Đề Xuất 3/2023 # Đề Tài Mội Số Giải Pháp Giúp Học Sinh Yếu Học Tốt Môn Văn # Top 9 Like | Photomarathonasia.com

Đề Xuất 3/2023 # Đề Tài Mội Số Giải Pháp Giúp Học Sinh Yếu Học Tốt Môn Văn # Top 9 Like

Cập nhật nội dung chi tiết về Đề Tài Mội Số Giải Pháp Giúp Học Sinh Yếu Học Tốt Môn Văn mới nhất trên website Photomarathonasia.com. Hy vọng thông tin trong bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu ngoài mong đợi của bạn, chúng tôi sẽ làm việc thường xuyên để cập nhật nội dung mới nhằm giúp bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.

HỌC TỐT MÔN VĂN. A. PHẦN MỞ ĐẦU : Từ trước đến nay, môn Văn là một trong những môn quan trọng và cơ bản trong nhà trường phổ thông với những lí do sau : + Văn học là một kiểu mẫu văn hoá. Văn học diễn đạt những ý tưởng hết sức có ý nghĩa cũng như những tình cảm của con người trong các giai đoạn lịch sử khác nhau. Người học có thể hiểu và cảm thụ được tư tưởng, tình cảm và hình thức nghệ thuật của nền văn hoá ấy. + Văn học là một kiểu mẫu ngôn ngữ. Người học tiếp cận với những cách dùng sáng tạo, tinh tế của ngôn ngữ. Ngôn ngữ tạo ra văn học. Người học càng đọc nhiều thì càng có khả năng dùng từ chính xác và hiệu quả. + Văn học là một kiểu mẫu cho sự phát triển cá nhân. Người dạy phải tìm cách cuốn hút học sinh vào việc đọc các tác phẩm văn học. Sự thành công của việc này được đo bằng mức độ yêu thích văn học của học sinh. Việc đọc một cách có hiệu quả không những giúp cá nhân học sinh phát triển mà còn giúp mối quan hệ giữa học sinh với thầy, giữa học sinh với cộng đồng xung quanh ngày một tốt đẹp hơn. Thực tế trong những năm học vừa qua, học sinh học yếu môn Văn còn khá nhiều. Các em chưa có sự hứng thú, say mê môn Văn, chưa xác định được động cơ học tập đúng đắn. Một số em yếu thì yếu đều các môn, dẫn đến chán học, ngại học môn Văn. Vì vậy học sinh yếu không hiểu được học Văn có tác dụng gì? Còn giáo viên thì lúng túng trong vi ệc tìm giải pháp giảm tỉ lệ học sinh yếu bộ môn và bồi dưỡng lòng say mê Văn học trong học sinh. Chính những lí do quan trọng trên và hơn nữa, để tiếp tục thực hiện chủ trương giúp đỡ học sinh yếu học tốt bộ môn, xin đưa ra một số giải pháp nhằm giúp các em học yếu môn Văn có thể vươn lên và đạt yêu cầu cơ bản của bộ môn trong chương trình THCS. B. NỘI DUNG GIẢI PHÁP : I. Cơ sở lí luận và thực tiễn của đề tài : Trước yêu cầu dạy và học của bộ môn theo hướng đổi mới, một số học sinh gặp khó khăn, kiểm tra thường xuyên bị điểm dưới trung bình, đó là những học sinh học yếu bộ môn. Sự yếu kém đó tập trung vào ba điểm cơ bản sau : – Nhiều lổ hỏng về kiến thức và kĩ năng. – Tiếp thu chậm. – Phương pháp học tập bộ môn chưa tốt. 2Do vậy, việc giúp đỡ học sinh học yếu bộ môn phải được thực hiện đồng loạt bằng các biện pháp phân hoá, nghĩa là tách riêng diện học sinh này ra để có biện pháp giúp đỡ phù hợp. Trước tình hình đó, giáo viên phải giải quyết được các vấn đề : – Như thế nào là luyện tập vừa sức cho học sinh yếu kém? – Làm sao để lấp lổ hỏng về kiến thức và kĩ năng cho học sinh? – Làm sao trong những giờ lên lớp phải đảm bảo về kiến thức và kĩ năng cho đối tượng HS này? – Bồi dưỡng phương pháp học tập bộ môn cho HS yếu như thế nào? ( ) II. Thực trạng : 1. Về phía giáo viên : – Giáo viên chưa quan tâm đúng mức đến việc đổi mới phương pháp giảng dạy; chưa có sự tìm tòi, sáng tạo trong giảng dạy nên làm cho giờ học nhàm chán, học sinh không thú học văn. – Chưa phát huy việc đọc sách của học sinh. – Việc kiểm tra, đánh giá học sinh trong học Văn chưa được quan tâm đúng mức; chưa chú trọng đánh giá năng lực cảm thụ văn học, năng lực tư duy, năng lực diễn đạt của học sinh để phân hoá học sinh. 2. Về phía học sinh : – Học sinh chưa chủ động đọc và hiểu tác phẩm nên kiến thức Văn học trong chương trình không nắm chắc. – Yếu những kĩ năng cần thiết để vận dụng các kiến thức về tiếng Việt, làm văn trong việc trình bày những hiểu biết về văn học. – Chưa rung động trước những giá trị chân – thiện – mỹ của các tác phẩm văn học, chưa nắm được những tác giả tiêu biểu của văn học Việt Nam và văn học thế giới. III. Một số giải pháp giúp học sinh yếu học tốt môn Văn : 1. Đổi mới phương pháp giảng dạy : – Giáo viên cần chú trọng việc tự học, tự bồi dưỡng về phương pháp giảng dạy theo đặc trưng bộ môn. – Tổ chức các hoạt động ngoại khoá về văn học, gắn kết yêu cầu hiểu biết về văn học trong các cuộc thi “Đố vui ôn luyện”. – Cải tiến đánh giá, kiểm tra theo hướng đánh giá được năng lực cảm thụ văn chương và vận dụng kĩ năng diễn đạt, tạo điều kiện để học sinh thể hiện năng lực sáng tạo của cá nhân. 2. Rà soát phân loại học lực của học sinh ngay từ đầu năm học. 3- Khi ra đề kiểm tra cần bám sát chuẩn kiến thức, kĩ năng của chương trình mà học sinh vừa hoàn thành ở năm học trước, thông qua kiểm tra để phân loại được và đúng học lực của học sinh. – Sau khi phân loại được học sinh, giáo viên tìm hiểu nguyên nhân học yếu của từng em để có hướng giúp đỡ. 3. Giúp đỡ học sinh học yếu bộ môn : a. Tổ chức chuyên đề “Dạy HS cách học môn Ngữ văn”. Nội dung cụ thể như sau : * Đối với phân môn Văn học + Chuẩn bị ở nhà: lần. Lần 1 đọc qua để nắm bắt được nội dung tác phẩm, lần 2 đọc chậm, kỹ để nắm sâu hơn, lần 3 đọc và kết hợp tự tìm hiểu dựa vào hệ thống gợi ý tìm hiểu, kết hợp nắm những nét cơ bản về tác giả, tác phẩm từ chú thích. – Nếu tác phẩm là thơ, phải tập đọc diễn cảm để bước đầu có thể cảm nhận được cái hay, cái đẹp trong thơ, tìm nghệ thuật sử dụng trong bài, tìm từ ngữ quan trọng. – Đối với tác phẩm là truyện, đọc tác phẩm lần 1 sau đó tóm tắt tác phẩm một cách ngắn gọn, đọc lần 2 tìm chi tiết cần phân tích, tìm kết cấu của truyện, tìm hiểu nhân vật, nghệ thuật và trả lời câu hỏi ở phần đọc hiểu văn bản. – Nếu làm được như vậy để chuẩn bị cho công việc soạn bài, thì đến lớp sẽ hiểu bài dễ dàng và hiểu sâu hơn. – Ngoài ra, để mở rộng kiến thức phần văn bản, ngoài sách giáo khoa, học sinh cần tham khảo thêm tư liệu như các tác phẩm lớn, tạp chí văn học, từ điển văn học, các bài văn, bài báo hay. Khi đọc, cần ghi chép những lời hay, ý đẹp vào sổ tay văn học của mình để khi cần thiết đưa ra vận dụng. + Học trên lớp: – Cần tập trung nghe giảng, nghe ý kiến xây dựng bài của bạn, hỏi ngay những điều mình chưa hiểu. – Có vở nháp ghi những gì thầy, cô giáo giảng (cần thiết) những dẫn chứng minh hoạ, mở rộng và tích luỹ thêm kiến thức vào sổ tay văn học. 4- Thực hiện đầy đủ, đầu tư tốt các bài tập thầy cô giáo giao về nhà, chú ý các bài tập viết + Học ở nhà: – Sau khi đã tìm hiểu văn bản ở lớp, về nhà chúng ta cần: – Học ngày bài của ngày hôm đó. – Tự ôn luyện ngay từ khi chưa làm bài kiểm tra, nên ôn tập theo cụn văn bản. (VD: Cụm văn dẫn chứng cụ thể). – Tuyệt đối không được học vẹt, phải vừa học vừa tự kiểm tra theo cách tự đặt ra vấn đề và tự giải quyết. Có thể dựa vào những câu hỏi trong sách giáo khoa hoặc các đề mục cấu trúc, các đơn vị kiến thức trong bài học. VD: Những gì cần nắm về tác giả? Xuất xứ, thể loại, phương thức biểu đạt? Nghệ thuật? Nội dung chính? Nội dung đó thể hiện với những ý nào? * Đối với phân môn Tiếng Việt. + Chuẩn bị ở nhà: – Như ta đã biết, tiếng Việt là một phân môn rất quan trọng của môn Ngữ văn. Nếu chúng ta nắm vững kiến thức phần này thì có thể tích hợp tốt khi học văn bản, sẽ phân tích được giá trị nội dung, nghệ thuật văn bản một cách sâu sắc. Với Tập làm văn, tiếng Việt sẽ giúp ta biết dùng từ, diễn đạt câu văn trôi chảy, có ý nghĩa. Không những thế, tiếng Việt còn giúp ta khi giao tiếp hằng ngày. Chính vì vậy mà ta phải học tốt phân môn tiếng Việt ở nhà qua hai khâu : Học bài cũ và soạn bài mới. – Phần bài cũ ta phải học kĩ, học thuộc lí thuyết. Từ lí thuyết vận dụng giải quyết các bài tập một cách triệt để. Sau khi nắm được kiến thức trọng tâm