Cập nhật nội dung chi tiết về Gia Lai: Nhiều Giải Pháp Phát Triển Lâm Nghiệp Bền Vững mới nhất trên website Photomarathonasia.com. Hy vọng thông tin trong bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu ngoài mong đợi của bạn, chúng tôi sẽ làm việc thường xuyên để cập nhật nội dung mới nhằm giúp bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.
(GLO)- “Phát triển lâm nghiệp theo hướng bền vững, tăng cường sinh kế, nâng cao tỷ lệ che phủ rừng thích ứng với biến đổi khí hậu” là 1 trong 4 chương trình trọng tâm được Đảng bộ tỉnh Gia Lai đề ra trong nhiệm kỳ 2020-2025. Để đạt được mục tiêu này đòi hỏi sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị và người dân với những giải pháp đồng bộ, thiết thực.
Hội thảo về phát triển bền vững ngành nông-lâm nghiệp Tây Nguyên
Quản lý sản xuất, kinh doanh giống cây trồng lâm nghiệp
Hiệu quả bước đầu Phát triển lâm nghiệp theo hướng bền vững là hướng đi đúng đắn của tỉnh trong nhiều năm qua. Nhờ thực hiện đồng bộ các nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm của kế hoạch tái cơ cấu ngành lâm nghiệp, trong 5 năm (2016-2020), diện tích rừng trồng mới trên toàn tỉnh đạt 25.271 ha, bằng 276,5% so với kế hoạch, gấp 6,3 lần so với Nghị quyết đề ra; góp phần nâng độ che phủ rừng (kể cả cao su và các cây đặc sản khác) lên 46,7%. Diện tích rừng khoán quản lý đến năm 2020 đạt 153.890 ha (tăng 25.906 ha so với năm 2015). Công tác quản lý, bảo vệ rừng, phòng cháy, chữa cháy rừng cũng được các ngành, địa phương quan tâm chỉ đạo.
Việc giao khoán rừng cho người dân quản lý bảo vệ góp phần hạn chế tình trạng phá rừng, lấn chiếm đất rừng. Ảnh: Quang Tấn
Kbang là một trong những địa phương có diện tích rừng và đất lâm nghiệp lớn của tỉnh với hơn 128.000 ha (chiếm gần 70% diện tích tự nhiên), phân bố ở 13/14 xã, thị trấn. Trong đó, rừng tự nhiên hơn 122.000 ha, rừng trồng hơn 1.800 ha và đất chưa có rừng là 4.300 ha. Đứng chân trên địa bàn huyện có 14 đơn vị chủ rừng, gồm 7 công ty TNHH một thành viên lâm nghiệp, Ban Quản lý rừng phòng hộ xã Nam, Khu Bảo tồn thiên nhiên Kon Chư Răng, Vườn Quốc gia Kon Ka Kinh, Trung tâm Lâm nghiệp nhiệt đới và 3 xã: Đông, Kon Pne, Nghĩa An.
Xác định công tác quản lý, bảo vệ và phát triển rừng là nhiệm vụ chính trị quan trọng, những năm qua, UBND huyện tập trung chỉ đạo các cấp ủy, chính quyền, cơ quan, lực lượng chức năng cũng như đơn vị chủ rừng triển khai quyết liệt, đồng bộ, thường xuyên, liên tục các giải pháp; đồng thời huy động cả hệ thống chính trị cùng nhân dân tham gia công tác này. Phát biểu tham luận tại Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XVI mới đây, ông Phan Trần Thọ-Phó Bí thư Thường trực Huyện ủy Kbang-cho hay: “Nhờ việc chỉ đạo triển khai một số giải pháp mang tính đột phá trong công tác quản lý, bảo vệ và phát triển rừng nên lĩnh vực này đã có nhiều chuyển biến rõ rệt. Phần lớn các vụ vi phạm đều được phát hiện và xử lý nghiêm theo quy định của pháp luật, từng bước ngăn chặn tình trạng khai thác, mua bán, vận chuyển và lấn, phá rừng làm nông nghiệp trái pháp luật; tạo được niềm tin trong nhân dân, góp phần bảo vệ và phát triển tài nguyên rừng bền vững. Việc giao khoán bảo vệ rừng cũng đã phát huy tinh thần, trách nhiệm của người dân trong công tác bảo vệ rừng”. Tương tự, công tác chăm sóc, quản lý, bảo vệ và phát triển rừng cũng được huyện Kông Chro chú trọng. Đây cũng là địa phương đi đầu toàn tỉnh về tiến độ thu hồi đất lâm nghiệp bị lấn chiếm và triển khai trồng rừng. Trong 5 năm (2015-2020), huyện đã thu hồi đất rừng bị lấn chiếm và tiến hành trồng mới gần 4.000 ha rừng, nâng tỷ lệ che phủ rừng lên 55,76%. Đặc biệt, chủ trương trồng rừng nhận được sự đồng thuận và tích cực tham gia từ phía người dân. Anh Đinh Văn Poi (làng Tnùng 1, xã Ya Ma, huyện Kông Chro) chia sẻ: “Sau khi được chính quyền xã, Hạt Kiểm lâm huyện vận động kê khai đất lâm nghiệp để chuyển sang trồng rừng, gia đình mình đã tự nguyện chuyển 1 ha đất trồng lúa cạn sang trồng bạch đàn vào năm 2017. Dù đất đồi núi nhưng cây rừng phát triển rất tốt, mình hy vọng đến thời kỳ khai thác sẽ cho sản lượng cao”.
