Cập nhật nội dung chi tiết về Giải Pháp Đối Với Vấn Đề Đại Diện (Agency Problem) Trong Doanh Nghiệp mới nhất trên website Photomarathonasia.com. Hy vọng thông tin trong bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu ngoài mong đợi của bạn, chúng tôi sẽ làm việc thường xuyên để cập nhật nội dung mới nhằm giúp bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.
Các vấn đề trọng tâm và toan tính của các bên trong mối quan hệ đại diện dẫn đến mâu thuẫn tiềm ẩn trong doanh nghiệp quản lý, và giải pháp giải quyết thông qua sự điều tiết của cơ chế thị trường, cụ thể của thị trường tài chính và thị trường lao động.
1. Cân đối kinh tế của các bên trong quan hệ đại diện
Mẫu thuẫn cơ bản và luôn tiềm tàng bùng phát trong mối quan hệ đại diện giữa người ủy quyền (cổ đông) và người được ủy quyền (người đại diện) xuất phát từ mục đích khác nhau của các bên khi tham gia. Trong khi các cổ đông, những người không điều hành quản lý trực tiếp và bị hạn chế về thông tin, theo đuổi nguyên tắc tối đa hóa lợi nhuận, thì người đại diện lợi dụng quyền hạn và thông tin mà mình sở hữu trong quá trình quản lý doanh nghiệp để theo đuổi nguyên tắc tối đa hóa tiện ích của mình. Chính sự tính toán lợi ích này của mỗi bên làm phát sinh chi phí đại diện và tính cấp thiết cần phải nghiên cứu phân tích sâu sắc mối quan hệ đại diện giữa các bên trong doanh nghiệp.
Giả sử rằng chủ doanh nghiệp tự điều hành và quản lý doanh nghiệp của mình, chi phí đại diện sẽ không phát sinh và anh ta thu được tổng thù lao Õ. Ngược lại, nếu chủ doanh nghiệp ủy quyền quản lý cho người đại diện, anh ta sẽ phải chịu chi phí chi phí giám sát M (Monitoring expenditures) và thất thoát tiềm ẩn R (Residual loss) gắn liền với rủi ro phát sinh từ tính cơ hội của nhà quản lý trong hoạt động điều hành và quản lý doanh nghiệp. Như vậy, khi quan hệ đại diện xuất hiện, thực thu của chủ doanh nghiệp (cổ đông) bằng: Õ – M – R.
Cân đối kinh tế trong quan hệ đại diện
Theo đuổi mục đích tối đa hóa lợi nhuận của mình, chủ doanh nghiệp sẽ tìm cách giảm thiểu thất thoát R từ hoạt động quản lý cơ hội của nhà quản lý; tuy nhiên điều này đồng nghĩa với chi phí giám sát M tăng và ngược lại. Thực tế là M và R luôn tỉ lệ nghịch nhau. Vì vậy, chủ doanh nghiệp cần phải cân đối giữa giảm R và tăng M.
Đối với người đại diện, anh ta được hưởng thù lao W (Wage) cho hoạt động quản lý của mình, đồng thời phải chịu một chi phí B (Bonding expenditures) để thông báo, đảm bảo, chứng minh rằng mình đã đang và sẽ thực hiện đúng hợp đồng ủy quyền theo mục đích của chủ doanh nghiệp. Đồng thời, nhà quản lý có thể được hưởng lợi R* từ hoạt đông quản lý cơ hội của mình trong quá trình thực hiện công việc; về bản chất, R* chính là một phần trong thất thoát tiềm ẩn R của chủ doanh nghiệp. Như vậy, tổng thù lao của nhà quản lý bằng: W + R* – B.
Theo đuổi mục đích tối đa hóa tiện ích, người đại diện tìm cách tăng lợi ích cơ hội R* (giả sử lương đã được thỏa thuận và cố định trong hợp đồng ủy quyền); tuy nhiên cũng đồng nghĩa anh ta phải chịu nhiều chi phi đảm bảo B hơn và ngược lại. Hai đại lượng này thực tế cũng tỉ lệ nghich với nhau. Vì vậy, nhà quản lý cũng phải đối mặt với bài toán cân đối giữa tăng R* và tăng B.
