH-NT tham mưu cho nhà trường, nhằm bổ sung, bố trí, sử dụng hợp lý và trẻ hóa ĐNGV.

4.1. Thực hiện qui hoạch ĐNGV

          Đây là công việc làm thường xuyên định kỳ, đảm bảo dân chủ, công khai trên cơ sở sự đồng thuận từ cấp ủy đảng và lãnh đạo nhà trường, khoa chuyên môn các bộ phận chức năng. Qui hoạch ĐNGV cơ hữu trong khoa chưa đạt chuẩn và những GV trẻ (dự nguồn) có năng lực chuyên môn, có phẩm chất đạo đức, có tư cách nhà giáo, giỏi nghề cần được tăng cường đào tạo, bồi dưỡng nâng cao về chuyên môn, được qui hoạch theo thứ tự ưu tiên theo lộ trình để đào tạo ở trong và ngoài nước, tạo ra những điểm nhấn trong ngành QLVH. Đồng thời đổi mới công tác đào tạo bồi dưỡng GV, biến quá trình đào tạo bồi dưỡng thành tự đào tạo bồi dưỡng. Tạo điều kiện thuận lợi về cơ sở vật chất, trang thiết bị, môi trường giúp đội ngũ nhà giáo có ý thức tự học mọi lúc, mọi nơi, qua hoạt động thực tiễn để rút ra những bài học kinh nghiệm cho bản thân.

4.2. Tạo môi trường nâng cao năng lực chuyên môn

– Đối với công tác bồi dưỡng GV, căn cứ vào kết quả khảo sát năng lực GV từ đó xác định mục tiêu, nội dung và hình thức, thời gian, địa điểm, giảng viên tham gia bồi dưỡng theo chuyên đề phù hợp. Cần mở các lớp đào tạo bồi dưỡng nâng cao năng lực chuyên môn ngắn hạn, có tính chuyên sâu, những chuyên đề mới hấp dẫn do những chuyên gia giàu kinh nghiệm, tâm huyết giỏi nghề thực hiện. Đồng thời căn cứ vào kết quả khảo sát, theo lộ trình cử giảng viên có năng lực chuyên môn, thành thạo ngoại ngữ được đào tạo chuyên sâu ở trong và ngoài nước về lĩnh vực/ngành nghề mà GV có sở trường năng lực, nhằm phát huy triệt để khả năng của từng GV và tạo được điểm nhấn trong đào tạo ngành QLVH.

– Định kỳ tổ chức hội thi, hội giảng từ cấp bộ môn/khoa/trường và cấp cao hơn để ĐNGV có cơ hội, có điều kiện tham gia, thông qua đó cá nhân GV tự nâng cao được trình độ cho bản thân.

– Thường xuyên tổ chức các buổi tọa đàm, trao đổi kinh nghiệm giữa các cơ sở GDĐH có đào tạo ngành QLVH. Xây dựng kế hoạch phối hợp với các nhà tuyển dụng trong nghiên cứu khoa học (NCKH) ứng dụng và chuyển giao công nghệ về lĩnh vực QLVH, thông qua hoạt động NCKH, GV có điều kiện tiếp cận với tư duy khoa học, vận dụng năng lực nghiên cứu vào giảng dạy. Đây là lĩnh vực đặc thù nên việc xây dựng kế hoạch năm học cần có những chỉ tiêu cụ thể để GV có điều kiện tiếp cận và chủ động thực hiện. Các vấn đề về văn hóa gồm: đạo đức, lối sống, phong tục tập quán, cưới xin, ma chay, lễ hội, tiếp biến văn hóa, sưu tầm văn hóa vật thể, phi vật thể và những hoạt động VHNT khác rất cần được nghiên cứu.

– Hoàn thiện cơ chế quản lý, định mức lao động, NCKH, chính sách ưu đãi nhà giáo phù hợp. Tham mưu ban hành chính sách thu hút, động viên GV có trình độ chuyên môn cao có học hàm, học vị, danh hiệu…về khoa QLVH công tác. Bên cạnh đó chính sách xã hội như chế độ khám chữa bênh, thăm quan nghỉ mát và các khoản thu nhập khác ngoài lương được hưởng theo thu nhập tăng thêm cần được điều chỉnh phù hợp và kịp thời.

