Cập nhật nội dung chi tiết về Đẩy Mạnh Và Phát Triển Doanh Nghiệp Logistics Ở Việt Nam mới nhất trên website Photomarathonasia.com. Hy vọng thông tin trong bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu ngoài mong đợi của bạn, chúng tôi sẽ làm việc thường xuyên để cập nhật nội dung mới nhằm giúp bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.
Thực trạng thị trường logistics Việt NamThống kê mới đây của Hiệp hội doanh nghiệp (DN) logistics Việt Nam cho thấy, cả nước hiện có khoảng trên 1.300 DN logistics đang hoạt động, bao gồm cả DN có vốn nước ngoài. Các DN cung cấp dịch vụ logistics ở Việt Nam hầu hết là những DN nhỏ và vừa (DNNVV).
Một số DN lớn như: Công ty Transimex Saigon, Tổng công ty Tân Cảng Sài Gòn, Gemadept, Vietrans, Vietfracht… Dịch vụ logistics ở Việt Nam hiện có quy mô khoảng 20-22 tỷ USD/năm, chiếm 20,9% GDP của cả nước. Tốc độ tăng trưởng bình quân của ngành dịch vụ logistics trong những năm qua là từ 16 – 20%/năm.
Theo xếp hạng của Ngân hàng Thế giới, Việt Nam hiện đứng thứ 64/160 nước về mức độ phát triển logistics và đứng thứ 4 trong ASEAN sau Singapore, Malaysia và Thái Lan. Với tốc độ phát triển hàng năm đạt từ 16 – 20%, đây là một trong những ngành dịch vụ tăng trưởng nhanh và ổn định nhất của Việt Nam trong thời gian qua.
Tuy nhiên, ở Việt Nam, các DN logistics mới chỉ cung cấp một số dịch vụ trong chuỗi logistics. Các dịch vụ logistics chủ yếu mà các DN kinh doanh logistics Việt Nam cung ứng cho khách hàng là dịch vụ kho bãi, vận tải hàng hóa, giao nhận hàng hóa, bốc xếp, dịch vụ phân loại, đóng gói bao bì, lưu kho… còn các dịch vụ khác trong chuỗi dịch vụ logistisc mặc dù cũng có một số DN cung ứng nhưng số lượng không nhiều và chưa thực sự được quan tâm phát triển.
Trong 30 tập đoàn giao nhận hàng đầu thế giới, hiện đã có tới 25 tập đoàn thâm nhập thị trường Việt Nam, chiếm lĩnh 75% thị phần, chủ yếu là các lĩnh vực mang lại giá trị gia tăng cao. Ngược lại, với khoảng 1/4 nhỏ hẹp và khó khăn còn lại, các DN nội tự “trồi sụt”, “giành giật” từng cơ hội.
Thị phần nhỏ hẹp, giá trị gia tăng thấp, khiến chi phí cho dịch vụ logistics ở Việt Nam được đánh giá đang ở mức độ quá cao. Không chỉ vậy, năng lực của các DN Logistics Việt Nam còn hạn chế bởi chất lượng cán bộ không đáp ứng được nhu cầu. Trong số các DN nội địa, có tới 93 – 95% người lao động không được đào tạo bài bản, chủ yếu làm dịch vụ ở các chuỗi cung ứng nhỏ như giao nhận, kho bãi, xử lý vận đơn…
Đánh giá logistics Việt Nam qua mô hình SWOT
Những điểm mạnh của logistic Việt Nam có thể kể đến gồm:
– Việt Nam có chỉ số LPI (Logistics performance index) theo báo cáo Ngân hàng Thế giới năm 2014 xếp hạng 48/155 nền kinh tế, tăng 5 bậc so với xếp hạng tại 3 báo cáo trước đây (vào các năm 2007, 2010, 2012) và dẫn đầu về hoạt động logistics trong nhóm các nước có thu nhập trung bình thấp. Việt Nam được đánh giá là nước có tiềm năng phát triển mạnh mẽ về hoạt động kinh doanh dịch vụ logistics trong thời gian sắp tới.
– Số DN thành lập và hoạt động trong ngành khá lớn gồm nhiều thành phần, cả nước có khoảng 1.300 DN cung ứng dịch vụ logistics (vượt qua Thái lan, Singapore) tập trung chủ yếu ở TP. Hồ Chí Minh – nơi thu hút trên 70% hàng hóa xuất nhập khẩu của Việt Nam. Các công ty logistics đa quốc gia hàng đầu trên thế giới cũng đã có mặt tại Việt Nam như Fedex, Maersk, DB Schenker, APL, DHL, NYK Logistics… và hoạt động dưới nhiều hình thức, đặc biệt trong việc cung ứng dịch vụ 3PL với trình độ công nghệ hiện đại, chuyên nghiệp như tại các nước phát triển.
Các DN Việt Nam sở hữu phần lớn kho bãi, khiến DN nước ngoài phải thuê lại hoặc liên kết, liên doanh để phục vụ dịch vụ logistics.
Tốc độ tăng trưởng doanh thu thị trường logistics ở mức cao, khoảng 25%/năm. Quy mô thị trường đạt hơn 20 tỷ USD và vẫn chưa được khai thác hết.
Tuy số lượng đông nhưng hầu như các DN logistisc Việt Nam là các DN nhỏ và vừa, hoạt động kinh doanh dịch vụ logistics còn manh mún, thiếu kinh nghiệm và chuyên nghiệp, cung cấp các dịch vụ cơ bản, hoặc cung cấp từng dịch vụ đơn lẻ, cạnh tranh về giá là chủ yếu, ít giá trị gia tăng, thường chỉ đóng vai trò là nhà thầu phụ hay đại lý cho các công ty nước ngoài.
Cơ sở hạ tầng giao thông vận tải còn yếu kém, ứng dụng công nghệ thông tin chưa hiệu quả nên chi phí logictics tại Việt Nam khá cao, chiếm 25% GDP (so với các nước phát triển chỉ từ 9 đến 15%) trong đó, chi phí vận tải chiếm 30 đến 40% giá thành sản phẩm (tỷ lệ này là 15% ở các quốc gia khác). Điều này làm giảm khả năng cạnh tranh của dịch vụ, hàng hóa của các DN Việt Nam.
Tiềm lực tài chính của các DN logistics Việt Nam yếu (80% DN thành lập có vốn pháp định từ 1,5 – 2 tỷ đồng), chất lượng nguồn nhân lực còn nhiều hạn chế, khả năng kết nối tổ chức mạng lưới toàn cầu, hệ thống thông tin chưa rõ ràng, quy mô hoạt động chưa vượt ra khỏi quy mô trong nước và khu vực.
Việt Nam còn thiếu các khu kho vận tập trung có vị trí chiến lược, đồng bộ với hệ thống cảng, sân bay, đường quốc lộ, cơ sở sản xuất; Mất cân đối cung cầu tại các cảng biển miền Nam. Khả năng cạnh tranh của các DN nội địa cũng còn thấp so với DN FDI.
Cùng với quá trình phát triển, ngành logistic Việt Nam đứng trước những cơ hội lớn như sau:
Quy mô thị trường dịch vụ logistics Việt Nam nhỏ (khoảng 2-4% GDP) nhưng tốc độ tăng trưởng cao (20-25% năm). Kim ngạch xuất nhập khẩu và ngành bán lẻ có mức tăng trưởng khá cao. Khối lượng hàng hóa qua cảng biển dự kiến tăng lên đến 900 – 1.000 triệu tấn vào năm 2030 dự kiến 1.600 – 2.100 triệu tấn (năm 2015 đạt khoảng 600 triệu tấn)
– Giá nhiên liệu đang ở mức thấp, giúp giảm chi phí đầu vào của lĩnh vực vận tải.
– 2/3 số lượng hàng hóa xuất nhập khẩu (XNK) của thế giới dự báo sẽ phải đi qua vùng biển Đông trong 5-10 năm tới, giúp cải thiện nhu cầu vận tải.
– Chu kỳ suy thoái của vận tải biển bắt đầu từ năm 2008, tính đến hết năm 2015 là khoảng 7 năm. Vì vậy, một chu kỳ tăng trưởng mới của ngành vận tải biển đã bắt đầu trong những năm sắp tới.
– Sự quan tâm từ phía Chính phủ thông qua các quy hoạch chiến lược như Quy hoạch phát triển vận tải biển Việt Nam đến năm 2020, định hướng đến năm 2030.