Cũng theo anh Poi, nhiều hộ dân trong làng chuyển sang trồng rừng, nhiều hộ có thu nhập khá nhờ trồng rừng. Do đó, thời gian tới, anh sẽ tiếp tục chuyển phần diện tích trồng lúa cạn kém hiệu quả sang trồng rừng để vừa có thu nhập cao, vừa góp phần bảo vệ môi trường sinh thái. Hướng đến những mục tiêu cao hơn
Gia Lai phấn đấu đến năm 2025 nâng tỷ lệ che phủ rừng đạt 47,75%. Ảnh: Quang Tấn
Phát biểu chỉ đạo tại Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XVI, đồng chí Trần Quốc Vượng-Ủy viên Bộ Chính trị, Thường trực Ban Bí thư Trung ương Đảng-nhấn mạnh: Trong nhiệm kỳ 2020-2025, Gia Lai phải tăng cường bảo vệ, phát triển rừng, phấn đấu nâng độ che phủ rừng lên trên 50%. Tỉnh cần xác định đây là một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu mà trước mắt là giữ rừng, bảo đảm tái sinh rừng, phục hồi nhanh hệ sinh thái rừng bền vững, trong đó có hệ sinh thái rừng đặc trưng Kon Hà Nừng. Việc bảo vệ môi trường sinh thái, bảo vệ rừng không chỉ là bảo vệ cuộc sống của đồng bào trong tỉnh mà còn góp phần quan trọng bảo vệ an ninh nguồn nước và sự phát triển bền vững các tỉnh miền Trung-Tây Nguyên.
Để tiếp tục lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện hiệu quả công tác quản lý, bảo vệ và phát triển rừng bền vững, Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện Kbang lần thứ IX (nhiệm kỳ 2020-2025) cũng xác định đây là 1 trong 4 chương trình trọng tâm. Theo đó, huyện sẽ đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức, trách nhiệm của cán bộ, đảng viên, cộng đồng dân cư, hộ gia đình và mọi người dân đối với công tác bảo vệ và phát triển rừng; xây dựng và tập trung lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện nghiêm, có hiệu quả nghị quyết chuyên đề về nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về quản lý, bảo vệ rừng, bảo tồn và phát triển vốn rừng phục vụ mục tiêu phát triển kinh tế-xã hội của địa phương. Đồng thời, huyện tiếp tục triển khai các giải pháp đột phá đã thực hiện khá hiệu quả trong thời gian qua. “Trong nhiệm kỳ 2020-2025, Ban Chấp hành Đảng bộ huyện xác định chỉ tiêu nâng tỷ lệ che phủ rừng từ 70,13% năm 2020 lên 70,5% vào cuối năm 2025. Để triển khai thực hiện đạt và vượt chỉ tiêu này, huyện sẽ tập trung lãnh đạo, chỉ đạo đẩy mạnh công tác trồng rừng mới, trồng rừng thay thế, trồng lại rừng trên diện tích rừng trồng sau khai thác. Trong đó, chú trọng trồng mới rừng trên quỹ đất nương rẫy có độ dốc lớn, bạc màu, quỹ đất trên cốt ngập lòng hồ Ka Nak, thu hồi đất lâm nghiệp bị lấn chiếm để trồng rừng; trồng cây mắc ca, cây giổi xanh xen canh cây nông nghiệp; nâng cao hiệu quả kinh tế-xã hội, môi trường đối với rừng sản xuất; khai thác có hiệu quả, hợp lý các nguồn lợi từ rừng; thực hiện các giải pháp nhằm nâng cao thu nhập của người dân từ tài nguyên rừng”-Phó Bí thư Thường trực Huyện ủy