4.3. Sắp xếp luân chuyển

 Để thực hiện được giải pháp phát triển ĐNGV ngành QLVH cần thỏa mãn các điều kiện sau:

             Thứ nhất: đánh giá đúng thực trạng ĐNGV nhà trường, dự báo nhu cầu phát triển ĐNGV, căn cứ vào nhiệm vụ đào tạo, qui mô phát triển nhà trường, nhu cầu đào tạo nhân lực của ngành QLVH để làm cơ sở cho việc lập kế hoạch ngắn hạn, trung hạn và dài hạn cho phù hợp với từng cơ sở GDĐH;

Thứ hai: dân chủ hóa trong xây dựng, hoạch định chiến lược phát triển ĐNGV. Nâng cao ý thức trách nhiệm của các cấp quản lý, xác định nhu cầu, hình thức đào tạo bồi dưỡng ĐNGV phù hợp và khả thi;

Thứ ba: nhà trường phải có hệ thống tiêu chí đánh giá năng lực GV, có chính sách đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ ĐNGV.

5. Kết luận

Ngành QLVH thuộc nhóm khoa học xã hội với sự liên kết liên ngành, ngoài phần kiến thức đại cương theo qui định chung, thì cơ sở ngành, kiến thức ngành và chuyên ngành được thiết kế một cách hợp lý, một số chuyên ngành thuộc nhóm nghệ thuật có tính đặc thù như: âm nhạc, sân khấu, mỹ thuật, múa, tổ chức sự kiện…rất cần được quan tâm, là yêu cầu đặt ra cho công tác quản lý và qui hoạch ĐNGV. Đào tạo cử nhân ngành QLVH đáp ứng nhu cầu xã hội thì cần có một hệ thống giải pháp mang tính đồng bộ, có mối liên hệ biện chứng chặt chẽ với nhau. ĐNGV quyết định chất lượng và thương hiệu của một nhà trường do đó cần phải đầu tư để đạt chuẩn về trình độ. Mặt khác đối với GV ngành QLVH, ngoài năng lực kinh nghiệm giảng dạy như những giảng viên khác, thì rất cần những giảng viên/nhà giáo tâm huyết yêu nghề, có trình độ chuyên môn sâu và thành thạo kỹ năng kỹ xảo, những tố chất hoạt động VHNT. Là những điều kiện quan trọng để nâng cao chất lượng ĐNGV. Tuy nhiên, cần phải biết khai thác ĐNGV sao cho họ tự nguyện phát huy sở trường, năng lực, kinh nghiệm, “xả thân vì sự nghiệp” điều này sẽ phụ thuộc vào năng lực quản lý, lãnh đạo của nhà trường, nghệ thuật dùng người của người lãnh đạo và cơ chế, chính sách của nhà nước. Quản lý tốt ĐNGV sẽ làm cho chương trình đào tạo được vận hành một cách thông suốt, chất lượng giáo trình, bài giảng sẽ được nâng cao, phương pháp giảng dạy sẽ được đổi mới và trang thiết bị phục vụ giảng dạy sẽ được khai thác một cách hiệu quả.

 

Tài liệu tham khảo

1. Từ điển Giáo dục học (2001), Nxb Từ điển bách khoa, Hà Nội.

2. Từ điển bách khoa Việt Nam (2010), Nxb Khoa học. Hà Nội

3. Phan Hồng Giang, Bùi Hoài Sơn (2014), Quản lý văn hóa Việt Nam trong tiến trình đổi mới và hội nhập quốc tế, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

4. Phan Văn Tú, Phạm Bích Huyền (2009), Về ngành Quản lý văn hóa, tạp chí văn hóa nghệ thuật, số 297 tháng 03-2009, Hà Nội.

5. http://vi.Wikipedia.org/wiki/

6. Nguyễn Thị Mỹ Lộc (2003) Lý luận đại cương về quản lý, Đại học sư phạm, Trường cán bộ và quản lý GD & ĐT, Hà Nội.

7. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2003), Điều lệ trường đại học. Nxb Giáo dục, Hà Nội.

8. Chương trình khung đào tạo (2014), Ban hành kèm theo Quyết định số 232/QĐ-ĐHVH HCM  ngày 14/4 /2014 của Hiệu trưởng, Trường Đại học Văn hóa, Tp Hồ Chí Minh.

9. Bành Tiến Long (2007), Đào tạo theo nhu cầu xã hội ở Việt Nam – thực trạng và giải pháp, Tạp chí khoa học giáo dục, số 17 tháng 02, Viện khoa học giáo dục Việt Nam, Hà Nội.

10. Phạm Thành Nghị (2000), Quản lý chất lượng giáo dục đại học, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội.

11. Nhiều tác giả (2014), Đổi mới công tác đào tạo đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội và hội nhập quốc tế, Kỷ yếu hội thảo, Đại học Văn hóa, Tp Hồ Chí Minh.