– Nhà nước đã có quy hoạch và trên thực tế bằng nhiều nguồn vốn đang và sẽ đầu tư phát triển khu cảng nước sâu Cái Mép, cảng trung chuyển quốc tế Vân Phong, Sân bay quốc tế Long Thành, hành lang đường bộ Đông Tây (EWEC), hành lang Hà Nội – Hải Phòng – Hà Khẩu – Côn Minh, hệ thống đường bộ cao tốc, đường sắt xuyên Á… Các thể chế tiếp tục củng cố, tạo thuận lợi như thủ tục hải quan, cải cách hành chính, đẩy nhanh tiến trình hội nhập sâu khu vực và thế giới.
Ngành logistic nói chung, các DN logistic nói riêng của Việt Nam phải đối diện với nhiều thách thức. Trước mắt, cơ sở hạ tầng giao thông vận tải yếu kém, không đồng bộ, chưa tạo ra hành lang vận tải đa phương thức trong khi nhu cầu trung chuyển chất lượng cao cho hàng hóa giữa các phương thức đang ngày càng lớn. Hệ thống thông tin lại thiếu và chưa hiệu quả. Nguồn nhân lực làm dịch vụ logistics chưa qua đào tạo bài bản và còn thiếu, yếu, chưa đáp ứng, đặc biệt thiếu các chuyên viên logistics giỏi có năng lực ứng dụng và triển khai tại các DN nghiệp.
Hoạt động của chính các DN logistics còn nhiều hạn chế cả về quy mô hoạt động, vốn, nguồn nhân lực… Bên cạnh đó, còn thiếu sự kết nối giữa DN xuất khẩu và DN Logistics do thói quen nhập khẩu CIF và xuất khẩu theo FOB. Mặt khác, thể chế, chính sách nhà nước với ngành logistics chưa rõ ràng, không đồng bộ, bất cập, chưa tạo điều kiện hỗ trợ logistics non trẻ phát triển; Chi phí kinh doanh không chính thức cao…
Giải pháp phát triển doanh nghiệp logistic Việt Nam
Với những thách thức trên, các DN logistic cần có giải pháp nhằm đẩy mạnh và phát triển hơn ngành dịch vụ tiềm năng này.
Thứ nhất, nâng cao năng lực và khả năng cạnh tranh của các DN cung cấp dịch vụ logistics.
Chất lượng và giá dịch vụ quyết định khả năng cạnh tranh của DN cung cấp dịch vụ logistics. Nếu chất lượng dịch vụ tốt, giá cả hợp lý, chắc chắn DN nội địa sẽ có nhiều lợi thế hơn so với các DN nước ngoài. Hai tiêu chí này là tiêu chí hàng đầu để khách hàng lựa chọn nhà cung ứng logistics cho mình. DN phải nâng cao khả năng của mình trong việc đáp ứng yêu cầu của các chủ hàng về thời gian, chất lượng và giá dịch vụ.
Nhằm hướng tới mục tiêu tham gia vào hệ thống logistics toàn cầu, đối với các DN cung cấp logistics nói chung và đặc biệt trong lĩnh vực hàng hải nói riêng, để có thể cung cấp logistics theo đúng nghĩa, các DN Việt Nam cần phải: Hiểu rõ và nhận thức đúng về quy trình cung cấp các dịch vụ logistics, đặc biệt là trong quá trình vận tải; Đào tạo có hệ thống nguồn nhân lực có kinh nghiệm và được trang bị đầy đủ những kiến thức chuyên môn, am hiểu luật pháp trong nước và quốc tế.
Ngoài ra, nguồn nhân lực cần được nâng cao trình độ ngoại ngữ để đáp ứng với việc hội nhập các DN cần đầu tư cơ sở vật chất, nâng cấp và mở rộng hệ thống kho bãi, các trang thiết bị bốc xếp, vận chuyển chuyên dùng và các dịch vụ hỗ trợ khác; Liên doanh, liên kết với các DN trong và ngoài nước để kết nối, mở rộng mạng lưới dịch vụ trong cả nước và trên thế giới để tạo đầu ra thị trường ngoài nước và nâng cao khả năng chuyên môn của cán bộ để từ đó nâng cao tính cạnh tranh trong hoạt động kinh doanh.
Đến hết năm 2020, kim ngạch XNK của Việt Nam được dự báo sẽ đạt mức khoảng 300 tỷ USD, hàng container qua hệ thống cảng biển Việt Nam đạt 67,7 triệu TEU, do vậy tiềm năng phát triển dịch vụ logistics Việt Nam là rất lớn. Dự đoán, trong tương lai không xa, dịch vụ cung cấp logistics sẽ trở thành ngành kinh tế quan trọng, có thể đóng góp tới 15% GDP của cả nước.
Thứ hai, ứng dụng công nghệ thông tin, đặc biệt là thương mại điện tử vào quá trình hoạt động kinh doanh của DN.
DN cung ứng logistics cần nhanh chóng thúc đẩy và áp dụng công nghệ thông tin vào quá trình hoạt động kinh doanh của mình, trao đổi thông tin và các dữ liệu điện tử trong thương mại, khai hải quan điện tử để tận dụng ưu thế của công nghệ thông tin nhằm mang lại năng suất lao động cao, tiết kiệm chi phí, giảm thiểu tình trạng tiêu cực, gian lận trong thương mại, XNK và hải quan; Áp dụng thành tựu của công nghệ thông tin, trao đổi dữ liệu bằng hệ thống máy tính với sự hỗ trợ của mạng lưới thông tin liên lạc và công nghệ xử lý thông tin đóng vai trò quan trọng sống còn đối với việc quản lý cả quá trình hoạt động logistics, đặc biệt là quản lý sự di chuyển của hàng hóa và các chứng từ.
Cơ quan quản lý cần khuyến khích các DN áp dụng và phát triển các hệ thống quản lý dây chuyền cung ứng liên kết trong ASEAN nhằm tạo nên sự gắn kết các giải pháp đặt kế hoạch, hệ thống lưu giữ, lấy hàng hóa bằng phương tiện không dây. Ứng dụng công nghệ thông tin, đặc biệt là thương mại điện tử vào quá trình hoạt động logistics sẽ tiết kiệm được các chi phí, thông tin thông suốt đảm bảo cho quá trình hoạt động thuận lợi, nhanh chóng, đạt hiệu quả cao.
Thứ ba, đẩy mạnh liên kết và cổ phần hóa.
Để đảm bảo cung ứng một chuỗi logistics trọn vẹn như các DN nước ngoài, đã đến lúc các DN cung cấp dịch vụ logisitcs cần hợp tác và chia sẻ nguồn lực xây dựng chuỗi dịch vụ trọn gói. Điều này giúp họ có khả năng cạnh tranh tốt hơn và đặc biệt là có thể đầu tư chiều sâu vào logistics cả về con người và hệ thống thông tin – hai thế mạnh nổi bật của các nhà cung cấp dịch vụ logistics nước ngoài.
Xu hướng cổ phần hóa mạnh mẽ các DN nhà nước đã tạo đà cho khả năng hợp tác liên kết chiến lược trở nên rất khả thi. Hoạt động liên kết hợp tác là một quá trình tích hợp điểm mạnh và loại bỏ điểm yếu. Quá trình ấy đòi hỏi DN thực hiện việc tái lập đến tận gốc rễ quy trình kinh doanh cố hữu của mình và hơn hết, họ cần một đội ngũ tư vấn chuyên nghiệp đảm bảo việc tích hợp thành công.
Thứ tư, xây dựng thương hiệu và chiến lược marketing.