Kbang thông tin. Bên cạnh chăm sóc tốt diện tích rừng hiện có, huyện Kông Chro cũng sẽ tiếp tục phủ xanh những diện tích đất còn khả năng phát triển lâm nghiệp. “Mục tiêu đặt ra đến năm 2025, toàn huyện trồng mới được trên 2.100 ha rừng, nâng tỷ lệ che phủ rừng đạt 56%. Cùng với đó, huyện sẽ đẩy mạnh công tác giao đất trồng rừng, giao khoán và bảo vệ rừng cho người dân sống và sản xuất gần rừng để hạn chế nạn phá rừng, lấn chiếm đất rừng; tập trung hỗ trợ, khuyến khích người dân tại các xã phía Đông của huyện là Đak Pling, Đak Song, Sró và Đak Kơ Ning phát triển kinh tế rừng; qua đó giúp người dân tăng thêm thu nhập, ổn định cuộc sống”-ông Phan Văn Trung-Bí thư Huyện ủy, Chủ tịch UBND huyện Kông Chro-nhấn mạnh.
Giai đoạn 2015-2020, huyện Kông Chro đã trồng mới gần 4.000 ha rừng. Ảnh: Hồng Thi
Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XVI đưa ra chỉ tiêu phấn đấu đến năm 2025 trồng mới 40.000 ha rừng (tương đương mỗi năm trồng khoảng 8.000 ha), nâng tỷ lệ che phủ rừng đạt 47,75%. Để đạt được điều đó, tỉnh sẽ khắc phục những hạn chế, yếu kém trong công tác quản lý, bảo vệ rừng; đồng thời đẩy mạnh thu hút doanh nghiệp trồng rừng gắn với chế biến gỗ rừng trồng và sinh kế dưới tán rừng. Trao đổi với P.V, ông Lưu Trung Nghĩa-Giám đốc Sở Nông nghiệp và PTNT-cho biết: Giai đoạn 2015-2020, toàn tỉnh đã trồng mới trên 25.000 ha rừng (gấp 6,3 lần so với Nghị quyết). Đây được xem là thành công rất lớn không phải tỉnh nào cũng làm được, tạo tiền đề cho nhiệm kỳ mới.
Từ chương trình trọng tâm đề ra trong Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XVI, ngành sẽ tham mưu giúp Tỉnh ủy, UBND tỉnh huy động các nguồn lực để tập trung đầu tư nâng cao hạ tầng sản xuất lâm nghiệp; cùng với các doanh nghiệp hỗ trợ người dân trồng rừng theo tiêu chuẩn FSC (hệ thống các tiêu chuẩn chứng nhận nguồn gốc gỗ cho các nhà khai thác-P.V) để thuận lợi gia nhập thị trường gỗ của thế giới; hướng dẫn, khuyến khích các doanh nghiệp phối hợp với nhau để hình thành các nhà máy thu mua nguyên liệu mà người dân sản xuất ra; đồng thời, tăng cường năng lực hỗ trợ cho lực lượng tham gia quản lý, bảo vệ rừng và trồng rừng, kể cả người dân. Mục đích hướng đến là nhằm nâng cao tỷ lệ che phủ rừng; tạo sinh kế cho bà con vùng dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa thông qua phát triển kinh tế xanh, kinh tế rừng.
HỒNG THI-QUANG TẤN
Chú Trọng Triển Khai Nhiều Giải Pháp Để Phát Triển Nông Nghiệp Bền Vững
Theo Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Hà Nội, nhằm thúc đẩy sản xuất nông nghiệp phát triển, ngoài việc ban hành nghị quyết, quyết định, đề án, dự án hỗ trợ sản xuất lương thực, thực phẩm theo hướng hàng hóa, tạo ra sản phẩm có thương hiệu, sức cạnh tranh trên thị trường, thành phố đã lồng ghép phát triển nông nghiệp với chương trình xây dựng nông thôn mới.