 

 

Một Số Giải Pháp Phát Triển Đội Ngũ Giảng Viên Trường Cao Đẳng Hàng Hải Đáp Ứng Yêu Cầu Đổi Mới Giáo Dục

Một số giải pháp phát triển đội ngũ giảng viên trường cao đẳng Hàng hải đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục

Written by

[7] BIMCO (2018), The Baltic and International Maritime Council Review 2018, Book Production Consultants Plc.

Bài viết đã đề xuất được các giải pháp quản lý phát triển ĐNGV đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục và hội nhập quốc tế; đáp ứng yêu cầu-nhiệm vụ trước mắt cũng như lâu dài của ngành HH Việt Nam. Cần thực hiện tốt, đồng bộ những giải pháp đã đề xuất, đồng thời kết hợp với việc thực hiện tốt những nội dung sau: Xây dựng chiến lược quản lý phát triển ĐNGV HH đến năm 2022, tầm nhìn đến năm 2030. Bổ sung, hoàn thiện cơ chế chính sách một cách đồng bộ đối với ĐNGV HH để GV yên tâm với công việc giảng dạy, say mê NCKH và tham gia tích cực vào kế hoạch đào tạo-bồi dưỡng của nhà trường, đồng thời thường xuyên tự đào tạo-bồi dưỡng. Bảo đảm bình đẳng về cơ hội đào tạo, tuyển dụng, bồi dưỡng và tôn vinh ĐNGV trong cơ sở giáo dục HH công lập và ngoài công lập.

– NCKH là một loại hình công việc rất khó, do đó nhà trường và Bộ chủ quản cần quan tâm đầu tư thực sự đúng mức cho công việc này.

c. Phương pháp thực hành và thực hành nâng cao: Phương pháp này áp dụng cho những người công tác ở xưởng nhà trường và đi tàu, những giảng viên học chuyên ngành kỹ thuật không phải là ngành Hàng hải, cần được đào tạo-bồi dưỡng về chuyên ngành Hàng hải để có thể đào tạo có chất lượng, hiệu quả.

More in this category:

« Một số vấn đề cơ bản về đào tạo trực tuyến giáo dục nghề nghiệp

Mô hình tổ chức phát triển kỹ năng nghề nghiệp của Nhật Bản »

Phát Triển Văn Hóa, Xã Hội Phục Vụ Tốt Hơn Nhu Cầu Của Nhân Dân

Trong 5 năm qua, Đảng bộ phường 1 đã lãnh đạo, chỉ đạo hệ thống chính trị của phường hoàn thành 10/13 chỉ tiêu Nghị quyết và thực hiện tốt chương trình trọng điểm của phường. Đồng thời phát huy truyền thống đoàn kết, tập trung huy động mọi nguồn lực đẩy mạnh phát triển thương mại dịch vụ, thúc đẩy kinh tế ngày càng phát triển; tình hình an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội được giữ vững; thực hiện tốt công tác chỉnh trang đô thị, bảo vệ môi trường, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần nhân dân, đảm bảo an sinh xã hội; ổn định an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội.

Về phương hướng, mục tiêu, chỉ tiêu, nhiệm vụ và giải pháp trong nhiệm kỳ 2020 – 2025, Đại hội xác định tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng bộ. Xây dựng Đảng bộ, chính quyền, MTTQ và các đoàn thể vững mạnh. Phát triển kinh tế theo hướng thương mại – dịch vụ chất lượng cao và bền vững. Nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện tốt công tác chính sách, đảm bảo an sinh xã hội. Phấn đấu thực hiện và hoàn thành 13 chỉ tiêu, 6 chương trình và 1 công trình trọng điểm trong nhiệm kỳ XIV.

Phát biểu chỉ đạo tại Đại hội, Chỉ huy trưởng Ban Chỉ huy Quân sự quận Tân Bình Nguyễn Trung Sơn yêu cầu trong nhiệm kỳ mới, Ban Chấp hành Đảng bộ phường cần tập trung lãnh đạo, chỉ đạo phát triển kinh tế, huy động tối đa nguồn lực nhằm chuyển đổi cơ cấu kinh tế, thương mại dịch vụ của phường, quan tâm hơn nữa trong việc hỗ trợ các doanh nghiệp của địa phương; thực hiện tốt các công trình, chương trình đã đề ra; quan tâm công tác phát triển văn hóa, xã hội phục vụ tốt hơn nhu cầu của nhân dân; giải quyết kịp thời các kiến nghị, bức xúc của nhân dân.