Mỗi DN cũng cần khẳng định vị trí của mình một cách rõ ràng trong tâm tưởng người mua, người sử dụng để nhằm thu hút khách hàng trong thời buổi cạnh tranh. Một thương hiệu tốt, marketing tốt sẽ tạo thuận lợi cho việc mở rộng hoạt động cho DN không chỉ trong nước mà còn với thị trường nước ngoài. Để xây dựng thương hiệu và chiến lược marketing, các DN logistics cần tập trung chú trọng một số vấn đề sau:
– Xác định phân khúc thị trường: Mỗi chủng loại mặt hàng khác nhau thì lại cần phải thiết kế một chuỗi cung ứng dịch vụ logistics khác nhau, có như vậy mới tối ưu hóa được quy trình, tiết kiệm chi phí và thời gian;
– Đa dạng hóa dịch vụ cung cấp;
– Mở rộng mối quan hệ với các văn phòng đại diện và tổ chức kinh tế nước ngoài tại Việt Nam để dễ dàng hơn trong việc quảng bá hình ảnh với các đối tác nước ngoài;
– Mở rộng địa bàn hoạt động từng bước một từ quốc gia cho đến quốc tế bằng việc nghiên cứu thị trường, khảo sát tìm tòi và học hỏi kinh nghiệm nhằm xây dựng mạng lưới đại lý của DN;
– Bất cứ chính sách marketing nào của DN cũng phải được để củng cố và xây dựng thương hiệu của DN lớn mạnh hơn. Để gắn bó được với khách hàng, sản phẩm của DN phải thỏa mãn hoặc vượt hơn sự mong đợi (chứ không chỉ là nhu cầu) của khách hàng trong lĩnh vực logistics.
Đồng thời, cần tăng cường hợp tác trong việc bảo đảm an ninh hàng hóa và cảng biển; Hợp tác trong vấn đề đào tạo về dịch vụ logistics. Sự hợp tác có hiệu quả giữa hai Hiệp hội và đặc biệt là từng hội viên đóng một vai trò quan trọng trong việc phát triển logistics trong thời gian tới, góp phần vào việc giúp các DN Việt Nam tham gia vào hệ thống logistics toàn cầu.
1. GS., TS. Đặng Đình Đào, Dịch vụ logistics Việt Nam trong tiến trình hội nhập quốc tế (2011); Logistics những vấn đề lý luận và thực tiễn ở Việt Nam (2011), NXB Đại học Kinh tế Quốc dân; 2. GS., TS. Đoàn Thị Hồng Vân, Quản trị logistics (2006), NXB Thống kê; Logistics – Những vấn đề cơ bản (2010), NXB Lao Động Xã Hội, Đại học Kinh tế TP. Hồ Chí Minh; 3. “Báo cáo Logistics”, FPT, 07/2015 của 2 tác giả Lâm Trần Tấn Sĩ và Phan Nguyễn Trung Hưng; 4. PGS., TS. Nguyễn Như Tiến, 2006, Logistics khả năng ứng dụng và phát triển trong kinh doanh dịch vụ vận tải và giao nhận Việt Nam, NXB Giao thông vận tải, Hà Nội; 5. Các trang điện tử: chúng tôi thongkeitnternet.vn; chúng tôi caphesach.wordpress.com.
Phát Triển Doanh Nghiệp Nhỏ Và Vừa Ở Việt Nam Hiện Nay
Tóm tắt: Trong những năm gần đây, môi trường kinh doanh của Việt Nam đã có những thay đổi hết sức căn bản tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) phát triển. Đến nay, DNNVV chiếm 96,7% tổng số doanh nghiệp cả nước. Sự lớn mạnh cả về số lượng, quy mô hoạt động và cả về nội lực của khu vực DNNVV có tác động to lớn, góp phần quan trọng vào sự phát triển kinh tế – xã hội và quá trình hội nhập quốc tế của Việt Nam.
1. Mở đầu
Trong hơn 30 năm đổi mới, Đảng và Nhà nước ta luôn kiên định và nhất quán đường lối phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, hình thức tổ chức kinh doanh và hình thức phân phối. Thực hiện quan điểm, chủ trương của Đảng, Chính phủ đã có nhiều chính sách phát triển đồng bộ các thành phần kinh tế, tạo điều kiện thuận lợi cho các thành phần kinh tế hoạt động bình đẳng trước pháp luật, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh. Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Kinh tế tập thể không ngừng được củng cố và phát triển. Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài được khuyến khích phát triển. Kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng của nền kinh tế.
Để phát triển kinh tế tư nhân trong tình hình mới, Hội nghị lần thứ năm, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII đã ban hành Nghị quyết số 10-NQ/TW ngày 03 tháng 6 năm 2017 về phát triển kinh tế tư nhân trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Qua gần 2 năm thực hiện Nghị quyết, kinh tế tư nhân đã có sự phát triển nhanh chóng và đóng vai trò ngày càng quan trọng trong nền kinh tế, nhất là góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, thương mại đầu tư, tăng thu ngân sách nhà nước, tạo việc làm, cải thiện an sinh xã hội.
DNNVV là bộ phận quan trọng trong thành phần kinh tế tư nhân và chiếm tỷ lệ lớn trong cộng đồng doanh nghiệp (DN) Việt Nam. Hiện nay, cả nước có khoảng 541.753 DNNVV đang hoạt động trong nền kinh tế, với tổng số vốn đăng ký khoảng 130 tỷ USD, chiếm khoảng 1/3 tổng số vốn đăng ký của các DN [3, tr.26]. Hàng năm, các DNNVV đóng góp khoảng 40% GDP, nộp ngân sách nhà nước 30%, đóng góp giá trị sản lượng công nghiệp 33%, giá trị hàng hóa xuất khẩu 30% và thu hút gần 60% lao động… Mặc dù số lượng DNNVV đông đảo, song quy mô DN nhỏ và siêu nhỏ chiếm tỷ lệ rất lớn, số DN quy mô vừa chỉ chiếm 1,6% tổng số DNNVV. Chính bởi quy mô nhỏ, nên hoạt động của khu vực DN này đang gặp khá nhiều khó khăn, như là khả năng tiếp cận các nguồn vốn để đầu tư vào máy móc, công nghệ hiện đại, phục vụ cho sản xuất, kinh doanh; thiếu kinh nghiệm quản trị điều hành DN; khả năng cạnh tranh, chiếm lĩnh thị trường ngay trên thị trường nội địa… Trong thời gian tới, rất cần có những giải pháp hữu hiệu để khu vực DN này, tuy rất năng động, nhưng cũng dễ tổn thương có sự phát triển nhanh và bền vững trong bối cảnh mới. Bài viết phân tích sự đổi mới cơ chế, chính sách của Đảng và Nhà nước Việt Nam nhằm hỗ trợ phát triển DNNVV; đánh giá làm rõ những thành tựu và hạn chế của khu vực DNNVV hiện nay. Trên cơ sở đó, đưa ra những giải pháp cơ bản phát triển DNNVV ở Việt Nam.
2. Đổi mới cơ chế, chính sách hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa
Trong những năm gần đây, Chính phủ đã không ngừng triển khai thực hiện các giải pháp cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh, hoàn thiện khung pháp lý nhằm đổi mới, tạo động lực cho DN phát triển. Trong năm 2014, Chính phủ trình và Quốc hội đã thông qua Luật Đầu tư và Luật DN (sửa đổi); Luật Chuyển giao công nghệ và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Các tổ chức tín dụng (năm 2017); Luật Cạnh tranh (năm 2018)… Việc triển khai một số luật quan trọng này nhằm tạo sự thay đổi tích cực môi trường đầu tư kinh doanh. Cùng với đó, Luật Đất đai, Luật Thương mại, Luật Phá sản, Luật Sở hữu trí tuệ, Luật Thuế thu nhập DN và hàng loạt các văn bản quy phạm pháp luật đã được ban hành, tác động tích cực tới cộng đồng DN.
Bên cạnh đó, Chính phủ đã ban hành và chỉ đạo thực hiện việc đẩy mạnh công tác cải cách hành chính, ban hành Quyết định số 225/QĐ-TTg ngày 4 tháng 2 năm 2016 phê duyệt kế hoạch cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2016-2020. Điều đó đã tạo sự chuyển biến, nâng cao chất lượng phục vụ của Chính phủ, chính quyền các cấp đối với người dân và DN, xóa bỏ mọi rào cản, đảm bảo quyền tự do bình đẳng kinh doanh của cá nhân và DN.