của bài cũ, chúng ta tiến hành học bài mới bằng cách : Đọc kĩ ví dụ, phân tích ví dụ theo câu hỏi sách giáo khoa. Từ ví dụ rút ra kiến thức ở mức độ sơ giản nhất. Khi tìm hiểu bài mới phần lí thuyết, chúng ta phải xem phần luyện tập, dự kiến cách giải quyết các bài tập theo hiểu biết của mình, có như vậy đến lớp khi thầy cô giảng bài mới tiếp thu một cách hứng thú và say 5sưa. Nếu chúng ta chuẩn bị tốt ở nhà thì việc học phân môn tiếng Việt sẽ không khó khăn, ta sẽ nắm chắc kiến thức ngay tại lớp và đạt hiệu quả cao trong học tập. +Học trên lớp: – Chú ý nghe giảng bài, hăng say phát biểu, xây dựng bài, biết tiếp thu từ ý thức đến khái niệm. Từ khái niệm đó tập lấy ví dụ. – Sau khi đã sơ bộ hình thành tri thức mới, học sinh cần củng cố, khắc sâu kiến thức bằng cách làm thêm một số bài tập nhận biết, phân tích (Bài tập trong sách giáo khoa, sách bài tập và có thể là một số bài tập sưu tầm ). – Củng cố kiến thức theo từng phần, từng chương đã học theo hình thức mô hình, sơ đồ. – Mỗi loại như vậy cũng phải lấy ví dụ, làm bài tập ứng dụng. – Đối với một khái niệm phức tạp, nhiều ý, cần tách từng ý để hiểu. – Cần tích hợp phân môn Văn, Tập làm văn vào phần ứng dụng tiếng Việt. – Khi thực hành bài Tập làm văn, áp dụng kiến thức tiếng Việt vào bài cho hiệu quả như : Các biện pháp tu từ, từ ngữ biểu cảm, từ tượng thanh, từ tượng hình, văn miêu tả, biểu cảm có sử dụng miêu tả + Học ở nhà: – Khi học mỗi đơn vị kiến thức cũng không quên tự tìm thêm ví dụ kèm theo. Phải siêng năng làm bài tập, trước hết là làm hết bài tập trong sách giáo khoa, sau đó đến bài tập nâng cao. – Sau khoảng 5 bài tiếng Việt, chúng ta tự ôn lại kiến thức theo hệ thống rồi quy loại, phân loại các đơn vị kiến thức. – Khi rút ra được cái chung của các sự kiện ngôn ngữ, tập phân chia chúng ra từng nhóm và quy loại vào các nhóm riêng biệt. Việc chia các hiện tượng ngôn ngữ thành các nhóm dựa vào nét giống nhau, khác nhau của chúng. – Bản thân mỗi chúng ta có thể phấn đấu để có riêng một cuốn từ điển Tiếng Việt hoặc nếu được một số cuốn sách cần thiết như : Thành ngữ tiếng Việt, hoặc tục ngữ, ca dao * Đối với phân môn Tập làm văn. Muốn thực hiện tốt phần tập làm văn chúng ta cần thực hiện các bước sau : – Nắm vững yêu cầu chung về hình thức, nội dung của bài. – Phải đọc kỹ đề, chú ý các từ ngữ quan trọng để xác định đúng nội dung kiểu bài sẽ thực hiện. Đề bài thường có hai phần từ ngữ thể hiện điều đó. 6- Xác định tư liệu sử dụng tư liệu để làm bài : Vốn sống thực tế hay vốn sống văn học (Tuỳ theo dạng đề). Cụ thể : phong phú, có ý thức sử dụng khi viết. + So sánh, liên tưởng, tưởng tượng, liên hệ + Vận dụng những ngôn ngữ hay, đẹp tích luỹ, cảm nhận từ khi học các văn bản. b. Quan tâm, chú ý đến học sinh yếu trong từng giờ học, tiết học : – Trong giờ học, giáo viên cần tạo điều kiện, động viên, khuyến khích các đối tượng HS yếu được tham gia hoạt động, tham gia xây dựng bài bằng những câu hỏi ở mức độ dễ hoặc trung bình. – Khi HS có biểu hiện tiến bộ, dù không nhiều, giáo viên cũng cần khen ngợi, tuyên dương kịp thời. – Giáo viên thường xuyên kiểm tra tình hình chuẩn bị bài (bài mới lẫn bài cũ) trong các giờ học để chấn chỉnh kịp thời nề nếp học tập của học sinh. – Thành lập đôi bạn cùng tiến, giúp đỡ nhau trong học tập. Học sinh khá giỏi bộ môn kèm cặp cho học sinh yếu. Trong từng lớp phải có cán sự bộ môn để phối kết hợp với giáo viên theo dõi, kiểm tra tình hình học tập. – Ở phần luyện tập (đối với Tiếng Việt và Tập làm văn), cần hướng dẫn các em cách sử dụng các biện pháp tu từ, nhất là trong các bài tập viết đoạn văn miêu tả để tránh câu văn cụt, tập cho các em biết nhận xét cái hay cũng như những thiếu sót trong bài làm của bản thân, biết cách sửa chữa khi được bạn và thầy cô góp ý. – Giáo viên cũng cần giành thời gian hướng dẫn các em sử dụng các cặp quan hệ từ để ý câu liền mạch và câu bao giờ cũng đủ các bộ phận chính. c. Giáo dục đạo đức, tư tưởng, tình cảm . – Tác động đến tư tưởng các em, giúp các em tự tin vào sức lực và khả năng của mình, từ đó có sự hứng thú và yêu thích bộ môn. – Tạo một môi trường thân thiện. Giáo viên cần thân mật, vui vẻ với học sinh để học sinh tự nhiên và mạnh dạn hơn trong các giờ học. – Khuyến khích, động viên các em tham gia các lớp học phù đạo do nhà trường tổ chức. 7- Phối hợp với gia đình nâng cao nhận thức của học sinh về môn Văn, nhận thức đúng về giá trị tích cực của môn Văn trong việc nâng cao kĩ năng sống. d. Chú ý việc rèn luyện ở nhà của học sinh : – Đối với học sinh yếu về chính tả, giáo viên yêu cầu học sinh phải có một cuốn vở để luyện viết. Giáo viên giao bài cho học sinh về nhà viết, sau đó có kiểm tra, đánh giá. – Với những học sinh yếu về kĩ năng làm văn, diễn đạt không trôi chảy, giáo viên ra đề (mức độ đơn giản) yêu cầu học sinh trình bày đoạn văn, giáo viên xem xét, rút ra nguyên nhân sai sót để học sinh sửa chữa. – Hướng dẫn các em phân biệt âm đầu, vần, âm cuối, phải hiểu nghĩa của cụm từ để viết đúng. Luyện tập cho các em kĩ năng nghe chính xác, phát âm chính xác. đ. Xoá hiện tượng đọc kém : – Đọc được xem là tiền đề cho việc nhận thức, đọc cảm, đọc hiểu và trả lời được câu hỏi tìm hiểu bài. Đọc có trôi chảy, có hiểu thì khi viết, các em mới biết mình phải viết như thế nào. Vì thế, giáo viên nên tạo điều kiện cho học sinh đọc kém rèn đọc nhiều hơn, động viên, khuyến khích các em tham gia trả lời câu hỏi tìm hiểu bài. – Chia đoạn bài văn để học sinh kém rèn kĩ năng đọc từng đoạn. Khi học sinh đọc, giáo viên lắng nghe và sửa chữa cách đọc. Tổ chức cho các em thi đua đọc câu hoặc e. Hướng dẫn học sinh cách ôn tập : + Ôn thường xuyên: + Ôn định kỳ: – Khi học hết một dạng bài. – Khi chuẩn bị cho kiểm tra một tiết, kiểm tra định kỳ. + Cách ôn tập : – Hệ thống hoá kiến thức bằng sơ đồ. – Cố gắng tái hiện kiến thức cũ, trình bày, lý giải lại. – Ôn tập bằng cách trả lời các câu hỏi, giải các bài tập. – Sơ đồ giúp ta dễ dàng nhận thấy mối liên hệ giữa các đơn vị kiến thức. (?) Học thế nào để thi cho tốt? Thi thế nào để đạt điểm cao? * Trước hết, chúng ta nên “ Học bài nào xào bài ấy”. Nghĩa là, trên lớp ta học bài nào, về nhà ta phải giải quyết ngay bài học ấy, không nên để dây dưa, không nên hẹn lần, hẹn lữa, ta phải luôn tâm niệm “ Việc hôm nay chớ để ngày mai”. 8* Kết hợp học với hành. Ta vừa học lý thuyết vừa vận dụng làm bài tập. Có như thế ta mới vừa nhớ được kiến thức, vừa nhớ được nội dung của bài học. * Phân bố thời gian học tập hợp lý, học có hệ thống. Khi học thì phải thật tập trung. hỏi, muốn giỏi phải học”. Học ở đây không có nghĩa là chỉ học ở thầy cô, ở sách giáo khoa, mà chúng ta còn phải học ở bạn bè, trong sách báo, sách tham khảo, trong các tác phẩm văn học C. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ : Để thực hiện tốt những giải pháp trên, giáo viên phải thường xuyên tổ chức, thực hiện một cách nhịp nhàng, đồng bộ trong mọi giờ dạy trên lớp. Tuy nhiên với mỗi môn học chúng ta cần phải có sự vận dụng sáng tạo để làm sao có thể kích thích được hứng thú học tập của học sinh, để cho mỗi tiết học, giờ học mang lại hiệu quả cao nhất. Đó là một trong những giải pháp giúp học sinh học yếu bộ môn phát huy được tính tích cực, chủ động, sáng tạo ở mức cơ bản nhất. Đối với các lớp học phụ đạo, cần lựa chọn những giáo viên có năng lực chuyên môn, nhiệt tình, có tinh thần trách nhiệm cao phụ trách đứng lớp. Việc áp dụng, đổi mới phương pháp dạy học nhằm nâng cao chất lượng dạy và học Văn là nỗi trăn trở chung của tất cả những ai đã và đang đứng trên bục giảng. Ở đây, chỉ xin góp một vài ý kiến nhỏ, một tiếng nói hoà vào muôn vàn tiếng nói chung của các đồng nghiệp để phần nào nâng cao chất lượng dạy và học đối với bộ môn Văn trong nhà trường phổ thông. Rất mong nhận được sự góp ý của đồng nghiệp gần xa.