Khái quát lại quan hệ đại diện, có thể thấy tính cơ hội có nguồn gốc từ sự tính toán của nhà quản lý, chứ không phải xuất phát từ bản chất của anh ta; và chính sự tính toán này cũng là nguồn gốc để có thể giải quyết mọi vấn đề phát sinh trong quan hệ đại diện. Tuy nhiên cần phải hiểu rằng sự tính toán này không chỉ giới hạn trong phạm vi các đại lượng định lượng (như thu nhập thuần của nhà quản lý) mà còn bị chi phối bởi các đại lượng định tính (như uy tín, danh vọng, quyền lực, an toàn nghề nghiệp của nhà quản lý) được đánh giá và so sánh trong cũng như ngoài doanh nghiệp. Trong trường hợp này, một lần nữa thị trường lại thể hiện vai trò của mình trong việc tự động cân bằng lợi ích của các bên và hạn chế tính cơ hội của các bên trong giao dịch (xem chương 1 về bàn tay vô hình).
2. Sự điều tiết của thị trường
Trong phần trên, tác giả đã phân tích bản chất mối quan hệ đại diện giữa cổ đông và nhà quản lý. Mâu thuẫn này phát sinh từ những toán tính các bên trong mối quan hệ ràng buộc lẫn nhau và chỉ được giải quyết thông qua sự điều tiết của cơ chế thị trường. Cụ thể, hai thị trường cơ bản nhất cho phép giới hạn tính cơ hội của nhà quản lý và đưa họ vào khuôn phép là thị trường tài chính và thị trường lao động.
Nếu chi phí giám sát lớn hơn giá trị bị thất thoát, sẽ không có một hành động cụ thể nào từ phía các cổ đông; giá trị cổ phiếu có thể tiếp tục giảm tỉ lệ nghịch với tiện ích tăng của nhà quản lý;
Ngược lại, nếu chi phí này nhỏ hơn giá trị bị thất thoát, nhà quản lý sẽ phải đối diện với sự giám sát chặt chẽ hơn từ phía các cổ đông, thậm chí bị sa thải, thay thế; trong trường hợp này, giá trị cổ phiếu sẽ tăng và tiện ích của nhà quản lý sẽ bị giảm thiểu.
Như vậy, thị trường tài chính thực hiện điều tiết những toan tính của nhà quản lý và tiến đến giải quyết vấn đề phát sinh trong mối quan hệ đại diện (Easterbrook, 1984). Đối với các bên, những tín hiệu như trên từ thị trường tài chính là cơ sở tính toán cân đối lợi ích của mình trong sự ràng buộc tỷ lệ nghịch với bên còn lại.
Ở một chiều hướng khác, thị trường lao động cũng góp phần điều tiết mối quan hệ đại diện thông qua cơ chế giới hạn tính cơ hội của nhà quản lý (Fama, 1980). Thực tế là sự điều hành và quản lý kém hiệu quả và cơ hội của nhà quản lý sẽ ảnh hưởng xấu đến uy tín của anh ta trên thị trường lao động. Điều này có thể dẫn đến thu nhập cùa nhà quản lý giảm khi so sánh trên mặt bằng thị trường và sẽ gây trở ngại lớn đối với nhà quản lý để có thể tìm được một công việc tương tự nếu bị sa thải (Kaplan và Reishus, 1990). Đồng thời, tính cơ hội của nhà quản lý cũng bị kiểm soát và giới hạn bởi chính các nhà quản lý khác trong nội bộ doanh nghiệp: nhà quản lý cấp dưới giám sát cấp cao hơn nhằm mục đích thăng tiến và ban quản lý nói chung cũng thực hiện chức năng này trong doanh nghiệp. Như vây, có thể thấy, cùng với sự tác động của thị trường lao động nói chung, thị trường lao động nội tại của doanh nghiệp cũng tham gia điều tiết mối quan hệ đại diện giữa cổ đông và nhà quản lý.
Nguồn: Phan Thanh Tú, Vũ Mạnh Chiến, Phạm Văn Kiệm, Lưu Đức Tuyến, Nguyễn Thị Hồng Nga (2018), Học Thuyết Doanh Nghiệp, NXB Lao Động – Xã Hội, trang 230-233.