Thông qua chương trình này, thành phố đã tập trung cho công tác dồn điền đổi thửa tạo tiền đề tích tụ ruộng đất, phát triển sản xuất nông nghiệp theo hướng hàng hóa, tạo nên những vùng sản xuất chuyên canh quy mô lớn. Đến nay, toàn thành phố đã thực hiện dồn điền, đổi thửa được 79.454,3/75.980ha.
Thành phố Hà Nội đang tập trung phát triển các mô hình sản xuất nông nghiệp hiệu quả cao. (Ảnh L.H)
Sau dồn điền đổi thửa, thành phố đã chỉ đạo đẩy mạnh việc chuyển đổi vùng đất lúa kém hiệu quả sang các mô hình canh tác hiệu quả cao hơn, giúp gia tăng giá trị sản xuất trên đơn vị diện tích canh tác, nâng cao thu nhập cho người nông dân. Đến nay, toàn thành phố chuyển đổi được 40.227,3ha sang các mô hình sản xuất hiệu quả kinh tế cao.
Cùng với việc dồn điền đổi thửa và tập trung phát triển các mô hình sản xuất hiệu quả kinh tế cao, thành phố Hà Nội cũng đã mở hàng trăm lớp tập huấn cho hàng nghìn nông dân cả về khoa học, kỹ thuật sản xuất nông nghiệp và kiến thức quản lý.
Các lớp tập huấn kỹ thuật đã trở thành cầu nối chuyển giao các tiến bộ khoa học kỹ thuật tới cho bà con nông dân để xây dựng các chương trình sản xuất lương thực, thực phẩm một cách hợp lý, đạt năng suất, hiệu quả cao…
Qua các lớp tập huấn cũng đã xây dựng được các tổ, nhóm liên kết cùng hỗ trợ nhau trong sản xuất nông nghiệp, từng bước hình thành các vùng sản xuất chuyên canh tập trung, quy mô lớn, đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm, tăng khả năng cạnh tranh và đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng Thủ đô; tạo điều kiện cho các doanh nghiệp kết nối các chuỗi giá trị từ sản xuất đến phân phối, tiêu thụ sản phẩm đến tay người tiêu dùng bền vững.
Tính đến nay, toàn thành phố đã có 3.066 trang trại trồng trọt, chăn nuôi. Cạnh đó, trên địa bàn thành phố đã củng cố, phát triển được 1.096 hợp tác xã nông nghiệp và hình thành 115 mô hình liên kết trong sản xuất nông nghiệp. Các địa phương đã có nhiều mô hình liên kết như: Ứng Hòa 21 mô hình, Gia Lâm 18 mô hình, Đông Anh 14 mô hình, Quốc Oai 9 mô hình, Mỹ Đức 8 mô hình…
Các mô hình liên kết hiện nay đã tạo ra chuyển biến tích cực, giúp người dân phát triển sản xuất bền vững và tạo ra những sản phẩm nông nghiệp có thương hiệu; tạo nền tảng liên kết giữa doanh nghiệp với nông dân, bảo đảm đầu ra cho nông sản có thị trường tiêu thụ ổn định. Qua đó, góp phần thúc đẩy ngành Nông nghiệp Thủ đô phát triển bền vững.
Mạnh Quân
Nguồn :
Giải Pháp Phát Triển Bền Vững Doanh Nghiệp Nông Nghiệp
Dưới tác động của các Hiệp định thương mại tự do (FTA), trong những năm qua xuất khẩu Việt Nam nói chung và xuất khẩu nông sản nói riêng có sự phát triển nhanh chóng, đóng góp quan trọng vào phát triển kinh tế – xã hội, tăng trưởng GDP.
Chúng ta cũng chịu sự cạnh tranh gay gắt của các nước có lợi thế về hàng hóa nông sản xuất khẩu tương tự như Thái Lan, Ấn Độ, Indonesia… Phải đối mặt với hàng rào kỹ thuật của các nước nhập khẩu, nhất là các nước phát triển như Mỹ, Nhật Bản, các nước thuộc EU. Rào cản lớn nhất là phải đáp ứng các tiêu chuẩn quốc tế nghiêm ngặt của nước nhập khẩu như chất lượng, sự đa dạng, cam kết về an toàn thực phẩm, truy xuất nguồn gốc, sử dụng tài nguyên thiên nhiên một cách bền vững, hợp pháp…
Nông sản Việt cơ bản chưa có thương hiệu trên thị trường quốc tế, chủ yếu xuất khẩu dưới dạng thô, chưa qua chế biến nên giá trị gia tăng không nhiều, không bán được giá cao. Các doanh nghiệp (DN), cơ sở chế biến còn nhỏ bé về quy mô, lạc hậu về công nghệ. Số DN có dây chuyền sản xuất, chế biến hiện đại còn ít, chỉ chiếm khoảng 20-30%.