Nhằm tăng cường các chính sách hỗ trợ phát triển DNNVV và phong trào khởi nghiệp, Chính phủ ban hành các Nghị định số 34/NĐ-CP ngày 8 tháng 3 năm 2018 về thành lập, tổ chức và hoạt động của Quỹ Bảo lãnh tín dụng cho DNNVV; Nghị định số 38/2018/NĐ-CP ngày 11 tháng 3 năm 2018 quy định chi tiết về đầu tư cho DNNVV khởi nghiệp sáng tạo. Cùng với đó là cụ thể hóa các quy định, chính sách về hỗ trợ DNNVV, hỗ trợ khởi nghiệp sáng tạo theo quy định tại Luật Hỗ trợ DNNVV [1, tr.8]. Hệ sinh thái khởi nghiệp sáng tạo ngày càng được hoàn thiện. Cụ thể là, Chính phủ đẩy mạnh vận hành, khai thác và phát triển Cổng thông tin khởi nghiệp đổi mới sáng tạo quốc gia; xây dựng cơ sở dữ liệu về hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo, kết nối hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo của Việt Nam với quốc tế. Đồng thời, hỗ trợ DN áp dụng hệ thống tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật, các hệ thống quản lý, công cụ cải tiến năng suất và chất lượng. Khuyến khích hoạt động liên kết ngành, tham gia chuỗi giá trị của các DN trong nước với chính sách thu hút đầu tư nước ngoài.
Chính phủ triển khai việc rà soát và hoàn thiện các quy định pháp luật về hải quan để tạo thuận lợi cho hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu, bao gồm việc sửa đổi các quy định về thủ tục hải quan, kiểm tra, kiểm soát hải quan. Trong năm 2018, đa số bộ, ngành đã xây dựng các nghị định về điều kiện kinh doanh, trong đó một số điều kiện kinh doanh không cần thiết, không hợp lý, thiếu rõ ràng đã được cắt bỏ. Đồng thời, chú trọng tới việc cắt giảm chi phí khởi sự kinh doanh và gia nhập thị trường của DNNVV2. Để hỗ trợ các DNNVV khai thác được các cơ hội trong hội nhập kinh tế quốc tế, nhất là triển khai các hiệp định thương mại tự do (FTA) thế hệ mới, Chính phủ đã thực hiện nhiều giải pháp cụ thể3 góp phần mở rộng thị trường xuất khẩu, tham gia ngày càng sâu vào chuỗi giá trị, mạng lưới sản xuất toàn cầu, nâng cao năng lực cạnh tranh, tiếp cận vốn đầu tư, công nghệ, tri thức, kinh nghiệm quản lý hiện đại.
3. Những thành tựu và hạn chế phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa
3.1. Thành tựu phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa
Trong những năm vừa qua, nhờ có việc ban hành hàng loạt cơ chế, chính sách và triển khai nhiều giải pháp tích cực, môi trường kinh doanh của Việt Nam đã có sự chuyển biến tích cực; khơi dậy tinh thần doanh nhân và sự đăng ký quay trở lại hoạt động mạnh mẽ của các DNNVV. Số lượng DN thành lập mới và số lượng DN tạm ngừng hoạt động quay trở lại hoạt động tăng lên. Từ năm 2016, mỗi năm có thêm hơn 100 nghìn DN thành lập mới. Trong hai năm 2017-2018, cả nước có 258.134 DN đăng ký thành lập mới và 60.458 DN tạm ngừng hoạt động quay trở lại nhờ môi trường kinh doanh được cải thiện và các chính sách của Nhà nước hỗ trợ, phát triển DN [1, tr.22-23]. Sự gia tăng trở lại này trùng với thời điểm Luật DN 2014 và Luật Đầu tư 2014 chính thức có hiệu lực từ tháng 7/2015. Thực tế, các luật này tạo cơ chế thông thoáng, tác động trực tiếp, thuận lợi cho DN trong quá trình kinh doanh, khi DN có quyền tự quyết về số lượng, hình thức, nội dung của con dấu; được tự do kinh doanh trong những ngành nghề mà pháp luật không cấm; đồng thời, thời gian đăng ký thành lập DN đã được rút ngắn còn 03 ngày. Tính chung trong 9 tháng năm 2018, cả nước có 96.611 DN thành lập mới với số vốn đăng ký là 963.411 tỷ đồng, tăng 2,8% về số DN và tăng 6,7% về số vốn đăng ký. Riêng trong quý III/2018, cả nước có 32.080 DN thành lập mới, giảm 15% so với quý II/2018 và giảm 1,9% so với cùng kỳ năm 2017. Tỷ trọng vốn đăng ký bình quân trên một DN đạt 10,0 tỷ đồng, tăng 3,8% so với cùng kỳ năm 2017. Số lao động đăng ký của các DN thành lập mới là 819.742 lao động, giảm 7,5% so với cùng kỳ năm 2017. Số DN quay trở lại hoạt động là 22.897 DN, tăng 8,5% so với cùng kỳ năm 2017. Tổng số vốn đăng ký bổ sung vào nền kinh tế là 2.845.331 tỷ đồng, tăng 32,7% so với cùng kỳ năm 2017, bao gồm: 936.411 tỷ đồng của DN đăng ký thành lập mới (tăng 6,7% so với cùng kỳ năm 2017) và 1.881.920 tỷ đồng (tăng 51,6%) thông qua 32.144 lượt đăng ký tăng vốn của các DN đang hoạt động (tăng 16,6%) [7].
Trong một vài năm gần đây, xu hướng phát triển các mô hình kinh doanh khởi nghiệp sáng tạo (startup) diễn ra sôi động, tập trung vào một số lĩnh vực như: xây dựng, chế biến, chế tạo, công nghiệp ô tô, vận tải hàng không, tài chính, ngân hàng. Hiện nay, có hơn 3.000 công ty khởi nghiệp sáng tạo đang hoạt động, trong đó có nhiều DNNVV thành công [1, tr.23].
Cùng với sự bùng nổ về số lượng, DNNVV đã góp phần quan trọng trong chuyển dịch về cơ cấu ngành nghề thông qua tạo việc làm, thu hút lao động từ lĩnh vực nông nghiệp, tham gia đầu tư vào các thị trường ngách, thúc đẩy phát triển sản xuất kinh doanh. Bình quân mỗi năm (giai đoạn 2016-2017), khối DNNVV thu hút nhiều lao động nhất với 8,69 triệu lao động (chiếm 60,9% tổng lao động toàn bộ khu vực DN trong nền kinh tế) [3, tr.31]. Trong hai năm 2017-2018, số DNNVV thành lập mới cũng đã tạo gần 2,3 triệu việc làm mới.
Khu vực DNNVV đã thể hiện vai trò và những đóng góp quan trọng thúc đẩy sự chuyển mình và cất cánh của nền kinh tế. Trong giai đoạn 2015-2017, khu vực kinh tế tư nhân (trong đó DNNVV là bộ phận quan trọng) đóng góp khoảng 50% GDP, trên 30% thu ngân sách nhà nước, 45% vốn đầu tư thực hiện toàn xã hội. Năm 2018, kinh tế tư nhân đóng góp khoảng 42,1% GDP của nền kinh tế và có dấu hiệu tăng lên [1, tr.24]. Thu ngân sách nhà nước từ các DN tư nhân liên tục tăng lên trên 16%. Thu ngân sách nhà nước từ sản xuất kinh doanh của khu vực kinh tế tư nhân vượt khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) và khu vực DN nhà nước. Những tín hiệu này phản ánh sự lớn mạnh về quy mô, số lượng chủ thể và sự cải thiện về hiệu quả của kinh tế tư nhân [1, tr.24]. Tốc độ tăng năng suất lao động (NSLĐ) của khu vực này tương đối ổn định. Mặc dù những năm gần đây, tốc độ tăng NSLĐ của cả nước liên tục có những biến động thì tốc độ tăng NSLĐ của khu vực kinh tế tư nhân, trong đó chủ yếu là DNNVV vẫn ổn định hơn so với các khu vực kinh tế nhà nước và khu vực FDI, xung quanh mức 4,8%-5,8% [7]. Tính chung trong 2 năm 2016-2017, các DNNVV tạo ra doanh thu chiếm tỷ lệ chi phối trong toàn bộ khu vực DN, bình quân mỗi năm các DNNVV tạo ra 10,8 triệu tỷ đồng, chiếm 56,4% doanh thu toàn bộ khu vực DN, tăng 64,4% so với bình quân giai đoạn 2011-2015 [3, tr.36].