Doanh Nghiệp Với Vấn Đề Bảo Vệ Môi Trường
Việc thực hiện chính sách và pháp luật bảo vệ môi trường, hay trách nhiệm với xã hội tại các doanh nghiệp ở nước ta còn tồn tại nhiều khó khăn và bất cập do nhiều nguyên nhân khác nhau. Trong đó có nguyên nhân là do bản thân các doanh nghiệp chưa nhận thức được một cách đúng đắn và đầy đủ về mối quan hệ giữa hoạt động kinh doanh sản xuất của mình với vấn đề môi trường. Vì vậy chúng ta cần làm rõ mối quan hệ này nhằm phần nào góp phần thay đổi nhận thức của doanh nghiệp, vì chỉ có thay đổi được nhận thức thì mới thay đổi được hành động của chính bản thân mình.
Trước hết, đây là mối quan hệ biện chứng tác động lẫn nhau. Hoạt động của doanh nghiệp có những tác động tích cực và tiêu cực tới vấn đề môi trường và ngược lại môi trường cũng góp phần tạo nên những thuận lợi hay khó khăn trong việc sản xuất. Đồng thời, chúng ta cũng phải khẳng định mọi hoạt động sản xuất kinh doanh đều ảnh hưởng đến môi trường. Nếu đòi hỏi hoạt động sản xuất kinh doanh hoàn toàn không ảnh hưởng đến môi trường thì chắc chắn sẽ không có bất kỳ một hoạt động kinh tế nào xảy ra. Vấn đề cần quan tâm ở đây là mức độ tác động như thế nào (nguy cơ gây hủy hoại, tàn phá môi trường; khả năng hồi phục của môi trường; sự ảnh hưởng bất lợi so với hiệu quả đem lại…).
Tác động của hoạt động của doanh nghiệp đến môi trường
Các hoạt động của doanh nghiệp luôn tác động đến môi trường. Những tác động này bao gồm cả những tác động tích cực và tác động tiêu cực.
* Tác động tích cực
Thứ nhất, trong chừng mực nhất định, hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp chẳng hạn như hoạt động du lịch có thể việc xây dựng các công viên vui chơi giải trí, công viên cây xanh, hồ nước nhân tạo, các làng văn hóa du lịch… có thể tạo nên môi trường mới hay góp phần cải thiện môi trường.
Thứ hai, hoạt động của doanh nghiệp tạo điều kiện vật chất cho việc thực hiện các hoạt động động bảo vệ môi trường. Hoạt động kinh doanh sẽ tạo ra nguồn đóng góp cho ngân sách nhà nước, là một nguồn tài chính quan trọng cho hoạt động bảo vệ môi trường. Một số lĩnh vực kinh doanh, như hoạt động nhập khẩu và sản xuất thiết bị phục vụ công tác bảo vệ môi trường, có tác động tích cực cho việc giải quyết các vấn đề môi trường. Ví dụ như sự phát triển của công nghệ sinh học và gia tăng thương mại các sảm phẩm của nó sẽ góp phần tích cực giúp làm giảm áp lực lên khai thác và sử dụng các sản phẩm có nguồn gốc thiên nhiên.
Thứ ba, việc phát triển ngành công nghiệp tái chế chất thải góp phần cải thiện chất lượng môi trường và giải quyết tình trạng ô nhiễm môi trường do chất thải.
*Tác động tiêu cực
Các hoạt động của doanh nghiệp có những tác động tiêu cực đến môi trường như:
Thứ nhất, hoạt động kinh doanh phát triển làm tăng nhu cầu khai thác các nguồn tài nguyên thiên nhiên. Các nguồn tài nguyên thiên nhiên là nguyên, nhiên, vật liệu trong hoạt động sản xuất, kinh doanh. Việc khai thác quá mức tài nguyên thiên nhiên để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của hoạt động sản xuất, kinh doanh có thể tạo ra những ảnh hưởng bất lợi cho môi trường. Bên cạnh đó, với các hệ thống dây chuyền công nghệ cũ thì việc sử dụng kém hiệu quả các nguồn tài nguyên thiên nhiên là một hệ quả tất yếu.
Thứ hai, Hoạt động sản xuất, kinh doanh phát triển cũng làm phát sinh nhiều yếu tố ảnh hưởng tới môi trường, nhất là vấn đề chất thải. Lượng chất thải công nghiệp này dễ gây suy thoái, ô nhiễm môi trường xung quanh như môi trường đất, môi trường nước, ảnh hưởng lớn tới sức khỏe của con người.
Thứ ba, hoạt động kinh doanh trong hội nhập kinh tế quốc tế có thể làm phát sinh những vấn đề môi trường thông qua hoạt động nhập khẩu những sản phẩm hàng hóa không thân thiện với môi trường vào Việt Nam, trong đó có thể là những chất thải độc hại.