Giải Pháp Giúp Học Sinh Yếu Kém Học Tốt Môn Toán

A. ĐẶT VẤN ĐỀ I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI 1.Về lý luận.

Yêu cầu của công tác giảng dạy đó là trang bị cho học sinh kiến thức và xây dựng, hoàn thiện các phẩm chất đạo đức cho học sinh. Tuy nhiên, tùy vào hoàn cảnh hay khả năng tiếp thu nhanh hay chậm của mỗi học sinh khác nhau sau một thời gian tạo ra các đối tượng học sinh là: khá-giỏi, trung bình, yếu kém.Mỗi đối tượng học sinh lại cần những phương pháp giáo dục riêng đòi hỏi người giáo viên phải xây dựng cho mình cách thức giáo dục thích hợp. Ở đề tài này, tôi sẽ đề cập đến cách học sinh yếu kém môn toán

Học sinh yếu kém về toán là những học sinh có kết quả về môn toán thường xuyên dưới mức trung bình. Đối với diện học sinh này, giáo viên thường gặp rất nhiều khó khăn do càng là học sinh yếu kém thường lại là các học sinh cá biệt, vì một thời gian lâu dần các em chưa thể xây dựng cho mình phương pháp học tập thích hợp, dẫn đến tình trạng chán học , lười học. Do đó việc giúp đỡ lĩnh hội tri thức, rèn luyện kỹ năng cần thiết đối với những học sinh này tất yếu đòi hỏi tốn nhiều công sức và thời gian hơn so với những học sinh khác.

Về mặt lý luận, người thầy phải nắm vững các đặc điểm tâm sinh lí, cũng như năng lực tiếp thu kiến thức của học sinh yếu kém ,để từ đó đề ra các giải pháp phù hợp nhằm khắc phục tình trạng yếu kém trong học toán của học sinh.

2. Thực tiễn.

Cũng như việc bồi dưỡng học sinh giỏi toán, việc giúp đỡ học sinh yếu kém phải được tiến hành ngay cả trong những tiết dạy học đồng loạt bằng các biện pháp phân hoá nội tại thích hợp.

Tuy nhiên, trong thực tế dạy học việc nâng cao hiệu suất giờ lên lớp để giúp đỡ học sinh yếu kém người thầy vẫn cần có sự giúp đỡ tách riêng đối với nhóm học sinh yếu kém (thực hiện chủ yếu ngoài giờ chính khoá).

Lứa tuổi học sinh lớp 7 là khoảng thời gian mà học sinh có những biến đổi tâm lí rõ nét, các em đã mạnh dạn hơn trong các mối quan hệ bạn bè, có nhu cầu trong việc tìm hiểu thế giới bên ngoài,nếu bài học không thú vị, khó hiểu hoặc không phù hợp với trình độ rất dễ gây nên tình trạng chán học,lười học dẫn đến đạt kết quả kém trong học tập.

Trên địa bàn mà trường tôi trực thuộc, học sinh đa số là con em nông thôn, điều kiện kinh tế còn khó khăn nên việc đầu tư về vật chất cũng như thời gian cho con cái học tập chưa cao, ngoài giờ đến lớp các em còn phải giúp đỡ bố mẹ các công việc gia đình, không có thời gian để tự học. Sự quan tâm kèm cặp con cái của phụ huynh còn hạn chế, hơn nữa hoàn cảnh gia đình một số em do làm ăn không chăm lo con cái , thường không ở nhà kèm cặp. Ý thức học tập của một số em chưa cao, phương pháp học tập chưa phù hợp, dẫn đến chất lượng học tập của học sinh còn yếu vì thế hầu hết các em sợ học môn toán.

3.Tính cấp thiết:

Trong quá trình giảng dạy đối tượng học sinh yếu kém là một trong những đối tượng thường hay gặp phải, đòi hỏi người thầy phải có những bước đi thích hợp nhanh chóng nhằm khắc phục những thiếu sót về mặt kiến thức, cũng như xây dựng cho học sinh phương pháp học tập ngay từ đầu năm để tránh xảy ra vấn đề bị tụt hậu về mặt kiến thức.

Học sinh yếu kém môn toán ở khối lớp 7 thường gặp phải các vấn đề cơ bản là thiếu kĩ năng tính toán,kĩ năng vẽ hình và suy luận vấn đề một cách logic dẫn đến không thể giải các bài toán thuộc kiến thức chuẩn của bộ môn và bài kiểm tra đạt điểm thấp .

Trong việc áp dụng các biện pháp giáo dục,người thầy phải dựa trên sự phát triển của tâm sinh lí và lứa tuổi cũng như kiến thức chuẩn kĩ năng mà bộ giáo dục đã ban hành,cùng với hoàn cảnh thực tiễn địa phương và gia đình.

4.Lý do về mặt năng lực nghiên cứu:

Qua quá trình giảng dạy, gặp nhiều đối tượng học sinh có những trình độ năng lực khác nhau. Tôi nhận thấy rằng, học sinh yếu kém là một trong những vấn đề quan trọng mà nhiều giáo viên hay lúng túng hoặc có nhiều giáo viên đưa ra một số phương pháp giáo dục song kết quả thu được chưa đáp ứng được mong muốn.

Là một giáo viên cũng đã trải qua rất nhiều khó khăn khi tiếp xúc với bộ môn toán thời còn đi học. Tôi rất hiểu và thông cảm trước những khó khăn của các em. Bởi vậy trong quá trình giảng dạy tôi luôn học hỏi đồng nghiệp và tìm tòi những phương pháp thích hợp để giúp các em học sinh yếu, kém yêu thích và học tốt môn toán.Với mong muốn nâng cao chất lượng dạy học môn toán ở trường THCS và qua thực tế dạy học tôi đã tìm tòi áp dụng một số giải pháp bước đầu đã đem lại thành công nhất định. Vì thế tôi chọn đề tài: “giải pháp giúp học sinh yếu kém học tốt môn toán “.

II. MỤC ĐÍCH- NHIỆM VỤ – PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU. 1. Mục đích:

Sở dĩ tôi chọn đề tài này là vì mong muốn tìm được một phương pháp tối ưu nhất, để trong quỹ thời gian cho phép hoàn thành được một hệ thống những phương pháp khoa học, nhằm lấp đầy các chỗ hổng kiến thức và từng bước nâng cao thêm về mặt kỹ năng trong việc giải các bài tập Toán cho học sinh. Từ đó phát huy, khơi dậy khả năng sử dụng hiệu quả kiến thức vốn có của học sinh, đồng thời thu hút, lôi cuốn các em ham thích học môn toán, đáp ứng những yêu cầu về đổi mới phương pháp và nâng cao chất lượng dạy học hiện nay.

2. Nhiệm vụ.

2.1. Khảo sát chất lượng học sinh về môn toán nhằm xác định đối tượng học sinh yếu kém.

2.2. Tìm hiểu nguyên nhân gây ra sự yếu kém môn toán ở học sinh.

2.3. Phân loại đối tượng học sinh từ đó lựa chọn các biện pháp phù hợp và lập kế hoạch khắc phục hiện trạng yếu kém đó.

2.4. Thực hiện kế hoạch khắc phục yếu kém trong học sinh về môn toán.

2.5. Đúc rút kinh nghiệm trong công tác giảng dạy đối tượng học sinh yếu kém toán.

3. Phương pháp.

Đề tài này được hoàn thành trên phương pháp thống kê tổng hợp, quan sát, phân tích nguyên nhân và phương pháp thực nghiệm sư phạm.

III. PHẠM VI – ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU-KẾ HOẠCH

Kiến thức môn toán bậc THCS như đã trình bày đóng vai trò nền tảng. Vì thế khắc phục tình trạng yếu kém môn toán ở bậc THCS là vấn đề không chỉ của riêng một cá nhân giáo viên dạy toán nào.

Tuy nhiên, để đạt hiệu quả rõ ràng trong việc nghiên cứu và thể nghiệm trong đề tài này tôi chủ yếu tập trung đi sâu vào phương pháp dạy học toán cho học sinh yếu, kém thuộc lớp 7A của trường tôi đang công tác vào các giờ học luyện tập, tự chọn, các buổi học phụ kém, các giờ học ngoại khóa…..Các bài toán được đề cập đến trong đề tài thuộc phạm vi SGK, SBT đảm bảo tính vừa sức đối với các em.

Thời gian nghiên cứu là bắt đầu ngay từ khi tiếp nhận lớp ngay từ đầu năm học đến khi kết thúc năm học 2016-2017. Nghiên cứu trong một năm học

IV. ĐỐI TƯỢNG KHẢO SÁT THỰC NGHIỆM:

Học sinh lớp 7A mà tôi đang giảng dạy.

Qua việc nghiên cứu và thực tế giảng dạy cho thấy việc thực hiện đề tài thu được những kết quả khả quan. Chất lượng môn Toán được nâng lên rõ rệt thể hiện qua sổ điểm. Hơn nữa chất lượng học sinh khá cũng tăng lên. Học sinh tỏ ra quan tâm yêu thích học toán hơn trước đây.

B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ I. Cơ sở lý luận

Như đã đề cập ở trên học sinh yếu kém môn toán là học sinh có kết quả học tập môn toán thấp thể hiện qua sổ điểm, học bạ môn toán

Lứa tuổi THCS là lứa tuổi có bước chuyển biến tâm lý lớn trong đời người, các em có nhu cầu tìm hiểu về thế giới xung quanh, bản chất của hiện tượng mà các em gặp phải, những kiến thức cần và đủ để áp dụng vào cuộc sống đối với môn toán đó là kĩ năng tính toán, suy diễn logic,trí tưởng tượng , khả năng giải quyết vấn dề đây là vấn đề đã được đề cấp rất nhiều trong các sách về giáo dục, tâm lí.

Việc giáo dục và đào tạo học sinh là toàn diện. Người thầy không chỉ giáo dục học sinh về mặt kiến thức mà còn xây dựng cho các em phương pháp chiếm lĩnh lĩnh hội tri thức đồng thời hoàn thiện nhân cách,giúp các em hiểu biết về thế giới bên ngoài và bước vào cuộc sống với sự chuẩn bị tốt nhất.

Học sinh được chia làm 3 đối tượng chủ yếu : khá-giỏi, trung bình, yếu_ kém. Việc phân chia như vậy dựa vào năng lực, kết quả học tập của học sinh, người thầy có thể có những phương pháp giáo dục cho từng đối tượng thích hợp.