3.2. Những hạn chế, yếu kém của các doanh nghiệp nhỏ và vừa
Mặc dù các năm gần đây, số lượng DNNVV thành lập mới nhiều, nhưng cũng có một bộ phận không nhỏ DN không có khả năng tồn tại, đứng vững trong cạnh tranh hoặc hoạt động kém hiệu quả. Hiện nay, các DNNVV vẫn rất khó tiếp cận các nguồn lực của xã hội để phục vụ cho sản xuất, kinh doanh như: việc tuyển dụng lực lượng lao động có trình độ tay nghề cao, về tiếp cận đất đai, về vốn tín dụng từ các ngân hàng, nguồn vốn từ các quỹ, về ứng dụng khoa học và công nghệ. Theo Báo cáo đánh giá môi trường kinh doanh năm 2018 của Ngân hàng Thế giới, chỉ số tiếp cận tín dụng của Việt Nam năm 2018 được xếp hạng 29/190 nền kinh tế. Trong 6 tháng đầu năm 2018, dư nợ tín dụng đối với DNNVV chiếm khoảng 21% dư nợ toàn nền kinh tế. Đến nay vẫn có khoảng 60% DNNVV chưa tiếp cận được nguồn vốn tín dụng của ngân hàng [7]. Việc tiếp cận đất đai còn nhiều khó khăn chưa đáp ứng được yêu cầu (thủ tục xin cấp đất rất chậm và chi phí quá cao làm mất đi cơ hội kinh doanh của DN). Các DNNVV thiếu thông tin thị trường cũng như cổng đối thoại với các bộ, ngành để tìm kiếm sự hỗ trợ và sự bảo vệ, đặc biệt là các thông tin về giá cả hàng hóa, thủ tục mua bán, xuất nhập khẩu hàng hóa cũng như quy trình sản xuất và chất lượng yêu cầu [1, tr.38].
Điểm nổi bật hiện nay là, sự liên kết của các DNNVV Việt Nam yếu kém, có rất ít mối liên kết giữa các DN nhỏ và DN có quy mô lớn hơn. Theo báo cáo triển vọng phát triển Châu Á của Ngân hàng Phát triển Châu Á, hiện nay mới chỉ có 21% các DNNVV của Việt Nam tham gia vào chuỗi cung ứng toàn cầu so với 30% của Thái Lan và 46% của Malaysia [7].
Sự hình thành và phát triển của các tập đoàn kinh tế tư nhân ở Việt Nam chủ yếu là sau một giai đoạn tích lũy ngắn, dựa vào vốn tự có và ít được Nhà nước hỗ trợ. Quá trình phát triển theo mô hình tập đoàn của nhóm các tập đoàn kinh tế tư nhân hiện gặp phải một số khó khăn về quản trị, mô hình, do phần lớn phát triển từ quy mô DN gia đình. Các liên kết trong mô hình tập đoàn còn khá đơn giản, chưa triển khai được các hình thức liên kết “mềm” khác thông qua thỏa thuận, hợp tác sử dụng thương hiệu, dịch vụ, kết quả nghiên cứu đổi mới, ứng dụng khoa học, công nghệ chung trong tập đoàn theo nguyên tắc thị trường. Lĩnh vực hoạt động của các tập đoàn kinh tế và DN thuộc khu vực tư nhân mới chủ yếu tập trung vào một số lĩnh vực như dịch vụ, bất động sản… Vì vậy, còn thiếu vắng một lực lượng DN “đầu tàu” đủ mạnh để có thể dẫn dắt “đoàn tàu” DN Việt Nam tham gia chuỗi sản xuất, chuỗi giá trị trong nước và quốc tế.
Do phần lớn DN Việt Nam hiện có quy mô nhỏ nên rất khó tăng NSLĐ nhờ chuyên môn hóa hay tận dụng lợi thế quy mô được. Mặt khác, vì quy mô nhỏ nên khả năng tích tụ và tập trung vốn để đầu tư, đổi mới công nghệ, mở rộng quy mô sản xuất hầu như không có. Điều này ảnh hưởng rất lớn đến khả năng cạnh tranh của DNNVV, nhất là trong bối cảnh hội nhập quốc tế sâu rộng hiện nay [7].
4. Giải pháp phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa trong bối cảnh mới
Thứ nhất, hoàn thiện thể chế, chính sách, hệ thống pháp luật về kinh doanh minh bạch, công bằng, lành mạnh nhằm mục đích tiếp tục cải thiện môi trường kinh doanh cho DN, tạo thuận lợi tối đa cho các DN khi tham gia vào thị trường trong nước và ngoài nước. Ban hành hệ thống chính sách đồng bộ, ổn định lâu dài đối với hoạt động của khu vực DNNVV. Phát triển đa dạng các thị trường tài chính và thị trường chứng khoán để hỗ trợ cho DN huy động vốn trên thị trường chứng khoán, vay vốn trên thị trường trái phiếu DN. Đồng thời, hỗ trợ DNNVV bằng cách giải đáp các vấn đề vướng mắc về luật pháp, đăng ký kinh doanh; cũng có thể mở thêm hoạt động tư vấn kinh doanh cho DN hoặc thành lập riêng một cơ quan chuyên trách giúp cho sự phát triển của DNNVV tại Việt Nam.
Thứ hai, tiếp tục thực hiện các cơ chế chính sách của Chính phủ trong việc cải cách các mức thuế quan, cắt giảm các thủ tục đăng ký DN cùng với các “chi phí không chính thức”. Các bộ, ngành cần giảm bớt các cuộc thanh, kiểm tra không cần thiết với DNNVV, nhất là phải quyết liệt trong công tác xóa bỏ tệ nạn tham nhũng, nhũng nhiễu DN. Có cơ chế cắt giảm thuế thu nhập DN để hỗ trợ DNNVV giải quyết bài toán tạo việc làm cho xã hội, với quy định cụ thể về sử dụng phần ưu đãi thuế thu nhập DN đó để tái đầu tư, tạo công ăn việc làm mới. Hỗ trợ và tạo điều kiện thuận lợi cho các DNNVV được tiếp cận các nguồn lực (đất đai, tài chính, lao động, khoa học công nghệ…). Xây dựng và phát triển hạ tầng thông tin dữ liệu về DN hoạt động cùng ngành hàng về thị trường vốn, thị trường lao động, thị trường khoa học công nghệ…
Thứ ba, phát huy vai trò của xã hội, tổ chức chính trị – xã hội, tổ chức xã hội nghề nghiệp thúc đẩy sự phát triển của DNNVV, nâng cao ý thức của cộng đồng xã hội đối với sự phát triển của DNNVV tại Việt Nam. Theo đó, cần nâng cao vai trò, năng lực của các Hiệp hội nhằm hỗ trợ DNNVV và tăng cường chức năng tham vấn và phản biện xã hội. Mặt khác, tăng cường tiếp nhận các phản hồi, ý kiến, nhu cầu từ người tiêu dùng sử dụng sản phẩm của DNNVV để tự hoàn thiện DN trong hoạt động kinh doanh, cung cấp hàng hóa, dịch vụ đến khách hàng bằng các giải pháp như: nâng cao trách nhiệm xã hội, trách nhiệm kinh doanh của DN đối với người tiêu dùng; cân bằng lợi ích của thương nhân và người tiêu dùng.
Thứ tư, bản thân mỗi DNNVV phải nêu cao ý thức vươn lên, phát huy lợi thế, nâng cao sức cạnh tranh của mình. DNNVV Việt Nam có nhiều lợi thế về kinh doanh, phạm vi thị trường, khách hàng để tham gia vào hoạt động thương mại trong nước, khu vực và quốc tế. Đặc biệt, trong bối cảnh Việt Nam là thành viên của Cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC) thì việc tận dụng những lợi thế vốn có của DNNVV sẽ thúc đẩy sự phát triển lớn mạnh về kinh tế đất nước trong khu vực Đông Nam Á.