Đối với công tác xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị của phường, đồng chí đề nghị Ban Chấp hành nhiệm kỳ XIV cần nâng cao năng lực chiến đấu của Đảng, chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, đảng viên; tăng cường công tác kiểm tra, giám sát nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của các tổ chức Đảng, tổ chức chính trị – xã hội, quan tâm củng cố xây dựng các tổ chức hội, đoàn thể của địa phương nhằm thực hiện và hoàn thành xuất sắc các nhiệm vụ, mục tiêu kinh tế – xã hội trong nhiệm kỳ 2020 – 2025.

Tại Đại hội, các đại biểu đã bầu Ban Chấp hành khóa mới gồm 10/11 đồng chí (khuyết cơ cấu quân sự địa phương theo chỉ đạo của Ban Thường vụ Quận ủy). Đồng chí Châu Văn Tình tiếp tục được bầu làm Bí thư Đảng ủy phường 1, quận Tân Bình, nhiệm kỳ 2020 – 2025.

Nâng Cao Chất Lượng Dạy Nghề Đáp Ứng Nhu Cầu Xã Hội

Dự và chủ trì Hội thảo có đồng chí Đào Ngọc Dung, Ủy viên Trung ương Đảng, Bộ trưởng Bộ Lao động TBXH; Thứ trưởng Huỳnh Văn Tí và Tổng Cục trưởng Tổng cục Dạy nghề Nguyễn Hồng Minh. Tham dự Hội thảo còn có bà Nguyễn Thị Hằng, nguyên Bộ trưởng Bộ Lao động – TBXH, Chủ tịch Hiệp hội Dạy nghề và Nghề công tác xã hội Việt Nam; lãnh đạo chủ chốt của 17 tỉnh có công tác dạy nghề phát triển cùng các chuyên gia trong nước và quốc tế…

Lãnh đạo Bộ Lao động – TBXH chủ trì Hội thảo

Phát biểu khai mạc hội thảo, Bộ trưởng Bộ Lao động – TBXH Đào Ngọc Dung nhấn mạnh: Nhân lực nói chung, chất lượng nhân lực kỹ thuật trực tiếp nói riêng ngày càng trở thành nhân tố quyết định sự phát triển cũng như năng lực cạnh tranh của mỗi quốc gia, đây là một trong 3 khâu đột phá chiến lược đã được Đảng và Nhà nước xác định trong quá trình CNH – HĐH đất nước. Đánh giá chung là tuy có nhiều cải thiện, nhưng lực lượng lao động nước ta chất lượng còn thấp với tỷ lệ lao động phổ thông, không có văn bằng chứng chỉ quá lớn, cơ cấu trình độ của lực lượng lao động hiện tại là hình thang ngược với tỷ lệ lao động có trình độ đại học quá cao. Trước đây, số lượng, tuổi lao động và giá lao động là một trong những lợi thế của nền kinh tế Việt Nam thì ngày nay, chất lượng lao động mới là yếu tố quyết định nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia và tạo ra giá trị gia tăng cao cho nền kinh tế. Điều này đòi hỏi chúng ta phải gấp rút nâng cao chất lượng đào tạo lao động kỹ thuật trực tiếp chứ không chỉ chú trọng vào việc tăng quy mô đào tạo.

Bộ trưởng Đào Ngọc Dung phát biểu khai mạc

Theo Tổng Cục trưởng Tổng cục Dạy nghề (Bộ Lao động – TBXH) Nguyễn Hồng Minh báo cáo tại Hội thảo: Trong năm 2015, cả nước có trên 1.400 cơ sở dạy nghề, trong đó có 45 trường được chọn để tập trung đầu tư thành trường chất lượng cao vào năm 2020. Đồng thời đã phê duyệt quy hoạch các nghề trọng điểm cấp độ quốc gia, khu vực, quốc tế theo đề xuất của các Bộ, ngành, địa phương. Các ngành nghề đào tạo đa dạng, đến nay đã có tổng số 910 nghề đào tạo ở trình độ cao đẳng và trình độ trung cấp. Điều kiện đảm bảo chất lượng dạy nghề ngày càng được tăng cường, đã góp phần quan trọng vào việc nâng cao chất lượng đào tạo, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao về lao động có chất lượng cho các khu công nghiệp, khu kinh tế và các doanh nghiệp, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế. Theo điều tra của Viện nghiên cứu khoa học dạy nghề đối với các doanh nghiệp cho thấy, có 80% đến 85% số lao động qua đào tạo nghề được sử dụng đúng trình độ đào tạo. Từ năm 2011 – 2015 đã tổ chức tuyển sinh đào tạo nghề cho trên 400 nghìn người, khoảng 86% trong tổng số đã có việc làm tại các khu công nghiệp, cụm công nghiệp, các doanh nghiệp trên địa bàn cả nước và xuất khẩu lao động.

