Đề Xuất 4/2023 # Đẩy Mạnh Phát Triển Ngành Dịch Vụ # Top 8 Like | Photomarathonasia.com

Đề Xuất 4/2023 # Đẩy Mạnh Phát Triển Ngành Dịch Vụ # Top 8 Like

Cập nhật nội dung chi tiết về Đẩy Mạnh Phát Triển Ngành Dịch Vụ mới nhất trên website Photomarathonasia.com. Hy vọng thông tin trong bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu ngoài mong đợi của bạn, chúng tôi sẽ làm việc thường xuyên để cập nhật nội dung mới nhằm giúp bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.

Để ngành dịch vụ phát triển nhanh và bền vững, mới đây, UBND tỉnh Khánh Hòa có kế hoạch cơ cấu lại ngành này. Trong đó, các mục tiêu, nhiệm vụ và tổ chức thực hiện được vạch ra khá rõ ràng nhằm gắn dịch vụ với phát triển, chuyển dịch cơ cấu kinh tế trên địa bàn.

Cơ cấu lại theo hướng hiện đại

Kế hoạch thực hiện cơ cấu lại ngành dịch vụ mà UBND tỉnh ban hành được xem là khung nhiệm vụ của các sở, ban, ngành và địa phương trong thực hiện mục tiêu phát triển ngành dịch vụ và phát triển kinh tế của tỉnh đến năm 2025. Trong đó, yêu cầu phát triển ngành dịch vụ nhanh, hiệu quả và bền vững, đảm bảo các dịch vụ cơ bản phục vụ cho phát triển kinh tế – xã hội, hướng tới hình thành cơ cấu kinh tế hiện đại, đảm bảo khai thác tốt các nguồn lực cho tăng trưởng kinh tế. UBND tỉnh xác định cơ cấu lại ngành này phải có trọng tâm, trọng điểm, khả thi và tác động mạnh, kịp thời trên thực tiễn. Khu vực doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp tư nhân là lực lượng quan trọng trong thực hiện quá trình cơ cấu lại ngành dịch vụ. Ngoài ra, việc cơ cấu phải tiếp cận với trình độ hiện đại, đảm bảo hội nhập quốc tế và khu vực; lồng ghép việc thực hiện các cam kết quốc tế về dịch vụ với kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội của tỉnh giai đoạn 2021 – 2030, tầm nhìn 2045.

Logistics và vận tải được xem là lĩnh vực có nhiều lợi thế của tỉnh.

Mục tiêu của kế hoạch là tập trung nguồn lực phát triển một số lĩnh vực dịch vụ tiềm năng, có hàm lượng tri thức và công nghệ cao như: tài chính, ngân hàng, logistics và vận tải, công nghệ thông tin và truyền thông, khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo, y tế, du lịch…; thực hiện các chính sách phát triển ngành, tạo khuôn khổ chính sách đồng bộ hướng vào việc xây dựng ngành dịch vụ chất lượng, hiệu quả và cạnh tranh; xây dựng cơ sở hạ tầng của khu vực dịch vụ thông qua việc tập trung phát triển các lĩnh vực dịch vụ có thế mạnh. Trong tương lai, ngành dịch vụ phải được chuyển dịch cơ cấu theo hướng nâng cao tỷ trọng về ứng dụng công nghệ cao, công nghệ thông tin để tác động lan tỏa tới các lĩnh vực khác.

Các mục tiêu cụ thể

Theo UBND tỉnh, kế hoạch cơ cấu lại ngành dịch vụ phải đảm bảo tốc độ tăng trưởng khu vực dịch vụ giai đoạn 2016 – 2020 đạt khoảng 6,6 đến 7,1%; tỷ trọng khu vực dịch vụ trong GRDP (tổng sản phẩm trên địa bàn) chiếm 42% vào năm 2020. Giai đoạn 2021 – 2025, tốc độ tăng trưởng khu vực dịch vụ đạt khoảng 7,5%; tỷ trọng khu vực dịch vụ trong GRDP khoảng 44% vào năm 2025.