Việc nắm bắt nhu cầu, tâm lý của khách hàng hoặc nhóm khách hàng phù hợp với loại hình, ngành nghề kinh doanh của mỗi DN cũng là một giải pháp mà các DNNVV có thể thực hiện được và tạo ra những kết quả khả quan. Bên cạnh đó, DN cần có chiến lược phát triển thông qua các kế hoạch, chiến lược, tầm nhìn, sứ mệnh hoạt động cụ thể. Một giải pháp cũng được áp dụng đối với DNNVV, đó là xây dựng tầm nhìn trong sự phát triển của DN mình bằng việc xác định rõ các vấn đề về kinh tế, khách hàng, sự cạnh tranh, định hướng tương lai, triển vọng của DN, tính chuyên môn hóa cao trong tiếp xúc với khách hàng, uy tín, thương hiệu và giá trị cốt lõi mà mỗi DN cung cấp cho thị trường, xã hội…
Để hạn chế tối đa các thất bại như buộc phải giải thể, tự giải thế, tình trạng kinh doanh bị trì trệ, tạm ngưng hoạt động, các DNNVV cần phải xác định được phạm vi và đối tượng mà mình hướng tới. Nói cách khác, trên cơ sở quy mô, tiềm lực, loại hình hoạt động, các DNNVV cần có chiến lược phù hợp trong việc lựa chọn thị trường, phân khúc thị trường để khai thác, kinh doanh. Chọn lựa phân khúc thị trường phù hợp là một giải pháp và đồng thời cũng là sự chuẩn bị kỹ lưỡng, an toàn cho sự phát triển ổn định của mỗi DN. Mặt khác, mỗi DN cần khai thác hiệu quả các nguồn lực hỗ trợ, thúc đẩy cho sự phát triển như: các giải pháp hỗ trợ từ nhà đầu tư trong và ngoài nước; các chính sách, kế hoạch hỗ trợ của Nhà nước về nguồn vốn, tài chính, công nghệ, quản trị, kinh doanh… Đồng thời, sự liên minh, liên kết của nhóm DN kinh doanh, hoạt động cùng ngành nghề dưới các hình thức như hợp tác kinh doanh, liên doanh, liên danh… cũng là một giải pháp phù hợp nhằm phát huy vai trò, thế mạnh của mình.
Thứ năm, trong bối cảnh mở cửa và hội nhập quốc tế sâu rộng, Việt Nam đã ký kết hàng loạt các FTA thế hệ mới, để nâng cao năng lực cạnh tranh, DNNVV cần biết tận dụng tối đa những tiềm lực về vốn, nhân lực, thị trường, văn hóa, kinh nghiệm kinh doanh của các DN… Đây chính là sự tự thân vận động quan trọng của mỗi DNNVV trong kế hoạch thực hiện các chiến lược, mục tiêu kinh doanh của mình cùng với các đối thủ nặng ký trên thị trường. Hiểu về đối thủ và cân bằng hài hòa được các lợi ích với đối thủ trong kinh doanh sẽ tạo những cơ hội phát triển ổn định cho các DNNVV. Điều đó đồng nghĩa rằng, các DNNVV cần biết cách giữ mối quan hệ tốt đẹp với các DN lớn trong bối cảnh thị trường cạnh tranh khốc liệt. Đặc biệt, các DNNVV cần minh bạch hoạt động và báo cáo tài chính, nâng cao chất lượng quản trị DN, quản lý rủi ro.
5. Kết luận
Chú thích
1 Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam.
2 Theo báo cáo của các bộ, ngành, hầu hết cắt giảm điều kiện kinh doanh đạt trên 50%, trong đó đã cắt giảm, đơn giản hóa 61% điều kiện kinh doanh và 60% thủ tục kiểm tra chuyên ngành hàng hóa xuất, nhập khẩu, đạt mục tiêu Nghị quyết số 19/NQ-CP đề ra [3, tr.20]. Từ tháng 1/2018, lệ phí đăng ký DN đã giảm 50% so với quy định trước đây (từ 200.000 đồng còn 100.000 đồng) và miễn 100% nếu DN đăng ký qua mạng điện tử) [7].
3 Cập nhật, hoàn thiện hệ thống cơ sở dữ liệu quốc gia về điều ước quốc tế, thỏa thuận quốc tế để phục vụ các hoạt động đầu tư, kinh doanh của các DN; xây dựng và kết nối hệ thống Cơ chế một cửa quốc gia; tích cực, chủ động đàm phán các hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư song phương với các đối tác nước ngoài; tham gia đàm phán nội dung đầu tư trong các FTA, như: Hiệp định Đối tác kinh tế toàn diện khu vực (RCEP), Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam – Liên minh Châu Âu (EVFTA) đã ký kết, thông qua Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP)… [1, tr.14].
Tài liệu tham khảo
[1] Ban Kinh tế Trung ương (2019), Báo cáo 2 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 khóa XII về phát triển kinh tế tư nhân trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Hà Nội, tháng 4.
[2] Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Cục Phát triển doanh nghiệp (2017), Sách trắng Doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam, Hà Nội.
[3] Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2019), Sách trắng Doanh nghiệp Việt Nam năm 2019, Nxb Thống kê, Hà Nội.
[4] Nguyễn Trường Sơn (2014), Phát triển Doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
[5] Ninh Thị Minh Tâm, Lê Ngự Bình (2017), Hiệu quả kinh doanh của các Doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
[6] Viện Nghiên cứu Quản lý kinh tế Trung ương (2018), Đổi mới phương thức hỗ trợ tín dụng cho Doanh nghiệp nhỏ và vừa: Kinh nghiệm quốc tế và một số kiến nghị cho Việt Nam, Hà Nội.
[7] https://baomoi.com/phat-trien-doanh-nghiep-nho-va-vua-trong-boi-canh- moi/c/29562534.epi
[8] http://tapchitaichinh.vn/tai-chinh-kinh-doanh/tai-chinh-doanh-nghiep/doanh-nghiep-nho-va-vua-chiem-981-144150.html
[9] http://doanhnghiephoinhap.vn/thach-thuc-cua-doanh-nghiep-nho-va-vua-trong-nam-2019.html
Tìm Giải Pháp Đẩy Mạnh Phát Triển Nông Sản Việt Nam
Sáng nay 5/6, tại Hà Nội đã diễn ra Diễn đàn kinh tế Việt Nam lần đầu tiên về chuyên đề nông nghiệp “Giải pháp phát triển thương mại cho nông sản Việt” do Ban Nghiên cứu phát triển kinh tế tư nhân và Báo VnExpress tổ chức, mở màn cho các chuỗi diễn đàn chuyên ngành.
Diễn đàn gồm 2 phiên: Phiên 1 – Mở rộng thị trường cho nông sản Việt Nam do ông Trương Gia Bình điều phối; Phiên 2 – Doanh nghiệp Việt Nam ứng dụng công nghệ cao trong nông nghiệp để chủ động chiếm lĩnh thị trường do ông Srikanth Mangalam (Chuyên gia Tập đoàn Tài chính quốc tế IFC, Worldbank Group) điều phối.
Chia sẻ tại Diễn đàn, Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ Mai Tiến Dũng nhận định, thời gian qua, với sự vào cuộc tích cực của cả hệ thống chính trị, nhất là khối kinh tế tư nhân, Việt Nam có khối lượng doanh nghiệp lớn với 13.700 doanh nghiệp, 33.000 hộ trang trại, chưa kể hàng nghìn hợp tác xã, nông sản xuất khẩu tới 180 quốc gia,vùng lãnh thổ, nhiều thị trường khó tính như Mỹ, Úc.
Trong 4 tháng đầu năm, xuất khẩu nông sản đạt 12,3 tỷ USD. Trong đó, giá trị xuất khẩu nông sản chính đạt 6,5 tỷ USD, tăng 11,9% so với cùng kỳ; thủy sản ước đạt 2,4 tỷ USD, tăng 13%; lâm sản 2,7 tỷ USD, tăng 7,9%…Thay vì năm 2017 đạt 36,7 tỷ USD thì năm nay sẽ vượt con số 40 tỷ USD.
Tuy nhiên theo Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ, bên cạnh kết quả đã đạt được, ngành nông nghiệp có thể nói còn những hạn chế, tồn tại, lớn nhất hiện nay là tính liên kết 3 trục sản phẩm: Nhóm sản phẩm cấp quốc gia, cấp tỉnh và đặc trưng của địa phương, làng, xã và khâu chế biến đang rất hạn chế. Thêm nữa là bất cập trong quản lý vật tư đầu vào, vấn đề tổ chức sản xuất, kiểm soát lưu thông hàng hóa, chưa tổ chức được thị trường trong nước cũng là vấn đề đáng lưu tâm.
Để giải quyết những bất cập trên, ông Mai Tiến Dũng nhấn mạnh phải lấy tiêu chuẩn của thị trường làm thước đo mới mở rộng được thị trường cho nông sản, nâng cao chất lượng và tính cạnh tranh trên thị trường xuất khẩu. Do đó, đây là diễn đàn tư vấn chính sách để Chính phủ có các giải pháp, quyết sách đúng đắn cho nông nghiệp Việt Nam trong thời gian tới.