II. Thực trạng vấn đề nghiên cứu

Kết quả tìm hiểu vấn đề thông qua kết quả học tập lớp dưới, kiểm tra khảo sát đầu năm tôi cho làm thấy phần lớn học sinh lớp 7A ở diện yếu kém, số học sinh khá trung bình thấp: 60% học sinh thuộc diện yếu kém, chỉ có không đến 40% học sinh ở mức trung bình và khá, không có học sinh giỏi. Đây là vấn đề đáng báo động thúc đẩy tôi nghiên cứu vấn đề này.

III. CÁC GIẢI PHÁP

1. Khảo sát chất lượng đầu năm của học sinh để tìm đối tượng yếu, kém.

Thông qua học bạ lớp dưới, thông qua bài kiểm tra khảo sát đầu năm mà tôi cho, kiểm tra vấn đáp những kiến thức cơ bản, trọng tâm mà các em đã được học thông qua kiểm tra bài cũ. Qua đó giúp tôi nắm được những đối tượng học sinh yếu kém và những ”lỗ hổng” kiến thức của các em. Trên cơ sở đó tôi phân lớp thành nhiều nhóm gọi là nhóm ” Tương đồng về kiến thức “. Rồi tìm hiểu nguyên nhân và lập kế hoạch khắc phục.

2. Tìm hiểu và phân loại các nguyên nhân

Qua thực tế tìm hiểu tôi nhận thấy có các nguyên nhân chủ yếu sau dẫn đến học sinh học yếu đó là:

2.1 Học sinh có nhiều “lỗ hổng” về kiến thức cũng như kỹ năng do:

* Nguyên nhân khách quan:

– Do kinh tế gia đình khó khăn nên điều kiện học tập thiếu thốn về cả vật chất cũng như thời gian, dẫn đến kết quả học tập theo đó bị hạn chế.

– Do học sinh bị ảnh hưởng hoàn cảnh gia đình dẫn đến chán nản học tập.

-Do diễn biến tâm lí tuổi mới lớn.

* Nguyên nhân chủ quan:

– Kiến thức bị hổng do học sinh lười học, phụ huynh thiếu quan tâm kèm cặp.

2.2 Do khả năng tiếp thu chậm. 2.3 Do thiếu phương pháp học tập phù hợp. 2.4 Do giáo viên chưa thật sự tìm ra phương pháp dạy học thích hợp với đối tượng.

3. Lập kế hoạch thực hiện ( Xác định thời gian nội dung chương trình)

4. Thực hiện các biện pháp khắc phục yếu, kém.

4.1. Trước hết, tôi chú trọng khắc phục các yếu tố khách ảnh hưởng đến kết quả học tập của những học sinh có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn với tinh thần trách nhiệm của một người thầy giáo bộ môn toán.

4.1.1. Đối với những em do hoàn cảnh kinh tế gia đình quá khó khăn :

– Ví dụ như các em bị thiếu thốn sách vở đồ dùng học tập. Ngoài các buổi đến lớp các em phải làm phụ giúp kinh tế gia đình ảnh hưởng đến thời gian để học tập. Sau khi tìm hiểu biết được hoàn cảnh của các em tôi kết hợp với giáo viên chủ nhiệm đã có ý kiến đề xuất lên ban lãnh đạo nhà trường có thể miễn giảm cho các em một phần nào các khoản đóng góp có thể được, giảm bớt gánh nặng về sự thiếu thốn vật chất cho các em. Ngoài ra tôi cũng thường xuyên nói chuyện tâm sự với các em để động viên , khích lệ tinh thần vượt lên hoàn cảnh khó khăn để vươn tới thành công trong học tập.

4.1.2. Với đối tượng học sinh gặp sự cố bất thường về tinh thần. 4.1.3Đối với đối tượng nguyên nhân do diễn biến tâm lí:

– Ví dụ như bố mẹ đi làm ăn kinh tế ở xa, hay những trường hợp có những cú sốc về tình cảm trong gia đình mà các em bị ảnh hưởng, có một số em phải ở với ông bà bị thiếu thốn về tình cảm và sự chăm sóc của bố mẹ…Thông qua học sinh và phụ huynh tôi thường xuyên trò chuyện thân mật riêng với các em , động viên an ủi để các em có thể vượt qua cơn khủng hoảng về tinh thần, góp phần nào giúp các em trở lại trạng thái cân bằng về tình cảm và tập trung vào việc học tốt hơn.

4.1.4 Với đối tượng học sinh yếu kém do lười học.

– Độ tuổi học lớp 7 là lứa tuổi có những biến động tâm lí , ở tuổi này các em đã có một thời gian học cùng nhau , làm quen với nhau , với các thầy cô giáo trong nhà trường đồng thời đã có sự phân biệt nam nữ trong các mối quan hệ.Vì vậy, tôi phải thường xuyên quan tâm giúp đỡ uốn nắn các em,giúp các em xây dựng tinh thần trong sáng phù hợp với lứa tuổi,tập trung vào học tập.

Trong khi dạy học tôi thường xuyên lồng ghép cách tiếp cận kiến thức, cách suy luận, tìm hiểu đề bài từ đó đưa ra phương pháp giải bài tập làm toán,đồng thời giải đáp thắc mắc của học sinh,hướng dẫn học sinh xây dựng phương pháp học tập phù hợp với khả năng của mình.

Sau khi tạo được tâm thế thoải mái về tinh thần trong học sinh thì việc tiếp theo đóng vai trò quan trọng và quyết định. Đó chính là thực hiện các biện pháp phù hợp nhằm giúp các học sinh yếu kém có điều kiện về mặt kiến thức để theo kịp yêu cầu chung của những tiết học trên lớp, tiến tới có thể hoà nhập vào việc dạy học đồng loạt.

4.2. Khắc phục các yếu tố chủ quan: 4.2.1 Trước hết cần đảm bảo cho học sinh có trình độ xuất phát cho những tiết lên lớp.

Qua kinh nghiệm giảng dạy tôi đã gặp rất nhiều khó khăn khi giảng dạy kiến thức mới trong điều kiện nền tảng kiến thức cũ rất yếu kém của học sinh. Đây là một nỗi niềm trăn trở day dứt hàng ngày gặm nhấm trái tim nghề nghiệp của tôi, thôi thúc tôi phải làm một điều gì đó để có thể giúp đỡ các em.Và tôi đã thay đổi cách nghĩ và cách làm trong công tác giảng dạy để giúp đỡ các em yếu, kém học tốt môn toán hơn qua các biện pháp cụ thể sau:

Để tiết học trên lớp có kết quả thường đòi hỏi những tiền đề nhất định về trình độ kiến thức, kỹ năng sẵn có của học sinh. Đối với diện học sinh yếu kém thì thiếu hẳn tiền đề này. Vì thế cần giúp nhóm học sinh này có đủ tiền đề dảm bảo trình độ xuất phát cho những tiết lên lớp đạt hiệu quả.

Trước hết, tôi nghiên cứu kỹ nội dung chương trình, vạch rõ khối lượng tri thức và những kỹ năng cần thiết như những tiền đề xuất phát thông qua SGK, SGV, chuẩn chương trình …

Sau đó, phân tích mức độ,năng lực tri thức kỹ năng có sẵn ở học sinh ở trình độ nào (qua quá trình tìm hiểu, quan sát ở học sinh trên lớp, qua các bài kiểm tra, …)

Chẳng hạn: Ví dụ 1:

Tiếp đến, tôi tập trung vào việc tái hiện những tri thức và tái tạo những kỹ năng cần thiết một cách tường minh thông qua việc cho học sinh ôn tập những tri thức, kỹ năng trước khi dạy nội dung mới vào các buổi học ngoài giờ chính khoá.

Bài tập1: Đổi các số thập phân sau ra phân số:

0,6 v à 2,25

HS: ;

Bài tập2: Tính :

Hỏi: Em có nhận xét gì về mẫu số của hai phân số?

Muốn thực hiện phép cộng trên trước hết ta phải làm gì?

(HS: Phải qui đồng mẫu các phân số)

Hỏi: Tiếp theo cộng như thế nào?

(HS: Tử cộng tử, giữ nguyên mẫu)

Hỏi: Nhắc lại cách cộng hai số nguyên?

(HS: Nêu cách cộng hai số nguyên và tiến hành cộng)

Bài tập 3: Tìm x, biết: a)

Hỏi: Vai trò của x trong phép toán trên?

Vậy muốn tìm x ta làm thế nào?

Hoặc giáo viên có thể gợi ý cách 2 về quy tác chuyển vế

GV: Hãy nhắc lại qui tắc chuyển vế trong Z

(HS: Nhắc lại qui tắc chuyển vế trong Z)

GV: Tương tự trong Q ta cũng có qui tắc chuyển vế

(HS: Vận dụng qui tắc chuyển vế và thực hiện bài toán

(Theo qui tắc chuyển vế)

x

Vậy:

Tiếp đó tôi đưa ra thêm 1 ví dụ nữa nhằm hướng dẫn, luyện tập cho các em cách làm bài ( hướng dẫn thật chi tiết)

b) ( tương tự câu a áp dụng quy tắc chuyển vế)

Sau khi làm các bài tập co bản trên có thể tiến hành hướng dẫn làm các bài tập nâng cao hơn nữa cho học sinh :

Bài tập có thêm hệ số :

GV : thứ tự thực hiện phép tính trong dãy tính toán ?

(nhấn mạnh yếu tố tìm kết quả của phép tính 2x)

Sau khi học sinh làm thành thạo có thể nâng cao hơn khi cho các dạng bài tập tìm x:

Khi ra đề bài cần đảm bảo tính vừa sức kết hợp vừa có tính nâng cao để học sinh phải chủ động suy nghĩ, đảm bảo tính đa dạng tổng quát vận dụng nhiều kiến thức trong bài tập, ra bài tập vừa đủ không quá nhiều gây tâm lí e ngại khi làm bài.

-Như vậy trong buổi phụ đạo học sinh đã nắm được những kiến thức tiền đề của bài mới. Đảm bảo trình độ xuất phát cho tiết học chính khoá giúp các em tiếp thu bài một cách chủ động và hứng thú hơn, phát biểu xây dựng bài sôi nổi hơn. Hiệu quả giờ học được nâng lên rõ rệt.

Trong bài học mới khi đưa ra yêu cầu thực hiện phép tính

–+ 2,25.