UBND tỉnh cũng đề ra mục tiêu đối với từng lĩnh vực cụ thể để phấn đấu. Trong đó, lĩnh vực tài chính – ngân hàng, huy động vốn có mục tiêu tăng bình quân 10%/năm; dư nợ tăng bình quân 14%/năm; tỷ lệ nợ xấu dưới 3% (không bao gồm các ngân hàng thương mại yếu kém đã được Chính phủ phê duyệt phương án xử lý). Đặc biệt, đẩy mạnh phát triển thanh toán không dùng tiền mặt, tối ưu hóa mạng lưới ATM và POS. Với lĩnh vực công nghệ thông tin và truyền thông, đến năm 2025, tốc độ tăng trưởng bình quân phải đạt từ 5 đến 7%/năm; phủ sóng thông tin di động 100% khu vực dân cư trên địa bàn tỉnh.

Trong kế hoạch, UBND tỉnh đặc biệt chú trọng đến lĩnh vực đào tạo lao động. Theo đánh giá, đến năm 2020, giáo dục nghề nghiệp đáp ứng được nhu cầu của thị trường lao động cả về số lượng, chất lượng, cơ cấu ngành nghề và trình độ đào tạo; bình quân hàng năm đào tạo nghề cho khoảng 26.500 người; trình độ trung cấp, cao đẳng chiếm khoảng 25 – 30%, khoảng 10 -15% được đào tạo theo các ngành, nghề trọng điểm và hơn 70% người có việc làm sau đào tạo. Để lĩnh vực này đáp ứng được nhu cầu phát triển, UBND tỉnh đặt mục tiêu đến năm 2025, bình quân hàng năm đào tạo nghề nghiệp cho khoảng 28.500 người, ít nhất 85% người học có việc làm hoặc có năng suất, thu nhập cao hơn sau đào tạo… Hết năm 2020, tỷ trọng lao động các ngành dịch vụ qua đào tạo có chứng chỉ phải đạt khoảng 25%; tỷ trọng này được nâng lên khoảng 35% vào năm 2025.

Các lĩnh vực dịch vụ du lịch, logistics, thương mại cũng được đánh giá là những ngành có thế mạnh, cần có những mục tiêu để phát triển vượt bậc. Cụ thể, logistics và vận tải đặt mục tiêu có tốc độ tăng trưởng bình quân hơn 7%/năm; bước đầu xây dựng và hình thành dịch vụ logistic trên địa bàn tỉnh. Về phân phối, thương mại, đặt mục tiêu tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng giai đoạn 2021 – 2025 ước đạt khoảng 513.046 tỷ đồng; phát triển thương mại điện tử; xuất, nhập khẩu tăng trưởng bình quân 10%/năm. Trong lĩnh vực dịch vụ du lịch, phấn đấu đến năm 2025, toàn tỉnh thu hút được từ 9 đến 11 triệu lượt khách/năm; khách quốc tế đạt từ 4 đến 5 triệu lượt và 5 đến 6 triệu lượt khách du lịch nội địa. Đến năm 2025, phấn đấu có hơn 61.000 buồng lưu trú với 60 – 70% đạt chuẩn từ 3 đến 5 sao; tạo ra 254.000 việc làm, trong đó có 85.000 lao động trực tiếp.

Ông Trần Hòa Nam – Giám đốc Sở Kế hoạch và Đầu tư cho biết, kế hoạch cơ cấu lại ngành dịch vụ chính là cơ sở để các sở, ban, ngành và địa phương tiếp tục thực hiện những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh cấp tỉnh; đồng thời hỗ trợ và phát triển doanh nghiệp trên địa bàn. Sở Kế hoạch và Đầu tư được giao chủ trì phối hợp với các đơn vị rà soát, đơn giản hóa thủ tục, giảm chi phí và thời gian cho doanh nghiệp. Bên cạnh đó, sở phối hợp với các đơn vị, địa phương thực hiện các giải pháp thu hút tối đa và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn đầu tư phát triển nền kinh tế, đầu tư hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội thiết yếu; tập trung các nguồn lực để triển khai nhiệm vụ khoa học và công nghệ đối với các ngành dịch vụ tiềm năng của tỉnh; khuyến khích, hỗ trợ các doanh nghiệp nghiên cứu, ứng dụng và đổi mới công nghệ; thúc đẩy khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo, thương mại hóa kết quả nghiên cứu, ứng dụng và phát triển công nghệ; đặc biệt chú trọng các ngành dịch vụ ứng dụng công nghệ cao, trí tuệ nhân tạo, công nghệ thông tin…