Tác động của vấn đề bảo vệ môi trường tới hoạt động của doanh nghiệp
Phụ thuộc vào chất lượng môi trường và các vấn đề môi trường phát sinh, môi trường có thể tác động tích cực hoặc tác động tiêu cực tới hoạt động kinh doanh.
* Tác động tích cực
Môi trường có những tác động tích cực đến hoạt động của doanh nghiệp như:
Thứ nhất, các thành phần môi trường, đặc biệt là các nguồn tài nguyên, là một trong những điều kiện để phát triển hoạt động sản xuất kinh doanh. Các nguồn tài nguyên đó là nguyên liệu phục vụ hoạt động sản xuất. Tùy vào nguồn tài nguyên ở từng vùng mà ở đó sẽ phát triển những hoạt động sản xuất kinh doanh khác nhau. Chẳng hạn như ở Quảng Ninh, ngành công nghiệp khai thác than phát triển bởi đây là nơi có nhiều mỏ than với trữ lượng lớn…
Thứ hai, chất lượng môi trường phù hợp sẽ bảo đảm cho hoạt động kinh doanh ổn định và bền vững thông qua sự ổn định về chất lượng sức lao động, chất lượng nguồn nguyên, nhiên, vật liệu.
* Tác động tiêu cực
Vấn đề môi trường cũng có những tác động đến doanh nghiệp như:
Thứ hai, chất lượng môi trường không bảo đảm sẽ ảnh hưởng tới tính bền vững trong hoạt động kinh doanh. Những bất ổn này có thể là sự bất ổn về nguồn cung cho sản xuất kinh doanh, những bất ổn phát sinh từ thiệt hại do ô nhiễm môi trường gây ra cho các chủ thể kinh doanh.
Từ sự nhận thức rõ ràng về mối quan hệ giữa hoạt động của doanh nghiệp và môi trường, thiết nghĩ các doanh nghiệp cần nên áp dụng đồng bô ba nhóm giải pháp sau:
Nhóm các giải pháp về nhận thức của doanh nghiệp: Các doanh nghiệp cần thay đổi nhận thức về bảo vệ môi trường nói chung và bảo vệ môi trường trong lĩnh vực thương mại nói riêng, tiến tới thay đổi hành vi của doanh nghiệp trong quá trình sản xuất, kinh doanh. Đặc biệt áp dụng giải pháp công nghệ sạch.
Nhóm giải pháp nâng cao năng lực tài chính của doanh nghiệp nhằm mục đích phát triển hoạt động của mình mà không gây gây ảnh hưởng xấu tới môi trường ngoài ra còn có kinh phí đầu tư cho việc bảo vệ môi trường.
Nhóm giải pháp nhằm hoàn thiện bộ máy quản lý môi trường tại doanh nghiệp. Cụ thể là cần có kế hoạch đào tạo nguồn nhân lực có trình độ chuyên môn về môi trường nhằm áp dụng các quy định của pháp luật môi trường có khả năng vận hành các hệ thống xử lý, phân tích kiểm tra mức độ đảm bảo tiêu chuẩn môi trường của các sản phẩm và chất thải…
Nguyễn Thanh Hải
Các Giải Pháp Marketing Đối Với Doanh Nghiệp Khi Khởi Nghiệp
Việc đánh giá lại chiến lược Marketing trong xây dựng thương hiệu để đảm bảo sự hợp lý có thể là một công cụ đầy sức mạnh tác động đến sự thay đổi trong các tổ chức và thương hiệu. Vấn đề này cần được lên kế hoạch cẩn thận, thận trọng và cần có kinh nghiệm, nhưng rõ ràng nó có thể giúp thương hiệu và tổ chức của bạn tiến lên một cấp độ mới. Chúng đặc biệt quan trọng đối với những nhà quản lý, những người có trách nhiệm tạo ra, xây dựng và duy trì thương hiệu.
Xây dựng hình ảnh doanh nghiệp.