Chỉ với gợi ý nhỏ: Mọi số hữu tỉ đều có thể viết được dưới dạng phân số với a,b Z, b 0. Là học sinh phát hiện được hướng giải quyết vấn đề nhờ bài học phụ đạo đã nắm vững.

*Rèn luyện tính chất giao hoán kết hợp :

Ví dụ : Tính

Với các phép tính và số lượng thành phần ít trong phép tính giúp học sinh dễ dàng nhận ra cách thay đổi vị trí các hạng tử, để hực hiện phép tính một cách đơn giản và nhanh nhất.Sau ki thành thạo hơn ta có thể dưa ra các bài tập đòi hỏi tư duy nhiều hơn. Chẳng hạn :

Bài tập :a)

b)

Đối với tính chất phép nhân phân phối phép cộng: đây là một tính chất khó học sinh rất hay thường nhầm lẫn hoặc lung túng khi được yêu cầu áp dụng vào tính toán

Ví dụ : thực hiện phép tính một cách hợp lí

Học sinh thường mắc sai lầm khi tính toán như sau :

Vì vậy cần nhấn mạnh tính xuất hiện giữa các hạng tử

Ví dụ 2:

Trước khi dạy khái niệm ” đường trung trực của đoạn thẳng” giáo viên cần cho học sinh ôn tập lại các kiến thức, kỹ năng cũ như trung điểm của đoạn thẳng, cách vẽ trung điểm của đoạn thẳng , vẽ đường thẳng vuông góc với đoạn thẳng cho trước qua một điểm cho trước đã được học ở lớp 6, rèn kỹ năng cho học sinh sử dụng thước và ê ke thành thạo thông qua các bài tập sau:

Điền vào chỗ (…) trong phát biểu sau để có định nghĩa đúng.

“Trung đểm của đoạn thẳng AB là …”

Vẽ đoạn thẳng AB dài 4 cm. Vẽ điểm M là trung điểm của đoạn thẳng AB.

Cho M là trung điểm của đoạn thẳng AB. Qua M vẽ đường thẳng xy vông góc với đoạn thẳng AB.

Như vậy khi học sinh đã nắm được khái niệm và kỹ năng nói trên thì việc tiếp thu bài mới không mấy khó khăn.

Trong thực hiện việc tạo tiền đề đảm bảo trình độ xuất phát cần chú ý:

* Mỗi bài toán phải được thực hiện qua nhiều bước, hướng dẫn và yêu cầu cách thực hiện thành thạo từng bước một.

* Tổ chức phân dạng bài tập một cách khoa học, chi tiết, cung cấp cho học sinh các dạng bài tập một cách có hệ thống.

* Soạn thêm nhiều bài tập đơn giản và tương tự cho từng dạng để các em tự làm, qua đó các em được lặp lại nhiều lần, giúp các em dễ khắc sâu kiến thức.

Sau khi kiến thức lớp dưới đã được bù đắp và bằng cách hạ thấp yêu cầu đến mức tối thiểu ở các dạng bài tập tôi nhận thấy các em học sinh đã xích lại gần nhau hơn, tiếp thu bài mới tốt hơn, yêu thích học môn toán hơn.

4.2.2. Thực hiện biện pháp lấp “lỗ hổng” về kiến thức và kỹ năng cho học sinh

Ngoài ra do việc bố trí kiến thức, lúc bình thường các em chủ yếu làm bài tập chỉ áp dụng một hay hai đơn vị kiến thức, cho nên khi gặp những bài toán yêu cầu kết hợp nhiều đơn vị kiến thức học sinh thường cảm thấy lúng túng, không biết bắt đầu trình bày từ đâu, như thế nào cái nao nói trước cái nào nói sau. Vì vậy trong quá trình giảng dạy của mình tôi thường xuyên đưa ra các bài tập ở dạng tổng hợp, hướng dẫn học sinh cách trình bày logic theo thứ tự thích hợp.

Qua tìm hiểu thực tế cho thấy: Kiến thức có nhiều “lỗ hổng” là một “bệnh ” phổ biến của học sinh yếu kém toán. Vai trò của việc đảm bảo trình độ xuất phát là cần thiết nhưng chỉ để phục vụ cho nội dung sắp học . Còn việc lấp lỗ hổng về kiến thức kỹ năng là nhiệm vụ cần thiết nhưng mang tính tổng quát không phụ thuộc ý đồ chuẩn bị cho một bài học cụ thể nào sắp tới.

Trong quá trình dạy học người thầy cần quan tâm phát hiện những lỗ hổng về kiến thức, kỹ năng của học sinh. Tìm ra những “lỗ hổng” điển hình đối với học sinh yếu kém mà ở trên lớp vì điều kiện thời gian chưa khắc phục được để có kế hoạch tiếp tục giúp đỡ.

Trong quá trình giảng dạy, tôi thấy ở học sinh yếu kém toán lớp 7 thường bị hổng kiến thức ở những mặt sau

*Đại số:

-Phần tập hợp số nguyên, các kỹ năng như thực hiện các phép tính trên số nguyên, quy đồng mẫu các phân số…. ở số học nguyên nhân của nó rất đơn giản ,và thường gây bất ngờ với rất nhiều giáo viên đó là các em phụ thuộc quá nhiều vào viêc sử dụng máy tính, dẫn đến khi tính toán rất hay nhầm lẫn sai xót. Tóm lại các em thiếu kỹ năng tính toán.

– Nguyên nhân thứ hai là các em thiếu năng trình bày lời giải dẫn đến khi trình bày lời giải chưa logic hoặc khi trình bày lời giải do trình bày vắn tắt dẫn đến sai xót do chủ quan.

Ví dụ : khi thực hiện phép tính:

(sai do tính toán và trình bày vắn tắt mà chưa thành thạo trong tính toán)

Hoặc

ở đây học sinh ra đến kết luận bài toán nhưng lại không thực hiện nốt phép tính, bài toán là minh chứng cho việc học sinh chủ quan,cẩu thả trong khi làm bài.

*Hình học:

– Học sinh thường vẽ hình theo diễn đạt còn kém. các khái niệm về trung điểm của đoạn thẳng,tia phân giác của góc còn chưa nắm vững…thiếu kĩ năng vẽ hình

– Chưa biết sử dụng kí hiệu toán học để thay thế lời nói trong khi giải bài tập hình

Bởi thế tôi tập trung thời gian và sức lực cho việc bù đắp những lỗ hổng này cho các nhóm học sinh vào các buổi học phụ kém và cả giao bài về nhà.a

Ở các buổi học phụ kém, tôi đã hệ thống hoá những kiến thức, kỹ năng còn hổng cho học sinh và đặc biệt chú ý đến hệ thống các bài tập chứa đựng nội dung kiến thức và kỹ năng cần bù đắp.

Chẳng hạn:

-Với nhóm học sinh yếu về kỹ năng cộng trừ số nguyên thì một mặt ở giờ học phụ kém tôi giúp các em nhớ lại cách thực hiện đồng thời cho các em thực hành nhiều lần với bài tập đơn giản vừa sức để các em mau chóng lấy lại được kiến thức và kỹ năng cơ bản. Mặt khác tôi giao bài tập về nhà và phân công học sinh khá kiểm tra giúp đỡ, hướng dẫn thêm cho nhóm.

Ở các nhóm khác tôi cũng tiến hành tương tự.

4.3 Giúp học sinh yếu kém luyện tập đảm bảo vừa sức

Ngoài ra, thông qua quá trình học lí thuyết và làm bài tập của học sinh tôi đã cố gắng tập cho học sinh có ý thức tự phát hiện những lỗ hổng của mình và biết cách tra cứu sách vở, tài liệu để tự mình lấp những “lỗ hổng” đó.

Đối với học sinh yếu kém, thầy giáo nên đặt quan điểm đảm bảo tính vững chắc của kiến thức lên hàng đầu. Việc luyện tập theo trình độ chung sẽ không phù hợp với học sinh yếu kém, vì vậy nhóm này cần nhiều thời gian luyện tập hơn.

Trước hết phải làm cho các em hiểu rõ đề bài: Đề bài cho biết cái gì? yêu cầu cái gì?

Nếu học sinh không hiểu đề bài thì không thể tiếp tục quá trình giải toán để đưa lại kết quả đúng được. Do đó giáo viên cần dành nhiều thì giờ giúp các em vượt qua được vấp váp đầu tiên này.

Để rèn một kiến thức hay kỹ năng nào đó thì số lượng bài tập cùng mức độ cùng thể loại đối với các em yếu kém cần nhiều hơn bình thường, cùng mức độ . Do đó giáo viên cần chú ý gia tăng số lượng bài tập cùng thể loại . Ngoài ra các bài tập phải được phân bậc với mức độ gần nhau (phân bậc mịn)

Khi dạy bài : “Cộng, trừ số hữu tỉ “. Phần bài tập về nhà cho đối tượng học sinh yếu, kém tôi ra các dạng như sau:

a) ;

b) ;

a) ;

b) ;

Bài 3: Tìm x, biết

a) ;

b) ;

Thông thường khi ra bài tập cho đối tượng học sinh yếu , kém không nên ra quá nhiều và khó, các dạng bài tập phải vừa sức với các em đặc biệt là có kiểm tra, chấm, chữa và cho điểm để động viên, khuyến khích các em.

Được bước đi theo từng bậc thang vừa sức với mình, các em yếu kém sẽ tự tin hơn, không còn cảm giác bị hụt hẫng và sợ ngã. Sự tự tin giúp các em có thể tự leo hết các nấc thang dành cho mình. Từ đó dần dần chiếm lĩnh tri thức và kỹ năng cơ bản cần thiết. Các bậc thang dù có thấp song sự kiên trì và nghị lực mới là điều quan trọng giúp các em vượt qua tình trạng yếu kém hiện tại.

4.4. Giúp đỡ học sinh rèn luyện .kỹ năng học tập,có phương pháp học tập phù hợp.

Trong quá trình dạy học tôi cho rằng việc dạy nhiều bài tập chưa chắc đã hiệu quả hơn bằng việc dạy một số ít bài, có trọng tâm và dành nhiều thời gian nhất cho học sinh có thể tự làm được hiểu được bài, kết hợp với việc lồng ghép chơi các trò chơi toán họcgiúp học sinh không bị gò bó nhàm chán trong tiết học,

Một thực tế vẫn xảy ra thường xuyên là học sinh không biết cách học như thế nào cho có hiệu quả. Các em do không có kỹ năng học tập nên thường chưa học kỹ, thậm chí chưa hiểu lý thuyết đã lao vào làm bài tập, đọc chưa kỹ đề đã đặt bút vào làm bài, trong khi làm bài các em thường vẽ hình cẩu thả, viết nháp lộn xộn…Vì thế việc hướng dẫn các em phương pháp học cũng đóng vai trò hết sức quan trọng.