Các chuyên gia và đại biểu tham dự Hội thảo

Đối với các giải pháp về nâng cao chất lượng dạy nghề trong thời gian tới, giải pháp “Đổi mới quản lý nhà nước về giáo dục nghề nghiệp” và “Phát triển đội ngũ giáo viên, giảng viên và cán bộ quản lý giáo dục nghề nghiệp” là 2 giải pháp đột phá. Theo đó, chương trình, nội dung đào tạo phù hợp, linh hoạt, sát với thực tiễn, đáp ứng yêu cầu của doanh nghiệp; lấy thực hành là chính, thời gian học lý thuyết tối đa 30%, thời gian thực hành từ 70% trở lên… Tổng cục dạy nghề đẩy nhanh việc rà soát sắp xếp mạng lưới cơ sở giáo dục nghề nghiệp (GDNN) theo hướng giảm đầu mối, tăng quy mô, mở rộng ngành nghề đào tạo, phân tầng chất lượng đào tạo; tái cấu trúc hệ thống GDNN gắn với nhu cầu của thị trường lao động trong nước và quốc tế, đáp ứng nhu cầu học tập suốt đời của người dân; Giao quyền tự chủ cho các nhà trường, khơi dậy tiềm năng, phát huy năng lực của các nhà trường…

Quang cảnh buổi Hội thảo

Tại Hội thảo này, chuyên gia đến từ 8 nước giới thiệu các mô hình đào tạo nghề và khá thành công mà Việt Nam có thể học tập. Đơn cử như hệ thống đào tạo nghề của Đức với mô hình đào tạo kép đáp ứng nhu cầu xã hội gắn dạy nghề tại doanh nghiệp rất thành công, đáp ứng nhu cầu thị trường lao động. Đặc biệt, theo bà Nguyễn Thị Thanh Nhàn, Tổng Giám đốc AIC thì kinh nghiệm của các nước cho thấy Việt Nam phải xây dựng hệ thống dữ liệu để dự báo được cung – cầu, nhất là cầu thị trường lao động để từ đó xác định từng ngành nghề đào tạo. Một số tỉnh thành Việt nam đã xây dựng dữ liệu, sàn giao dịch việc làm và bước đầu thành công. Do đó, Bộ LĐTBXH có liên kết và dữ liệu chung để xác định cung cầu thị trường lao động, từ đó có đầu tư, hình thành nghề trọng tâm phù hợp với thị trường lao động.

Chuyên gia đến từ Cộng hòa Liên bang Đức chia sẻ kinh nghiệm tại Hội thảo

Hội thảo cũng đã được nghe những tham luận của các tỉnh về giải pháp để nâng cao chất lượng đào tạo nghề và giải quyết việc làm của địa phương; đồng thời cũng đề ra một số giải pháp về quy hoạch mạng lưới, về phát triển hệ thống kiểm định chất lượng và đảm bảo chất lượng, phát triển đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý và đổi mới cơ chế chính sách, gắn kết giữa nhà trường và doanh nghiệp…

Kết luận Hội thảo, Bộ trưởng Bộ Lao động – TBXH Đào Ngọc Dung cho rằng: Cùng với những cơ hội trong quá trình hội nhập, năng suất lao động của Việt Nam vẫn còn thấp, sự không đồng đều về chất lượng nhân lực trong nước. Cơ cấu trình độ đào tạo của lực lượng lao động có bằng cấp không phù hợp với yêu cầu và đi ngược lại xu thế chung của thế giới, lao động có bằng đại học quá cao so với lao động chuyên môn kỹ thuật, lành nghề. Do đó, từ kinh nghiệm dạy nghề của thế giới, thực tiễn tại địa phương, Bộ LĐTBXH sẽ triển khai mạnh mẽ các giải pháp để nâng cao chất lượng dạy nghề, đáp ứng nhu cầu thị trường lao động.

Chí Tâm

Bạn đang đọc nội dung bài viết Giải Pháp Phát Triển Đội Ngũ Giảng Viên Khoa Qlvh Ở Trường Đại Học Văn Hóa Tp. Hồ Chí Minh Đáp Ứng Nhu Cầu Xã Hội trên website Photomarathonasia.com. Hy vọng một phần nào đó những thông tin mà chúng tôi đã cung cấp là rất hữu ích với bạn. Nếu nội dung bài viết hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!