Kiến nghị giải pháp phát triển nông sản Việt Nam, ông Trần Thanh Hải, Phó chủ tịch điều hành cấp cao Central Group cũng nhận định:Những năm gần đây với quyết tâm đổi mới. Việt Nam trở thành nước xuất khẩu nông sản lớn trên thế giới. Từ nước yếu kém về nông nghiệp, Việt Nam vươn lên là một trong 5 quốc gia xuất khẩu hàng đầu thế giới với một số ngành hàng nông nghiệp. Nhiều nông sản xuất khẩu thành công sang các thị trường khó tính trên thế giới, ví dụ cao su, tiêu, rau quả…
Để đẩy mạnh phát triển nông sản Việt, ông Hải cũng đưa ra đề xuất xây dựng phát triển các mô hình đầu tư và canh tác quy mô lớn. Sản xuất nông nghiệp Việt Nam hiện nay nhỏ lẻ, làm theo quy mô hộ gia đình, diện tích canh tác giới hạn. Mô hình cánh đồng mẫu lớn, trang trại chưa phổ biến, nên chưa tận dụng được chi phí đầu tư thấp, dẫn đến giá thành cao.
Thứ hai, cần ứng dụng khoa học kỹ thuật nhiều hơn trong canh tác. Trên thế giới, công nghệ sinh học, tự động hóa, ứng dung công nghệ cao trong sản xuất, chế biến… Nhìn chung, đa phần nông dân Việt Nam ngại thay đổi,trung thành với canh trác truyền thống, ngại rủi ro. Cơ hội hạn chế do quy mô đầu tư nhỏ. Nông dân thường không có cơ hội đầu tư máy móc, cải thiện chất lượng nâng cao năng suất canh tác.
Thứ ba, cần quản lý chất lượng và thương hiệu nghiêm ngặt. Việt Nam đã có kết quả đáng kể, được đánh giá cao về khả năng cung ứng hàng số luộng lớn, giá rẻ, song chất lượng vẫn là thách thức lớn. Thị trường nhập khẩu rất khắt khe, song nhiều doanh nghiệp Việt còn chưa thật sự quan tâm, chưa tìm hiểu thấu đáo về quy định mới dẫn tơi hàng không được thông quan.
Thứ tư, cần gia tăng giá trị cho sản phẩm. Việt Nam là một trong 5 nước xuất khẩu chè lớn nhất thế giới. Tuy được khách hàng đánh giá cao về khả năng cung ưng hàng số lượng lớn, giá rẻ song chủ yếu xuất thô, không có thương hiệu nên lợi nhuân thấp. Doanh nghiệp cần tâp trung nghiên cứu thị trường, tâm lý, đầu tư kỹ thuật để thiết kế, chế biến, đóng gói sản phẩm cho phù hợp, tham gia sâu hơn vào chuỗi giá trị sản phẩm, tăng lợi nhuận trong quá trình xuất khẩu để đầu tư bền vững hơn.
Đẩy Mạnh Các Giải Pháp Cơ Cấu Lại Doanh Nghiệp Nhà Nước Ở Việt Nam Hiện Nay
Hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước chưa tương xứng với nguồn lực nắm giữ
Cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước (DNNN), trọng tâm là các tập đoàn kinh tế (TĐKT), tổng công ty nhà nước (TCTNN) đã được xác định rõ trong các nghị quyết của Đảng, kết luận của Bộ Chính trị, đặc biệt trong Nghị quyết số 12-NQ/TW ngày 3/6/2017 Hội nghị Trung ương 5 (khóa XII) về tiếp tục cơ cấu lại, đổi mới và nâng cao hiệu quả DNNN. Thực hiện chủ trương cơ cấu lại DNNN, trong những năm qua, các bộ, ngành và địa phương đã vào cuộc quán triệt sâu sắc, triển khai mạnh mẽ và đạt được những kết quả quan trọng. Số lượng DNNN đã giảm mạnh; hoạt động sản xuất, kinh doanh tiếp tục được duy trì; hiệu quả hoạt động của DN sau cổ phần hóa (CPH)… dần được nâng cao.
Nhằm khắc phục những tồn tại hạn chế, thách thức về cơ cấu lại DNNN, ngày 25/5/2017, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 707/QĐ-TTg phê duyệt Đề án “Cơ cấu lại DNNN, trọng tâm là TĐKT, TCTNN giai đoạn 2016-2020”. Báo cáo tổng hợp mới đây của Bộ Tài chính cho biết, theo kế hoạch năm 2018, cả nước thực hiện CPH 64 DN, nhưng trên thực tế chỉ có 23 DN được phê duyệt phương án CPH. Cụ thể, năm 2018, đã có 23 DN được cấp có thẩm quyền phê duyệt phương án CPH với tổng giá trị DN là 31.706 tỷ đồng, trong đó giá trị vốn nhà nước là 16.739 tỷ đồng. Tổng vốn điều lệ theo phương án được cấp có thẩm quyền phê duyệt là 20.278 tỷ đồng, trong đó Nhà nước nắm giữ 12.118 tỷ đồng; bán cho nhà đầu tư chiến lược 2.540 tỷ đồng; đấu giá công khai 5.429 tỷ đồng, số còn lại bán cho người lao động là 179 tỷ đồng và tổ chức công đoàn 7 tỷ đồng. Lũy kế giai đoạn 2016 – 2018 đã có 159 DN được cấp có thẩm quyền phê duyệt phương án CPH với tổng giá trị DN là 442.275 tỷ đồng, trong đó giá trị vốn nhà nước là 206.024 tỷ đồng. Cũng trong năm 2018, chỉ có 28 DN thực hiện bán cổ phần lần đầu với giá trị cổ phần bán ra là 13.950 tỷ đồng, thu về 21.827 tỷ đồng.
Lũy kế giai đoạn 2016 – 2018 đã có 159 DN được cấp có thẩm quyền phê duyệt phương án cổ phần hóa với tổng giá trị DN là 442.275 tỷ đồng, trong đó giá trị vốn nhà nước là 206.024 tỷ đồng. Cũng trong năm 2018, chỉ có 28 DN thực hiện bán cổ phần lần đầu với giá trị cổ phần bán ra là 13.950 tỷ đồng, thu về 21.827 tỷ đồng.
Năm 2018, đã thực hiện thoái vốn nhà nước tại 57 DN, ít hơn rất nhiều so với kế hoạch Chính phủ đặt ra, đó là phải thoái vốn tại 181 DN. Ngoài ra, một loạt doanh nghiệp như Tập đoàn Dầu khí Việt Nam… xin lùi thời điểm thoái vốn và CPH. Hiện nay, theo báo cáo của Bộ Tài chính, tuy đã hết quý I/2019, nhưng vẫn chưa có thêm DN được cấp có thẩm quyền phê duyệt phương án CPH; Đồng thời, chưa có DN thực hiện thoái vốn.
Hiệu quả kinh doanh của DNNN xét trên tiêu chí lợi nhuận tạo ra, nộp ngân sách nhà nước (NSNN) có kết quả khá tích cực. Trong giai đoạn 2011 – 2016, có những DNNN nộp ngân sách lớn như: Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam nộp 147.941 tỷ đồng, Tập đoàn Công nghiệp Viễn thông Quân đội nộp 131.400 tỷ đồng… Công tác điều hành và giám sát hoạt động sản xuất, kinh doanh của DN ngày càng minh bạch và đạt hiệu quả hơn, DN kịp thời chấn chỉnh những yếu kém nhằm nâng cao trách nhiệm trong việc chấp hành pháp luật. Các DNNN còn thực hiện nhiệm vụ chính trị – xã hội trong một số lĩnh vực, làm “đầu tàu”, tạo động lực phát triển để thu hút các thành phần kinh tế khác tham gia, đóng góp tích cực vào chương trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn, chung tay xây dựng nông thôn mới, tham gia các hoạt động tại địa phương, góp phần vào việc ổn định an ninh, chính trị, an sinh xã hội, đóng góp vào phát triển kinh tế – xã hội đất nước…
Bên cạnh những kết quả đạt được, trong giai đoạn vừa qua, hiệu quả hoạt động của DNNN còn chưa tương xứng với nguồn lực đang nắm giữ. Doanh thu, lợi nhuận trước thuế và nộp NSNN có tốc độ tăng chậm, chưa thực sự phát huy được vai trò nòng cốt trong nền kinh tế, cũng như chưa làm tốt nhiệm vụ dẫn dắt, thúc đẩy các chủ thể thuộc các thành phần kinh tế khác phát triển, tạo động lực phát triển kinh tế. Một số DNNN hoạt động yếu kém, thua lỗ, còn để xảy ra tình trạng tiêu cực, tham nhũng, lãng phí, làm thất thoát tài sản nhà nước. Việc cơ cấu lại các DN hoạt động thua lỗ, các dự án DN đầu tư không hiệu quả ở nhiều nơi còn chậm nên hậu quả ngày càng nghiêm trọng.