Nguồn hàng xuất khẩu phụ thuộc nhiều vào thời vụ, số lượng chưa đủ để đáp ứng yêu cầu thị trường quốc tế, chất lượng sản phẩm không đồng đều, không đạt các tiêu chuẩn quốc tế. Các sản phẩm hữu cơ (organic) chiếm tỷ lệ rất nhỏ, mặc dù đây là xu hướng tiêu dùng của thế giới, được người tiêu dùng ưa chuộng dù giá cả cao hơn các sản phẩm thông thường.
Các hạn chế, yếu kém trên là nguyên nhân cơ bản của tình trạng “được mùa mất giá”, “được giá mất mùa”, làm cho người nông dân lao đao, mất định hướng trong việc “trồng cây gì”, “nuôi con gì” và nuôi trồng bằng giống nào, cách nào, phương thức nào, bán hàng cho ai? Vì thế, khi các FTA có hiệu lực, có những mặt hàng thuế nhập khẩu giảm về 0% đối với một số thị trường nhưng các nông sản chủ lực của Việt Nam vẫn chưa thể thâm nhập.
Mục tiêu xuất khẩu bền vững
Nghị quyết số 26 NQ/TW ngày 5/8/2008 của Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X về nông nghiệp, nông dân, nông thôn đề ra mục tiêu: “Xây dựng nền nông nghiệp phát triển toàn diện theo hướng hiện đại, bền vững, sản xuất hàng hóa lớn, có năng suất, chất lượng, hiệu quả và khả năng cạnh tranh cao, đảm bảo vững chắc an ninh lương thực quốc gia cả trước mắt và lâu dài”.
Việt Nam đang thực hiện 13 FTA, trong đó có những FTA thế hệ mới mang lại rất nhiều cơ hội cho xuất khẩu nông sản sang các thị trường lớn và tiềm năng như Hiệp định đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), Hiệp định thương mại tự do Việt Nam – EU (EVFTA).
Để có thể tận dụng được các cơ hội của hội nhập quốc tế mang lại, cần phát huy tối đa thế mạnh về các mặt hàng nông sản xuất khẩu chủ lực của Việt Nam, xây dựng quy trình chuẩn cho sản xuất và xuất khẩu nông sản hữu cơ (organic) chủ lực. Theo đó, Nhà nước (các bộ ngành, địa phương) đặt hàng các cơ quan, tổ chức (trường đại học, viện nghiên cứu, hiệp hội doanh nghiệp…) xây dựng quy trình chuẩn cho việc sản xuất các nông sản hữu cơ xuất khẩu chủ lực của Việt Nam.
Quy trình này cần nghiên cứu nhu cầu thị trường quốc tế và tiềm năng của Việt Nam, xác định mặt hàng nông sản chủ lực, thị trường chính và tiềm năng, đối thủ cạnh tranh, xây dựng chiến lược phát triển nguồn hàng nông sản organic (bao gồm công tác quy hoạch vùng nguyên liệu, giống cây con, phương thức canh tác, thu hoạch, chế biến…).
Xây dựng thương hiệu sản phẩm và chiến lược phát triển thương hiệu ở các thị trường mục tiêu. Đầu tư dây chuyền công nghệ cho việc chế biến các sản phẩm bảo đảm yêu cầu nghiêm ngặt về chất lượng, nguồn gốc xuất xứ, không hóa chất, không độc hại. Xác định các yếu tố cần thiết để bảo đảm sản phẩm sau chế biến có thể đạt được các chứng chỉ quốc tế về chất lượng sản phẩm.
Nhà nước cần có cơ chế, chính sách để hỗ trợ việc thực hiện quy trình sản xuất và xuất khẩu nông sản hữu cơ chủ lực, trước hết là cơ chế, chính sách tạo nguồn hàng xuất khẩu. Cụ thể, cần quy hoạch các vùng sản xuất, nuôi trồng tập trung các mặt hàng nông sản xuất khẩu chủ lực của Việt Nam trên cơ sở lợi thế cạnh tranh của Việt Nam với thế giới và xu hướng tiêu dùng của thế giới; lợi thế so sánh của các vùng, miền, địa phương; bảo đảm cung cấp đủ nguồn hàng cho sản xuất, chế biến nông sản xuất khẩu ở quy mô sản xuất lớn.