Trước hết cần nói rõ yêu cầu sơ đẳng của việc học tập toán:

– Phải nắm vững lý thuyết trước khi làm bài tập.

-Trước một bài tập cần đọc kỹ đầu bài, vẽ hình rõ ràng, viết nháp cẩn thận.

– Sau khi học xong một chương cần giúp học sinh hệ thống hoá kiến thức (tốt nhất là bằng bảng hoặc bằng sơ đồ). Tóm tắt lý thuyết cơ bản và các công thức quan trọng cũng như cách giải một số dạng toán cơ bản và dán vào góc học tập.

IV. KẾT QUẢ THỰC NGHIỆM

Trong quá trình giảng dạy, tôi thường xuyên giới thiệu cho các em một số cách ghi nhớ kiến thức cơ bản : dùng sơ đồ tư duy dể ghi nhớ hoặc hệ thống hóa kiến thức. Hướng dẫn các em tự thiết lập cho mình cách học phù hợp với trình độ cũng như lối tư duy, cách sử dụng một số dụng cụ học tập hiệu quả nhanh chóng như : sử dụng máy tính cầm tay,sử dụng phần mềm vẽ hình sketpad, cách sử dụng thước compa sao cho hiệu quả.

Quá trình thực hiện nêu trên đối với học sinh lớp 7 ở trường mà tôi đang giảng dạy đã đạt kết quả đáng lưu tâm.

Khi năm học mới bắt đầu lớp có tới 60% học sinh yếu, kém. Nhưng với cách làm này cuối năm học chỉ còn 5% học sinh học. yếu, không có học sinh học sinh học kém.

Hơn thế nữa qua cách làm này, các em rất hứng thú và yêu thích môn toán hơn, tự tin hơn trong học tập.

Bảng so sánh:

Kết quả kiểm tra 2016-2017

Học kì

Điểm dưới 4

Điểm từ 4đến dưới 5

Điểm trên 5

Biểu đồ điểm kiểm tra 2016-2017 :

%

55

40

20

5

Điểm trên 5 Điểm từ 4 đến dưới 5 Điểm dưới 4 Học kì I Học kì II

Kết quả học tập 2016-2017

Học kì

Kém

Yếu

Trung bình

Khá giỏi

I

0%

15%

45%

40%

II

0%

5%

45%

55%

Biểu đồ kết quả học tập 2016-2017:

Học kì I học kì II 5 Yếu Khá giỏi C. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ I. KẾT LUẬN Trung bình 15

%

55

45

40

Học kì I Học kì II

Sau một thời gian áp dụng đề tài , rôi đã thu đuợc những kết quả khả quan và đạt được những mục tiêu nhất định ,học sinh thấy hứng thú , yêu thích môn học,khả năng học và tự học tiến bộ hơn. Cụ thể thông qua bài khảo sát mà cá nhân tôi thực hiện như sau

Điểm dưới 4 Điểm trên 5 Điểm từ 4 đến dưới 5

Học kì

Điểm dưới 4

Điểm từ 4đến dưới 5

Điểm trên 5

Biểu đồ điểm khảo sát :

II. ĐỀ XUẤT KIẾN NGHỊ

60 %

45

40

35

15

5

Tài liệu tham khảo 1.2.3. Hoàng Ngọc Diệp- Thiết kế bài giảng Toán 7 tập 1,2- NXBHN 4. Nhóm tác giả: Lê Văn Hồng – Phạm Đức Quang – Nguyễn Thế Thạch – Nguyễn Duy Thuận – Tài liệu bồi dưỡng thường xuyên cho giáo viên THCS chu kì III ( 2004 – 2007), NXB Giáo dục, 2007. DANH MỤC CHỮ CÁI VIẾT TẮT Phan Đức Chính – Tôn Thân-SGV Toán 7 tập 1 – NXBGD Phan Đức Chính – Tôn Thân-SGK Toán 7 tập 1 – NXBGD

Như vậy việc giúp đỡ học sinh yếu , kém học tốt môn toán là việc làm rất khó khăn lâu dài đòi hỏi giáo viên phải có tình thương, một chút hy sinh và tinh thần trách nhiệm.

Việc sắp xếp thời gian thích hợp ngoài giờ lên lớp để bổ trợ kiến thức bị hổng cho học sinh yếu, kém đó là một khó khăn không phải ai cũng làm được. Mà phải có sự tận tâm hy sinh cao cả của người thầy tất cả vì tương lai các em. Do vậy rất cần đến sự chia sẻ từ phía lãnh đạo và các cấp ngành giáo dục.

Mỗi người thầy có một cách làm riêng, song với cách làm nêu trên với thành công ban đầu thiết nghĩ đó là kết quả đáng phấn khởi đối với người thầy dạy toán. Việc làm này không dễ thành công trong ngày một ngày hai mà phải là sự cố gắng bền bỉ và tận tuỵ thì mới mong mang lại kết quả tốt.

Với vốn kiến thức của mình còn hạn hẹp, bề dày kinh nghiệm còn khiêm tốn, nên không tránh khỏi những hạn chế khiếm khuýêt. Vậy rất mong hội đồng xét duyệt góp ý, `bổ sung để kinh nghiệm giảng dạy của chúng tôi ngày càng phong phú và hữu hiệu hơn.

Để thực hiện đề tài có hiệu quả cần:

– Nhà trường cần tiến hành khảo sát chất lượng đầu năm để xác định đối tượng học sinh yếu kém.

– Có kế hoạch phụ kém kịp thời.

– Nâng cao chất lượng đại trà của các khối lớp bằng các buổi học ngoài giờ chính khoá và đặc biệt tăng cường các buổi phụ đạo cho học sinh yếu kém.

– Tăng cường phối hợp giữa gia đình với nhà trường, giữa giáo viên bộ môn với giáo viên chủ nhiệm để tạo ra một sức mạnh tổng hợp.

– Phát động các đợt thi đua học tập trong công tác Đội. Tổ chức các câu lạc bộ giúp nhau học tập….

Nội dung viết tắt

Ý nghĩa

Thuộc

Một Số Biện Pháp Giúp Học Sinh Học Tốt Môn Toán Lớp 4.

Thứ bảy – 22/02/2014 16:09

Đề tài Một số biện pháp giúp học sinh học tốt môn toán lớp 4

Sự cần thiết, mục đích của việc thực hiện sáng kiến

a. Sự cần thiết (Lí do nghiên cứu)

Giáo dục Việt Nam trong thập niên đầu tiên của thế kỉ 21 chứng kiến sự bứt phá ngoạn mục từ nội tại và cả sự tác động từ phía xã hội. Lộ trình đổi mới chương trình, đổi mới phương pháp, thay sách giáo khoa như là một bước đột phá sống còn của giáo dục nhằm nâng cấp sản phẩm bắt kịp xu thế toàn cầu hóa của thời đại và bước đầu đã cho thấy những kết quả rất đáng ghi nhận. Trong đó, vai trò của thầy, cô giáo được xác định như là yếu tố mấu chốt để giải quyết kịp thời những bức bách, mâu thuẫn đang hiện hữu trong nền giáo dục chúng ta. Vì vậy, sự trăn trở cho mỗi giờ dạy, mỗi môn học là điều mà mỗi giáo viên như chúng tôi không thể không quan tâm. Qua nghiên cứu các tài liệu, tìm hiểu từ các phương tiện truyền thông và thông tin đại chúng và đặc biệt từ thực tế việc dạy, việc học tại Trường Tiểu học I Khánh Bình Tây Bắc, bản thân tôi nhận thấy vẫn còn nhiều vấn đề không thể không trăn trở. Cho dù lộ trình đổi mới phương pháp đã có một thời gian dài thực hiện và những ưu thế của nó là điều không thể phủ nhận, song chưa có ai dám khẳng đinh rằng ở mọi nhà trường đã thực hiện một cách hoàn hảo nhất các tiêu chí của dạy học hiện đại. Một bộ phận không ít giáo viên vẫn tỏ ra chần chừ, không thật mặn mà với phương pháp mới và thiếu sự quyết liệt trong quá trình thực hiện đổi mới. Một bộ phận học sinh tiếp cận với phương pháp mới một cách hờ hửng, thiếu sẳn sàng và thiếu tính chủ động, sáng tạo, linh hoạt trong xử lí thông tin còn hạn chế.Trường Tiểu học I Khánh Bình Tây Bắc nơi tôi đang công tác cũng không thể tránh khỏi những khiếm khuyết chung của nền giáo dục nước nhà. Trước thực tế đó, bản thân đã dành một thời gian đáng kể đầu tư cho việc đổi mới phương pháp, đặc biệt là đối với môn toán, sau nhiều lần thử nghiệm, bước đầu chúng tôi đã tìm được một số biện pháp hữu hiệu giúp học sinh tiếp cận nhanh với phương pháp dạy học hiện đại.Chính vì vậy tôi đã đi sâu vào tìm hiểu “Đề tài: Một số biện pháp giúp học sinh học tốt môn toán lớp 4 “, để giúp các em nắm vững các kiến thức trong môn học này.

2. Mục đích của việc thực hiện sáng kiến

Từ thực tiễn dạy học tiểu học nói chung và thực tiễn dạy học ở Trường Tiểu học I Khánh Bình Tây Bắc nói riêng. Thu thập, tập hợp xử lí thông tin, tìm ra những giải pháp cần thiết để hoàn thiện dần phương pháp dạy học toán ở bậc tiếu học.

Với sáng kiến ” Một số biện pháp giúp học sinh học tốt môn toán lớp 4″. Tôi đã triển khai và thực hiện trong toàn khối 4. Ngoài ra, sáng kiến còn có thể áp dụng tại trường tiểu học I Khánh Bình Tây Bắc.

4.Mô tả sáng kiến:

4.1 Cơ sở lý luận

Môn toán ở tiểu học rất quan trọng với các em học sinh không chỉ biết cách tự học mà còn phát triển ngôn ngữ( nói, viết) để diển đạt chính xác, ngắn gọn và đầy đủ các thông tin, để giao tiếp khi cần thiết…mà còn giúp các em hoạt động thực hành vận dụng tăng chất liệu thực tế trong nội dung, tiếp tục phát huy để phát triển năng lực của học sinh.