Hoạt động đầu tư ngoài ngành còn dàn trải, hiệu quả chưa cao, trong lúc năng lực quản lý và khả năng tài chính còn hạn chế, thiếu kiểm soát chặt chẽ, làm phân tán nguồn lực, ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn của DN. Nhiều DNNN chưa chú trọng đầu tư theo chiều sâu, chậm đổi mới về công nghệ, trang thiết bị, kỹ thuật sản xuất, nâng cao năng suất lao động, ứng dụng và phát triển khoa học – công nghệ. Việc công khai thông tin trong DNNN còn hạn chế, không kịp thời, còn mang nặng tính hình thức. Công tác giám sát đối với DNNN tuy đã được phân công, phân cấp nhưng hiệu quả công tác giám sát chưa cao. Công tác thanh tra, kiểm tra chưa tốt. Nhiều vụ, việc sai phạm thời gian vừa qua đều được phát hiện sau thanh tra, kiểm toán của Nhà nước nên việc khắc phục hậu quả còn khó khăn.
Vướng mắc trong quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước
Từ thực tiễn, có thể thấy những vấn đề đang đặt ra đối với việc cơ cấu lại DNNN cụ thể gồm:
Thứ nhất, một số bộ, ngành, địa phương, TĐKT, TCTNN chưa nghiêm túc triển khai kế hoạch CPH, thoái vốn, cơ cấu lại DNNN theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ và chấp hành chế độ báo cáo. Vai trò, nhận thức, trách nhiệm của người đứng đầu DN, đơn vị chưa cao, chưa quyết liệt trong việc đổi mới hoạt động của DN, công khai minh bạch, đúng quy định pháp luật, đảm bảo nguyên tắc thị trường, chống lợi ích nhóm trong CPH và thoái vốn nhà nước.
Thứ hai, quá trình CPH DNNN cần có nhiều thời gian để xử lý vướng mắc về tài chính, đất đai, lao động trong giai đoạn trước CPH làm kéo dài thời gian thực hiện CPH. Đặc biệt là vấn đề xác lập hồ sơ pháp lý đất đai do UBND địa phương thực hiện chậm, kéo dài thời gian hơn so với quy định, dẫn đến các DN phải điều chỉnh tiến độ CPH. Việc thực hiện CPH các DNNN còn chậm bởi nhiều vướng mắc, trong đó, phổ biến nhất là việc xác định giá trị đất đai, tài sản, vốn, giá trị hữu hình và cả giá trị vô hình của DN. Trong CPH, thoái vốn DNNN, khi quy định giá trị quyền sử dụng đất được tính vào giá trị DN thì lại nảy sinh nhiều vấn đề, trong đó có tâm lý, “sợ trách nhiệm” của một số người đứng đầu, dẫn đến chần chừ, kéo dài thời gian CPH, hoặc thoái vốn không thành công…
Thứ ba, tỷ lệ vốn nhà nước trong phương án CPH DNNN còn cao dẫn đến giảm sức hút đối với các nhà đầu tư mua cổ phần, ảnh hưởng đến thành công của việc CPH. Việc chuyển giao quyền đại diện chủ sở hữu về Tổng Công ty Đầu tư Kinh doanh vốn nhà nước (SCIC), đăng ký giao dịch trên sàn chứng khoán, chấp hành chế độ báo cáo chưa được thực hiện nghiêm túc, quyết liệt ở một số bộ, ngành, địa phương, TĐKT, TCTNN.
Thứ tư, việc phê duyệt phương án sử dụng đất của DN CPH ở các địa phương triển khai chậm, thời gian thực hiện kéo dài. Theo quy định mới hiện nay thì các DN CPH phải rà soát, phê duyệt phương án sử dụng đất trước khi thực hiện xác định giá trị DN, trong khi việc phê duyệt phương án sử dụng đất của DN CPH ở các địa phương (đặc biệt là tại các thành phố lớn như: TP. Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh) gặp không ít khó khăn. Một số địa phương chưa kiên quyết trong việc thu hồi, xử lý đất đai của các DN sử dụng đất không đúng mục đích, vi phạm pháp luật về đất đai…
Cần những giải pháp quyết liệt, đột phá
Trong thời gian tới, CPH, thoái vốn vẫn được xem là nhiệm vụ trọng tâm để tái cơ cấu DNNN. Trong bối cảnh mới cùng với sự ra đời của Ủy ban Quản lý vốn Nhà nước tại DN, nhiệm vụ đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động của DNNN thời gian tới đặt ra vô cùng nặng nề, đòi hỏi quyết tâm cao và các giải pháp quyết liệt, đột phá hơn để hoàn thành mục tiêu của Nghị quyết số 12-NQ/TW. Để thực hiện có kết quả các giải pháp đẩy mạnh cơ cấu lại DNNN, cần tập trung vào những công việc cụ thể sau:
Thứ nhất, tiếp tục quán triệt sâu sắc các quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả DNNN theo Nghị quyết số 12-NQ/TW ngày 03/6/2017 của Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 5 khóa XII, Nghị quyết số 60/NQ-QH14 của Quốc hội, tạo sự nhất trí cao trong toàn hệ thống chính trị để nâng cao hơn nữa nhận thức và có hành động quyết liệt, cụ thể trong thực hiện.
Thứ ba, các DNNN, trọng tâm là các TĐKT, TCT NN phải đi đầu trong đổi mới, áp dụng công nghệ và phương thức kinh doanh theo hướng thông minh hơn, nhanh hơn, hiệu quả hơn và năng lực cạnh tranh cao hơn, áp dụng phương thức kinh doanh mới như kinh tế chia sẻ, thương mại điện tử, thanh toán điện tử… đáp ứng yêu cầu đổi mới công nghệ, mô hình quản lý, quản trị trong nền kinh tế số.
Thứ năm, Hội đồng thành viên, chủ tịch, ban lãnh đạo các TĐKT, TCT, DNNN cần tăng cường và chịu trách nhiệm hoàn thành và triển khai tích cực các nhiệm vụ: Bổ sung hoặc xây dựng ban hành các định mức kinh tế – kỹ thuật đối với các hoạt động của DN làm cơ sở để quản lý, kiểm tra, giám sát DN; Xây dựng phương án tổ chức sản xuất kinh doanh, triển khai cơ cấu lại các DN thành viên để thực hiện chuyên môn hóa, phân công, hợp tác, không đầu tư dàn trải, phân tán nguồn lực; Đẩy mạnh đổi mới quản trị DN trên tất cả các mặt phù hợp với chuẩn mực quốc tế nhằm nâng cao tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong sản xuất, kinh doanh, chú trọng nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, sức cạnh tranh và phát triển bền vững.
1. Ban Chấp hành Trung ương (2017), Nghị quyết số 12-NQ/TW ngày 3/6/2017 về tiếp tục cơ cấu lại, đổi mới và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước; 2. Chính phủ (2018), Báo cáo tại Hội nghị đổi mới, nâng cao hiệu quả hoạt động của DNNN, tổ chức ngày 21/11/2018 tại Hà Nội; 3. Tạp chí Kinh tế và Dự báo (2018), Báo cáo và tài liệu tại Diễn đàn “Thúc đẩy quá trình đổi mới và nâng cao hiệu quả DNNN” tổ chức ngày 6/11/2018 tại Hà Nội; 4. Đổi mới DNNN: Nhiều tồn tại cần xử lý sớm, chúng tôi thoi-su/2018-11-21/doi-moi-doanh-nghiep nha-nuoc-nhieu-ton-tai-can-xu-ly-som-64545.aspx.
Bạn đang đọc nội dung bài viết Đẩy Mạnh Và Phát Triển Doanh Nghiệp Logistics Ở Việt Nam trên website Photomarathonasia.com. Hy vọng một phần nào đó những thông tin mà chúng tôi đã cung cấp là rất hữu ích với bạn. Nếu nội dung bài viết hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!