Khi mới ra đời, doanh nghiệp có một hình ảnh nhất định từ chính nhận thức cua khách hàng và công chúng, cho dù chủ doanh nghiệp có muốn điều đó hay không. Vì vậy, nếu không kiểm soát điều này ngay từ đầu, doanh nghiệp sẽ có thể mang một hình ảnh không như mong muốn và khó sửa đổi về sau. Hình ảnh không chỉ là những yếu tố bên ngoài, mà còn bao gồm cả những quan điểm, niềm tin, suy nghĩ, cảm nhận và tầm nhìn của khách hàng về doanh nghiệp.
Hình ảnh doanh nghiệp là điều vô cùng quan trọng và cần thiết
Xây dựng thương hiệu.
Ngày nay, người tiêu dùng bình thường cũng có thể nhận ra không ít logo của các doanh nghiệp. Điều mà doanh nghiệp cần làm là đảm bảo sao cho logo của mình cũng có được khả năng nhận diện như vậy từ lúc mới ra đời. Mục đích của doanh nghiệp là làm cho khách hàng dễ nhớ đến mình. Vì vậy, cần xây dựng một thương hiệu có hình ảnh đơn giản nhưng độc đáo. Hình ảnh và thiết kế của logo cùng cách trang trí văn phòng, trụ sở làm việc, đồng phục của nhân viên… là những yếu tố tạo nên hình ảnh của thương hiệu, do đó chúng cần phải được quan tâm ngay từ những ngày đầu tiên. Nếu xây dựng được một thương hiệu tốt thì uy tín của doanh nghiệp sẽ tăng lên cùng với sự phát triển của doanh nghiệp.
Quảng bá cho sản phẩm.
Doanh nghiệp có thể tạo ra sản phẩm tốt nhất trên thị trường nhưng nếu khách hàng không biết đến thì họ sẽ không mua nó. Vì vậy, doanh nghiệp phải làm cho khách hàng biết được sự có mặt của mình trên thị trường và dễ dàng liên hệ mua hàng của doanh nghiệp thay vì tìm đến các đối thủ cạnh tranh khác.
Gửi thư trực tiếp.
Việc gửi những lá thư trực tiếp đến người tiêu dùng có hiệu quả không kém việc gửi một bức thư điện tử. Đối với khách hàng, có một thứ gì đó để cầm trên tay dường như vẫn là một hình thức tiếp thị tốt hơn việc đọc thông tin trên màn hình máy tính.
Gửi thư tay
Phân khúc thị trường.
Doanh nghiệp có thể thử nghiệm nhiều thị trưởng khác nhau và tiếp thị nhiều đối tượng khách hàng khác nhau, nhưng không thể bán sản phẩm của mình cho tất cả khách hàng được. Hãy thử tiếp cận một số thị trường cụ thể và những khách hàng có khả năng hưởng lợi từ sản phẩm hay dịch vụ của doanh nghiệp nhiều nhất. Những tiêu chí phổ biến để phân khúc thị trường là tuổi tác, tôn giáo, giới tính và giá cả.
Tiếp thị bằng điện thoại.
Đừng nên “dội bom” khách hàng bằng những cuộc điện thoại tiếp thị. Nên biến cuộc điện thoại tiếp thị thành một cuộc hỏi thăm lịch sự hoặc đưa ra một lời mời chào cung cấp cho khách hàng một thứ gì đó miễn phí. Rất có thể vào cuối cuộc gọi, khách hàng sẽ tự nguyện mua hàng. Điều này sẽ làm giảm áp lực đáng kể cho các nhân viên bán hàng khi phải thực hiện các cuộc gọi cho những khách hàng chưa hề quen biết để chào hàng. Nói cách khác, khi nhân viên bán hàng bắt đầu cuộc điện thoại với khách hàng mà không hề đê cập đến chuyện mua bán thì khả năng khách hàng muốn tiếp tục câu chuyện rất cao.
Tiếp thị bằng điện thoại là hình thức rất phổ biến hiện nay
Tiếp thị qua Internet.
Một trang web được xây dựng hoàn chỉnh với sự giúp đỡ của các chuyên gia sẽ là một công cụ đắc lực để tăng cường sự nhận biết của khách hàng và tạo thêm lợi nhuận cho doanh nghiệp. Thực tế cho thấy thời gian “sống trên mạng” của nhiều khách hàng dài hơn thời gian dành cho bất cứ hoạt động nào khác trong ngày của họ.
Nỗ lực bán hàng.