Đặt hàng xây dựng các quy trình chuẩn sản xuất nông sản hữu cơ xuất khẩu chủ lực (đề cập ở phần trên) và chuyển giao quy trình cho DN thực hiện. Tạo điều kiện tích tụ, tập trung ruộng đất ở quy mô lớn (từ hàng trăm đến hàng nghìn hecta) cho việc đầu tư nhà máy sản xuất chế biến tập trung, nuôi trồng các loại cây con được xác định là mặt hàng nông sản xuất khẩu hữu cơ chủ lực.
Xây dựng các thương hiệu quốc gia
Về cơ chế, chính sách xây dựng thương hiệu nông sản xuất khẩu chủ lực Việt Nam, Nhà nước cần sớm bổ sung hoàn thiện hệ thống tiêu chuẩn kỹ thuật Việt Nam đối với hàng hóa nông sản theo hướng phù hợp với các tiêu chuẩn, quy chuẩn thế giới, phát triển và nhân rộng việc thực hiện cấp mã số vùng sản xuất, truy xuất nguồn gốc, chỉ dẫn địa lý… đối với nông sản xuất khẩu chủ lực. Nhân rộng mô hình sản xuất nông sản theo các tiêu chuẩn GlobalGAP, VietGAP, HACCP…
Có chiến lược bài bản xây dựng “Thương hiệu quốc gia” cho nông sản xuất khẩu chủ lực Việt Nam. Đây là vấn đề có ý nghĩa quyết định trong việc xuất khẩu nông sản vì hiện nay đây là khâu yếu nhất trong xuất khẩu nông sản, chủ yếu do các DN thực hiện dẫn tới tình trạng mặc dù hàng hóa nông sản Việt Nam có chất lượng tốt, giá cạnh tranh nhưng không được người tiêu dùng quốc tế biết đến, không xuất khẩu được ra thế giới.
Việc Nhà nước xây dựng “Thương hiệu quốc gia” nông sản xuất khẩu chủ lực không có nghĩa là Nhà nước bỏ tiền làm thay DN mà Nhà nước cùng với DN phối hợp thực hiện một cách chiến lược, bài bản việc xây dựng “Thương hiệu quốc gia” cho các nông sản xuất khẩu chủ lực của Việt Nam.
Nhà nước sẽ là “bà đỡ”
Về cơ chế, chính sách xúc tiến thương mại, phát triển thị trường, cần huy động các nguồn lực đầu tư xây dựng các trung tâm logistics ở các địa bàn đầu mối trong nước để tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động xuất nhập khẩu của DN. Nghiên cứu việc thành lập các kho ngoại quan, trung tâm logistics ở nước ngoài để hỗ trợ DN tập kết, phân phối hàng hóa đến các thị trường quốc tế với chi phí thấp.
Xây dựng các chương trình quảng bá hình ảnh quốc gia, xúc tiến thương mại quốc gia với các thị trường trọng điểm (như Mỹ, Ấn Độ, EU…) và các thị trường tiềm năng sau khi các FTA được ký kết. Việc triển khai các chương trình xúc tiến thương mại quốc gia cần tập trung vào từng mặt hàng, từng thị trường, tránh tình trạng dàn trải, thiếu chiều sâu như hiện nay. Nhà nước giao nhiệm vụ cho các cơ quan đại diện ngoại giao, thương vụ Việt Nam ở nước ngoài nhiệm vụ xúc tiến thương mại, chắp mối kinh doanh và có cơ chế, chính sách khuyến khích đối với hoạt động này (chẳng hạn được phép nhận hoa hồng khi tư vấn, chắp mối kinh doanh hiệu quả cho DN).
Hỗ trợ và hướng dẫn DN tận dụng các cơ hội của các FTA mang lại, nhất là các hiệp định vừa ký kết như CPTPP, EVFTA về ưu đãi thuế quan, cơ hội thị trường. Thông tin kịp thời cho DN về các rào cản thương mại, hệ thống quy định tiêu chuẩn, quy chuẩn thị trường nhập khẩu để DN chủ động phòng tránh nguy cơ dẫn đến các vụ điều tra phòng vệ thương mại, các vi phạm về kiểm dịch động thực vật, vệ sinh an toàn thực phẩm tại các thị trường có yêu cầu khắt khe về điều kiện nhập khẩu hàng nông sản.