4.2 THỰC TRẠNG TRƯỚC KHI ÁP DỤNG CÁC BIỆN PHÁP

– Bản thân nhiều năm trực tiếp giảng dạy ở bậc tiểu học nên kinh nghiệm thực tế tích lũy được tương đối nhiều. – Hội đồng sư phạm trường nhiều đồng chí có kinh nghiệm, nhiều năm giảng dạy lại luôn có quyết tâm nhất quán trong đổi mới phương pháp nên bản thân học hỏi và rút kinh nghiệm được nhiều vấn đề hữu ích. – Học sinh phần lớn chăm ngoan và rất chịu khó, lại tiếp cận khá nhanh với phương pháp mới nên việc thử nghiệm đề tài luôn nhận được sự ủng hộ từ phía các em.

– Năng lực và thói quen nghiên cứu của bản thân còn nhiều hạn chế nên cho dù đã rất cố gắng, kết quả thu được vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu đề ra. – Tài liệu tham khảo thiếu, thời gian và điều kiện nghiên cứu hạn hẹp ảnh hưởng khá nhiều đến việc sử dụng các giải pháp mới. – Một bộ phận học sinh chây lười trong học tập, gia đình lại không quan tâm nên việc tự học của các em cho dù đã được giáo viên hướng dẫn rất kĩ nhưng chưa thể đáp ứng được yêu cầu đề ra. – Đối tượng học sinh trong mỗi lớp không đồng đều, nhiều em quá yếu. Việc chú ý đối tượng đã ảnh hưởng nhiều đến quá trình nghiên cứu. – Phương tiện dạy học vẫn chưa thể đáp ứng tốt nhất yêu cầu của thực tiễn dạy học hiện đại.

c.Số liệu thống kê

Kết quả khảo sát chất lượng môn Toán lớp 4A2 đầu năm học 2012 – 2013 như sau:

Từ kết quả khảo sát cho thấy , việc nắm bắt kiến thức môn toán của các em còn chậm. vì vậy, tôi nghiên cứu ” Một số biện pháp giúp học sinh học tốt môn toán lớp 4″.

4.3 Các biện pháp giúp học sinh học tốt môn toán lớp 4

* Phát huy tính tích cực hóa của học sinh trong PPDH vấn đáp kết hợp với một số PPDH khác trong hình thành tri thức mới. Học sinh muốn tiếp thu tri thức mới cần có sự hướng dẫn của giáo viên bắng một hệ thống câu hỏi phù hợp. Giáo viên tổ chức các hoạt động dạy học nhằm chuyển giao ý đồ sư phạm của thầy thành nhiệm vụ học tập của trò. Ví dụ trong bài: ” Phép nhân phân số“. Hình thành phép tính nhân của 2 phân số và. Hình thành phép tính nhân của 2 phân số và cho học sinh là một vấn đề mới. nếu giáo viên chỉ giới thiệu quy tắc tính sau đó áp dụng vào luyên tập thì không phát huy được tính tích cực, tư duy, sáng tạo của học sinh. Do đó, giáo viên cần suy nghĩ, chuẩn bị hệ thống câu hỏi phù hợp để hướng dẫn học sinh tiếp thu tri thức mới một cách tích cực, sáng tạo. Với bài học này, giáo viên có thể tổ chức hoạt động dạy học bằng hệ thống câu hỏi sau: Dựa vào cách tính diện tích hình chữ nhật bằng đồ dùng trực quan hãy cho biết x = ? (HS nêu: x = ) – Quan sát hình và cho biết 8 là gì của hình chữ nhật mà ta phải tính diện tích? (8 là tổng số ô của hình chữ nhật.) * HS giải thích: Chiều dài HCN bằng 4 ô và được xếp thành 2 hàng nên tính được tổng số ô bằng cách lấy 4 x 2 = 8. – 4 và 2 là gì của các phân số trong phép nhân x ? ( 4 và 2 là tử số của các phân số trong phép nhân x ). – Để tính số ô vuông có trong hình vuông diện tích 1 m 2 ta làm thế nào? ( lấy 5 x 3 = 15 (ô)). – Vậy 5 và 3 là gì của các phân số trong phép nhân x ? ( 5 và 3 là mẫu số của các phân số trong phép nhân x ). – Như vậy, khi muốn nhân hai phân số với nhau ta làm thế nào? ( … ta lấy tử số nhân tử số, mẫu số nhân mẫu số). – Giáo viên nêu công thức tổng quát: = và yêu cầu học sinh nêu quy tắc nhân hai phân số, sau đó tổ chức: luyện tập, củng cố.

*.Phát huy tính tích cực hóa của học sinh trong phương pháp phát hiện và giải quyết vấn đề, kết hợp với PPDH khác để tổ chức hoạt động dạy học.

Ví dụ trong bài: ” Phép cộng phân số ” ( tiếp theo ). * : Có một băng giấp màu, bạn Hà lấy băng giấy, Bạn An lấy băng giấy. Hỏi cả 2 bạn lấy bao nhiêu phấn băng giấy màu? ( Toán 4 trang 127 ). Sau khi học xong học sinh biết cách cộng hai phân số khác mẫu số và rèn luyện kỹ năng tính toán cho học sinh Hướng dẫn giải như sau: Muốn tìm số phần băng giấy của 2 bạn Hà và An đã lấy, cần thực hiện phép tính gì? ( phép cộng: + ). Như vậy, việc yêu cầu học sinh tính tổng hai phân số khác mẫu số là một tình huống gợi vấn đề, là một yêu cầu nhận thức mà học sinh chưa thể giải quyết được bằng vốn kiến thức và kinh nghiệm sẵn có của mình (học sinh chỉ mới biết tính tổng hai phân số có cùng mẫu số). Tuy nhiên nếu học sinh chịu khó suy nghĩ hoặc được giáo viên hướng dẫn tìm cách biến đổi để đưa hai phân số đã cho thành hai phân số có cùng mẫu số (Quy đồng mẫu số) thì học sinh có thể giải quyết vấn đề kết hợp với PPDH vấn đáp để tổ chức hoạt động dạy học hình thành phép cộng 2 phân số khác mẫu số.

*. Phát huy tính tích cực hóa của học sinh trong PPDH hợp tác theo nhóm nhỏ và kết hợp với PPDH khác để tổ chức hoạt động dạy học nhằm phát huy tính chủ động sáng tạo, hợp tác của học sinh.

Mục tiêu, nội dung bài học yêu cầu hình thành tri thức mới cho học sinh. Tri thức mới đó cần có sự kiểm nghiệm kết quả qua nhiều học sinh khác nhau, cần có sự phát hiện, đóng góp trí tuệ. Tập thể học sinh cần phải đo đạc, thu thập các số liệu điều tra thống kê. Ví dụ bài: Diện tích hình thoi. – Yêu cầu tính diện tích hình thoi ABCD, khi biết 2 đường chéo AC = m, BD = n (hình a) – Để tìm công thức tính diện tích hình thoi theo độ dài 2 đường chéo, học sinh có thể thực hiện theo nhiều cách khác nhau: * Cách 1: Cắt hình tam giác AOD và hình tam giác COD rồi ghép với hình tam giác ABC để được hình chữ nhật AMNC (hình b). Ta có: Diện tích( hình thoi ABCD) = diện tích ( hình chữ nhật AMNC ) = m * Cách 2: Cắt hình tam giác COB và hình tam giác COD rồi ghép với hình tam giác ABC để được hình chữ nhật MNBD (hình c). Ta có: Diện tích ( hình thoi ABCD ) = diện tích (hình chữ nhật MNBD) ( Hình a ) ( Hình b ) ( Hình c ) Do đó để kiểm nghiệm kết quả, phát huy tính chủ động sáng tạo và tinh thần hợp tác của học sinh. Giáo viên yêu cầu học sinh hợp tác theo nhóm nhỏ để tổ chức hoạt động dạy học.

*. Phát huy tính tích cực hóa của học sinh trong việc giải các bài toán là cơ sở giải loại toán sắp học.

Giải các bài toán có tính chất chuẩn bị này, học sinh có thể tính ra được kết quả dễ dàng nhằm tạo điều kiện cho các em tập trung suy nghĩ vào các mối quan hệ toán học và các từ mới chứa trong đầu bài toán: Ví dụ 1: Để chuẩn bị cho việc học loại toán: “Tìm 2 số biết tổng và tỉ số của 2 số đó”. Có thể cho học sinh giải bài toán sau: ” Cô có 30 bút chì, chia thành 3 phần bắng nhau. Bạn nam được 1 phần, bạn nữ được 2 phần. Hỏi bạn nam được mấy bút chì?”. Ví dụ 2: Để chuẩn bị cho việc học loại toán: “Tìm 2 số biết tổng và hiệu của 2 số đó”. Có thể cho học sinh giải bài toán sau: “Hai bạn Nam và Hùng có tất cà 15.000 đồng, Nam có nhiều hơn Hùng 5.000 đồng. Hỏi mỗi bạn có bao nhiêu tiền?”. – Tổ chức cho học sinh làm việc trên đồ dùng học tập: +Mỗi học sinh lấy 15 que tính (tượng trưng cho 15.000 đồng ). Chia bảng con làm 2 phần, phần lớn là số tiền của Nam, phần nhỏ là số tiền của Hùng. +Nam nhiều hơn Hùng 5.000 đồng. Vậy ta lấy 5 que tính cho Nam trước rồi chia đôi phần còn lại:! Học sinh lấy 5.000đồng cho nam trước (đặt 5 que tính vào phần lớn). – Còn mấy nghìn đồng ? (15.000 – 5.000 = 10.000 đồng ). – Vậy chia đều cho 2 bạn, mỗi bạn được mấy nghìn ? ( 10.000 : 2 = 5.000 đồng ). – Bỏ vào hai phần mỗi phần 5.000 đồng ( 5 que tính ) – Vậy Hùng được mấy nghìn ? ( 5.000 đồng ). – Còn Nam được mấy nghìn ? ( 5.000 +5.000 = 10.000 đồng ). – Tương tự hướng dẫn bài toán trên sơ đồ và giải.

*.Phát huy tính tích cực hóa của học sinh trong việc giải các bài toán phát huy tính trực quan cụ thể trong tư duy của học sinh.