Doanh nghiệp không thể tồn tại nếu không bán được hàng. Để bán được hàng, doanh nghiệp phải có thái độ thích hợp. Thái độ là một yếu tố có thể kiểm soát dễ dàng. Để bán hàng thành công, các nhân viên bán hàng cần phải có thái độ tích cực và có niềm tin đối với sản phẩm hay dịch vụ mà mình đang chào bán.
Nỗ lực trong bán hàng
Thử nghiệm và đánh giá.
Dù cho thực hiện bất cứ hoạt động tiếp thị nào thì doanh nghiệp vẫn phai theo dõi hiệu quả của nó, từ đó duy trì những hoạt động có tác dụng tốt nhất và loại bỏ những hoạt động không hiệu quả.
Lưu Ý Về Người Đại Diện Theo Pháp Luật Của Doanh Nghiệp
Thứ nhất, trách nhiệm của người đại diện theo pháp luật
Tại Điều 14 Luật Doanh nghiệp 2014 thì người đại diện theo pháp luật có những trách nhiệm sau đây:
Thực hiện các quyền và nghĩa vụ được giao một cách trung thực, cẩn trọng, tốt nhất nhằm bảo đảm lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp;
Trung thành với lợi ích của doanh nghiệp; không sử dụng thông tin, bí quyết, cơ hội kinh doanh của doanh nghiệp, không lạm dụng địa vị, chức vụ và sử dụng tài sản của doanh nghiệp để tư lợi hoặc phục vụ lợi ích của tổ chức, cá nhân khác;
Người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp chịu trách nhiệm cá nhân đối với những thiệt hại cho doanh nghiệp do vi phạm nghĩa vụ nêu trên.
Thứ hai, quyền và nghĩa vụ của người đại diện theo pháp luật
Người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp giữ chức danh Giám đốc hoặc Tổng giám đốc thì họ có các quyền và nghĩa vụ cơ bản sau:
Tổ chức thực hiện các nghị quyết của Chủ tịch công ty, Hội đồng thành viên, Hội đồng quản trị;
Tổ chức thực hiện kế hoạch kinh doanh và phương án đầu tư của công ty;
Ban hành quy chế quản lý nội bộ của công ty, trừ trường hợp Điều lệ công ty có quy định khác;
Bổ nhiệm, miễn nhiệm, bãi nhiệm các chức danh quản lý trong công ty, trừ các chức danh thuộc thẩm quyền của Chủ tịch công ty, Hội đồng thành viên, Hội đồng quản trị;
Ký kết hợp đồng nhân danh công ty, trừ trường hợp thuộc thẩm quyền của Chủ tịch công ty, Hội đồng thành viên, Hội đồng quản trị;
Kiến nghị phương án cơ cấu tổ chức công ty;
Trình báo cáo quyết toán tài chính hằng năm lên Chủ tịch công ty, Hội đồng thành viên, Hội đồng quản trị;
Kiến nghị phương án sử dụng lợi nhuận hoặc xử lý lỗ trong kinh doanh;
Tuyển dụng lao động;
Quyền và nghĩa vụ khác được quy định tại Điều lệ công ty, hợp đồng lao động mà Người đại diện theo pháp luật ký với Chủ tịch công ty, ký với công ty theo nghị quyết của Hội đồng thành viên, Hội đồng quản trị.
Tuy nhiên tùy thuộc vào cơ cấu tổ chức bộ máy hoạt động của từng loại hình doanh nghiệp thì Chủ tịch công ty, Chủ tịch hội đồng thành viên, Chủ tịch hội đồng quản trị sẽ kiêm Giám đốc hoặc Tổng giám đốc. Đối với các chức danh kiêm nhiệm như vậy ngoài quyền và nghĩa vụ của người đại diện theo pháp luật giữ chức danh Giám đốc hoặc Tổng giám đốc, những người này còn quyền và nghĩa vụ của Chủ tịch công ty, Chủ tịch hội đồng thành viên, Chủ tịch hội đồng quản trị do Hội đồng thành viên, Hội đồng quản trị bầu ra, họ có các quyền và nghĩa vụ cơ bản sau:
Chuẩn bị chương trình, kế hoạch hoạt động của Hội đồng thành viên, Hội đồng quản trị;
Chuẩn bị chương trình, nội dung, tài liệu họp Hội đồng thành viên, Hội đồng quản trị;
Triệu tập và chủ trì cuộc họp Hội đồng thành viên, Hội đồng quản trị;
Giám sát hoặc tổ chức giám sát việc thực hiện các nghị quyết của Hội đồng thành viên, Hội đồng quản trị;
Thay mặt Hội đồng thành viên, Hội đồng quản trị ký các nghị quyết của Hội đồng thành viên, Hội đồng quản trị;
Quyền và nghĩa vụ khác theo quy định của Luật Doanh nghiệp 2014 và Điều lệ công ty.