Xây dựng và thúc đẩy quan hệ hợp tác giữa “5 nhà”: Nhà nước, nhà khoa học, nhà doanh nghiệp, nhà băng (ngân hàng, các tổ chức tín dụng) và nhà nông trong quá trình sản xuất và xuất khẩu các nông sản hữu cơ chủ lực.
Với các giải pháp trên, Nhà nước thực hiện đúng vai trò “Chính phủ kiến tạo” hướng dẫn, hỗ trợ, là “bà đỡ” cho DN và các hộ nông dân trong quá trình sản xuất và xuất khẩu nông sản chủ lực Việt Nam. Đầu tư công của Nhà nước có hiệu quả hơn, thể hiện qua việc đổi mới cách thức đầu tư vào khoa học công nghệ, công tác quy hoạch, huy động hiệu quả nguồn lực đất đai cho phát triển kinh tế – xã hội, cải cách hành chính hướng tới hỗ trợ người dân và DN ngày càng tốt hơn.
Đặng Đức Thành
Giải Pháp Cho Phát Triển Nông Nghiệp Bền Vững
Cập nhật lúc 15:28, Thứ năm, 19/12/2019
Ngày 19/12, tại Hà Nội, Trung ương Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh phối hợp với Bộ Khoa học và Công nghệ tổ chức tọa đàm “Khoa học công nghệ – giải pháp cho phát triển nông nghiệp bền vững”.
Tọa đàm được tổ chức trong khuôn khổ chương trình tuyên dương các nhà nông trẻ tiêu biểu và trao giải thưởng Lương Định Của năm 2019 với mong muốn cung cấp thông tin về xu hướng phát triển nông nghiệp bền vững trong kỷ nguyên cách mạng công nghệ 4.0; giới thiệu chính sách hỗ trợ các hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp của “Chương trình khoa học và công nghệ quốc gia” và là dịp để các nhà nông trẻ từng bước tiếp cận, làm chủ kinh doanh trong thời đại số.
Trình bày chuyên đề “Xu hướng phát triển nông nghiệp bền vững trong kỷ nguyên cách mạng công nghiệp 4.0”, chúng tôi Lê Huy Hàm, nguyên Viện trưởng Viện Di truyền nông nghiệp nhấn mạnh đến những thách thức đối với ngành nông nghiệp hiện nay. Đó là, quỹ đất dành cho nông nghiệp ngày càng thu hẹp, đất ít khả năng phục hồi, ô nhiễm môi trường…, ảnh hưởng tới năng suất, chất lượng sản phẩm nông nghiệp… Những thách thức này đặt ra yêu cầu tất yếu là phải phát triển nông nghiệp bền vững trong kỷ nguyên cách mạng công nghiệp 4.0.
Giới thiệu chính sách hỗ trợ của “Chương trình khoa học và công nghệ quốc gia” đến các tổ chức, cá nhân hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp, TS.Nghiêm Quốc Đạt, Văn phòng các Chương trình Khoa học và Công nghệ Quốc gia, Bộ Khoa học và Công nghệ cho biết, mục tiêu của chương trình sản phẩm quốc gia là phát triển 12 sản phẩm dựa trên công nghệ tiên tiến; làm chủ, tạo ra 10 công nghệ cao đạt trình độ tiên tiến trong khu vực. Số lượng doanh nghiệp thực hiện đổi mới công nghệ tăng trung bình 15%/năm…
Tọa đàm cũng dành thời gian để các nhà nông trẻ tìm hiểu một số dự án nông nghiệp tiêu biểu được hỗ trợ từ “Chương trình khoa học và công nghệ quốc gia”; tham gia chương trình tập huấn về “Kỹ năng bán hàng trên nền tảng thương mại điện tử”, với sự xuất hiện của các chuyên gia đến từ Google; nghe chia sẻ của chuyên gia về yêu cầu các sản phẩm nông nghiệp giao dịch trên các trang thương mại điện tử.
Bạn đang đọc nội dung bài viết Gia Lai: Nhiều Giải Pháp Phát Triển Lâm Nghiệp Bền Vững trên website Photomarathonasia.com. Hy vọng một phần nào đó những thông tin mà chúng tôi đã cung cấp là rất hữu ích với bạn. Nếu nội dung bài viết hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!