Để giải được các bài toán này giáo viên cần triển khai các hoạt động mang tính chất thực tiễn, học sinh phải được thao tác trên đồ dùng trực quan. Từ đó các em sẽ tự phát hiện và tự giải quyết nhiệm vụ bài học. Ví dụ: Trong bài “Phép cộng phân số”. Để hình thành phép cộng hai phân số có mẫu số bằng nhau, giáo viên và học sinh cùng thực hành trên băng giấy – Chia băng giấy thành 8 phần bằng nhau, bằng cách gấp đôi ba lần theo chiều ngang: + Tô màu vào băng giấy + Tô màu vào băng giấy Nhìn vào băng giấy HS dễ nêu được hai lần đã tô màu được băng giấy. Học sinh nêu: + = . Kết luận: Nêu được cách cộng hai phân số bằng cách lấy tử số cộng với nhau và giữ nguyên mẫu số.

*. Khi dạy thực hành luyện tập GV cần lưu ý giúp mọi học sinh đều tham gia vào hoạt động thực hành, luyện tập theo khả năng của mình, bằng cách:

– Cho các em làm các bài theo thứ tự trong sách giáo khoa, không bỏ bài nào, kể cả bài dễ, bài khó. – Không bắt học sinh chờ đợi nhau trong khi làm bài. Làm xong chuyển sang bài tiếp theo. – Học sinh này có thể làm nhiều bài hơn học sinh khác: – Ví dụ: Khi dạy bài : ” Tính bằng cách thuận tiện nhất “ – + + = + ( + ) = + = Có thể một số em vẫn thực hiện theo thứ tự của các phép tính trong biểu thức, ra kết quả đúng nhưng chưa nhanh và chưa hợp lí. Giáo viên nên hướng dẫn học sinh các tính chất đã học của phép cộng để tìm ra cách giải thuận tiện. Hoặc trong bài luyện tập của phép nhân thì giáo viên phải dẫn dắt học sinh nhớ lại kiến thức đã học đó là: Tính chất giao hoán của phép nhân. Tính chất kết hợp của phép nhân. Tính chất nhân một số với một tổng ( Hoặc một tổng nhân với một số ). Tính chất nhân một hiệu với một số ( Hoặc một số nhân với một hiệu ). Học sinh phải vận dụng nhanh các tính chất này vào giải toán: Khi nào vận dụng tính chất này, khi nào vận dụng tính chất kia: Ví dụ: 2 10 + 10 5 = 10 ( 2 + 5 ) = 10 10 = 20 ( Áp dụng tính chất nhân một số với một tổng ).

Từ việc đổi mới các phương pháp dạy học như trên tôi thấy chất lượng học sinh dần dần được nâng cao. Học sinh đã tự giác, hứng thú, chủ động và tích cực tham gia các hoạt động dạy học, không rụt rè, tự ti như trước nữa. Chất lượng học sinh ngày một tiến bộ do trình độ nhận thức của các em ngày càng được nâng cao, tích cực phát biểu xây dựng bài hứng thú và ham thích học toán, làm bài, học bài đầy đủ . học sinh dần dần chiếm lĩnh kiến thức mới và giải quyết các vấn đề gần gũi với đời sống. Sự tiến bộ của các em biểu hiện cụ thể qua kết quả như sau: Khảo sát chất lượng đầu năm 2012-2013:

Kết quả kiểm tra cuối năm học 2012 – 2013:

Qua bảng thống kê chất lượng trên phần nào cho thấy số lượng học sinh khá giỏi tăng lên giảm được học sinh yếu, số học sinh ham thích học môn toán cũng tăng lên so với đầu năm học. Nếu chúng ta vận dụng linh hoạt việc đổi mới phương pháp dạy học thì chắc chắn chất lượng cuối năm sẽ tăng cao.

6. Đánh giá về phạm vi ảnh hưởng của sáng kiến:

-Trước hết phải nói đội ngũ giáo viên tham gia giảng dạy tích cực và nhiệt tình trong đổi mới PPDH, góp phần chứng minh ưu thế và hiệu quả việc giảng dạy môn toán. – Muốn nâng cao chất lượng dạy học toán ở tiểu học chúng ta cần lưu ý: + Linh hoạt trong đổi mới PPDH. + Tạo cho học sinh hứng thú và ham thích học môn toán. + Nắm được từng đối tượng học sinh, tạo được nhu cầu học tập trong các em. + Tổ chức hướng dẫn các phương pháp học tập chu đáo( học nhóm, học tổ,…) + Công tác chuẩn bị từng bài dạy thật kĩ phù hợp từng nội dung, soạn giảng chu đáo gọn nhẹ. + Dụng cụ, phương tiện dạy- học phải đầy đủ. + Tổ chức nhiều hình thức học tập cho có tính hấp dẫn. + Thường xuyên kiểm tra, củng cố hệ thống kiến thức. + Phát huy tính tích cực, tính tự học, tìm tòi, tự phát hiện cái mới, cái hay,… để tự chiếm lĩnh tri thức.

– Tất cả các giáo viên giảng dạy ở tiểu học phải sử dụng các PPDH linh hoạt, phù hợp với lớp, với từng học sinh. – Nhiệt tình trong giảng dạy, đảm bảo đầy đủ ĐDDH, thiết bị dạy học. – Tổ chuyên môn cần thường xuyên tổ chức hội thảo các chuyên đề về đổi mới phương pháp, đố vui để học, thi học tốt môn toán. – Có kế hoạch bồi dưỡng và phụ đạo học sinh về môn toán.

– Tăng cường tài liệu nghiên cứu, sách tham khảo cho giáo viên. – Bổ sung đồ dùng dạy học đủ cho các lớp sử dụng.

Dạy toán, học toán ở trường Tiểu học là một phạm trù rộng lớn. Nó chứa đựng một chuỗi hệ thống các quan điểm, phương pháp và kĩ thuật dạy học. Vì thế, bản thân luôn xác định đổi mới phương pháp dạy học toán ở bậc tiếu học không hề đơn giản và cũng không thể thực hiện nhanh chóng trong ngày một ngày hai. Vì thế, khi nghiên cứu đề tai này, thực sự chúng tôi không có tham vọng tạo chuyển biến có tính chất đột phá trong việc dạy, việc học môn toán ở trường tiểu học mà chỉ hi vọng góp một phần nhỏ tháo gỡ một vài khía cạnh để góp phần nâng cao chất lượng dạy học toán tại trường tiểu học I Khánh Bình Tây Bắc nói riêng và bậc tiểu học nói chung. Tuy nhiên, do ràng buộc hạn chế về kinh nghiệm, sự thiếu hụt về mặt thời gian và tầm nhìn. Chúng tôi biết chắc đề tài vẫn còn chứa đựng quá nhiều khiếm khuyết. Vì vậy, rất mong được quan tâm tham gia bàn bạc của quý cấp quản lí và các đồng nghiệp.

Trần Kim Cương Giáo viên Trường TH 1 Khánh Bình Tây Bắc, TVT, CM.

Hyip, Make Money Online, Crypto, Bitcoin,: Đề Tài Skkn Môn Toán Lớp 3 In Luôn: Một Số Biện Pháp Giúp Học Sinh Học Tốt Phần Số Học Môn Toán Lớp 3

Đề tài SKKN môn toán lớp 3 in luôn: MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÚP HỌC SINH HỌC TỐT PHẦN SỐ HỌC MÔN TOÁN LỚP 3

Môn toán bao gồm những kiến thức về số học, đo lường, hình học và đại số. Đây là những kiến thức cơ bản mà học sinh cần nắm vững để tạo tiền đề cho các em học tốt hơn môn toán ở những lớp trên, học tốt môn toán còn làm cơ sở cho việc tính toán đúng, chính xác trong cuộc sống của các em sau này.

Việc học về cấu tạo số, ôn tập phép cộng, phép trừ trong phạm vi 1000, phép nhân, phép chia, cách tìm x, tìm y ;… sẽ tạo cho các em biết so sánh, tổng hợp, biết những thao tác tư duy cơ bản để hình thành trí tuệ và năng lực sáng tạo cho học sinh.

Trong môn toán nắm vững những kiến thức các em nắm chưa vững sẽ dẫn đến các em không học tốt được môn toán.

Quanhiều năm dạy lớp 3, tôi nhận thấy một số học sinh còn nhiều hạn chế về việc học phần số học và đại số trong môn toán từ đó dẫn đến các em học chưa tốt môn Toán.

Làm thế nào để giúp học sinh học tốt phần số học và đại số ở môn toán đối với tôi là rất cần thiết, rất được quan tâm. Tôi đã cố gắng suy nghĩ tìm cách giải quyết vấn đề trên. Nếu giải quyết được vấn đề trên sẽ giúp các em học tốt hơn môn toán ở những lớp trên nhất là cho các em vận dụng thực tế vào cuộc sống.

Đề tài tôi viết đã được nói nhiều trong sách giáo khoa chỉnh lí môn toán ở trường tiểu học và sách một số vấn đề về môn toán ở bậc Tiểu học đồng thời cũng được nhiều giáo viên nghiên cứu viết. Tuy nhiên với thời gian dạy lớp 3, tôi đã tùy theo đặc điểm tình hình cụ thể của lớp, của từng năm học mà có những giải pháp chung nhằm giúp cho các em học tốt hơn môn Toán lớp 3. Đó cũng chính là vấn đề tôi chọn đề tài “MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÚP HỌC SINH HỌC TỐT PHẦN SỐ HỌC MÔN TOÁN LỚP 3” Đề tài có thể áp dụng cho học sinh khối lớp 3 trong việc dạy và học toán ở trường Tiểu học THTH.

Đề tài SKKN môn toán lớp 3 in luôn: MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÚP HỌC SINH HỌC TỐT PHẦN SỐ HỌC MÔN TOÁN LỚP 3

Áp dụng: Viết sáng kiến kinh nghiệm Toán lớp 3, viết đề tài NCKHSPUD Toán lớp 3, Viết tiểu luận PPGD Toán lớp 3

SKKN, SKKN Toán 3, NCKHSPUD, NCKHSPUD Toán 3, SKKN Tiểu học, NCKHSPUD Tiểu học, SKKN Toán 3

Bạn đang đọc nội dung bài viết Đề Tài Mội Số Giải Pháp Giúp Học Sinh Yếu Học Tốt Môn Văn trên website Photomarathonasia.com. Hy vọng một phần nào đó những thông tin mà chúng tôi đã cung cấp là rất hữu ích với bạn. Nếu nội dung bài viết hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!