Thứ ba, cá nhân bị hạn chế không được làm người đại diện theo pháp luật của nhiều doanh nghiệp
Luật doanh nghiệp hiện nay không có quy định nào cấm một người có thể đại diện theo pháp luật của nhiều doanh nghiệp trừ trường hợp sau:
Cá nhân là đại diện theo pháp luật của một doanh nghiệp, tuy nhiên trong quá trình hoạt động doanh nghiệp không báo cáo thuế, không hoàn thành nghĩa vụ đóng thuế, doanh nghiệp không hoạt động nhưng không thực hiện thủ tục thông báo tạm ngừng hoạt động với cơ quan đăng ký kinh doanh và bỏ trôi doanh nghiệp.
Hiện nay, sau khi tiếp nhận hồ sơ đăng ký thành lập doanh nghiệp cơ quan đăng ký kinh doanh sẽ gửi thông tin sang cơ quan thuế đề nghị cấp mã số thuế cho doanh nghiệp. Khi tổng cục thuế tiến hành tra cứu theo các thông tin chứng thực cá nhân, cá nhân đã là đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp không hoàn thành nghĩa vụ thuế thì không thể đứng tên thành lập công ty mới và cơ quan thuế sẽ từ chối cấp mã số thuế cho doanh nghiệp.
Thứ tư, một số lưu ý khác về người đại diện theo pháp luật.
Lưu ý về nơi cư trú: doanh nghiệp phải bảo đảm luôn có ít nhất một người đại diện theo pháp luật cư trú tại Việt Nam. Trường hợp doanh nghiệp chỉ có một người đại diện theo pháp luật thì người đó phải cư trú ở Việt Nam và phải ủy quyền bằng văn bản cho người khác thực hiện quyền và nghĩa vụ của người đại diện theo pháp luật khi xuất cảnh khỏi Việt Nam. Nếu hết thời hạn ủy quyền mà người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp chưa trở lại Việt Nam và không có ủy quyền khác, người được ủy quyền vẫn tiếp tục thực hiện các quyền và nghĩa vụ của người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp trong phạm vi đã được ủy quyền cho đến khi người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp trở lại làm việc, hoặc cho đến khi chủ sở hữu công ty, Hội đồng thành viên, Hội đồng quản trị quyết định cử người khác làm người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp.
Doanh nghiệp chỉ có một người đại diện theo pháp luật và người này vắng mặt tại Việt Nam quá 30 ngày mà không ủy quyền cho người khác thực hiện các quyền và nghĩa vụ của người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp hoặc bị chết, mất tích, tạm giam, kết án tù, bị hạn chế hoặc mất năng lực hành vi dân sự thì chủ sở hữu công ty, Hội đồng thành viên, Hội đồng quản trị cử người khác làm người đại diện theo pháp luật của công ty.
Đối với công ty trách nhiệm hữu hạn có hai thành viên, nếu có thành viên là cá nhân làm người đại diện theo pháp luật của công ty bị tạm giam, kết án tù, trốn khỏi nơi cư trú, bị mất hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự hoặc bị Tòa án tước quyền hành nghề vì phạm tội buôn lậu, làm hàng giả, kinh doanh trái phép, trốn thuế, lừa dối khách hàng và tội khác theo quy định của Bộ luật hình sự thì thành viên còn lại đương nhiên làm người đại diện theo pháp luật của công ty cho đến khi có quyết định mới của Hội đồng thành viên về người đại diện theo pháp luật của công ty.
Mọi khó khăn, vướng mắc về người đại diện theo pháp luật của công ty Quý khách hàng vui lòng liên hệ hoặc gửi email để được Luật Việt An hỗ trợ nhanh nhất và kịp thời nhất!
Bạn đang đọc nội dung bài viết Giải Pháp Đối Với Vấn Đề Đại Diện (Agency Problem) Trong Doanh Nghiệp trên website Photomarathonasia.com. Hy vọng một phần nào đó những thông tin mà chúng tôi đã cung cấp là rất hữu ích với bạn. Nếu nội dung bài viết hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!