Đình Lâm  

Phát Triển Ngành Dịch Vụ Logistics Tại Việt Nam

Logistics là một ngành dịch vụ quan trọng trong cơ cấu tổng thể nền kinh tế quốc dân, đóng vai trò hỗ trợ, kết nối và thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội của cả nước cũng như từng địa phương, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế. Nghiên cứu này trao đổi về triển vọng phát triển của ngành này cũng như đưa ra một số giải pháp nhằm thúc đẩy phát triển dịch vụ logistics tại Việt Nam.

Phát triển dịch vụ logistics thành một ngành dịch vụ sẽ đem lại giá trị giá tăng cao, gắn dịch vụ logistics với phát triển sản xuất hàng hóa, xuất nhập khẩu và thương mại trong nước, phát triển hạ tầng giao thông vận tải và công nghệ thông tin… Phát triển thị trường dịch vụ logistics lành mạnh sẽ tạo cơ hội bình đẳng cho các doanh nghiệp (DN) thuộc mọi thành phần kinh tế, khuyến khích thu hút vốn đầu tư trong và ngoài nước phù hợp với pháp luật Việt Nam và các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên.

Theo Hiệp hội DN dịch vụ Logistics Việt Nam (VLA), tốc độ phát triển của ngành logistics tại Việt Nam ở Việt Nam có khoảng những năm gần đây đạt khoảng 14%-16%, với quy mô khoảng 40-42 tỷ USD/năm. Tham gia thị trường logistics gồm khoảng 3.000 DN trong nước và khoảng 25 tập đoàn giao nhận hàng đầu thế giới kinh doanh dưới nhiều hình thức. Hiện nay, 30 DN cung cấp dịch vụ logistics xuyên quốc gia đang hoạt động tại Việt Nam với các tên tuổi lớn như: DHL, FedEx, Maersk Logistics, APL Logistics, CJ Logistics, KMTC Logistics…

Theo xếp hạng của Ngân hàng Thế giới, Việt Nam hiện đứng thứ 64/160 nước về mức độ phát triển logistics và đứng thứ 4 trong khu vực ASEAN sau Singapore, Malaysia và Thái Lan. Với tốc độ phát triển hàng năm đạt từ 14-16%, đây là một trong những ngành dịch vụ tăng trưởng nhanh và ổn định nhất của Việt Nam trong thời gian qua.

Dự báo, đến hết năm 2020, kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam ước đạt mức 300 tỷ USD, hàng container qua hệ thống cảng biển Việt Nam đạt 67,7 triệu TEU, do vậy, tiềm năng phát triển dịch vụ logistics Việt Nam là rất lớn. Trong tương lai không xa, dịch vụ cung cấp logistics sẽ trở thành ngành kinh tế quan trọng, có thể đóng góp tới 15% GDP của cả nước.

Đặc biệt, thời gian gần đây đã có sự bùng nổ về thương mại điện tử và e-Logistics. Theo Cục Thương mại điện tử và kinh tế số của Bộ Công Thương, thương mại điện tử tăng trưởng 35%/năm; doanh số bán lẻ thương mại điện tử của Việt Nam trong giai đoạn 2016-2020 ước tính tăng 20%/năm và tổng doanh số bán lẻ thương mại điện tử Việt Nam dự kiến đạt 10 tỷ USD vào năm 2020. Những thay đổi trong thương mại điện tử trên thế giới và tại Việt Nam đã thúc đẩy ngành logistics Việt Nam cải thiện phương thức cung cấp dịch vụ ngày càng chuyên nghiệp và hiệu quả hơn.

Cơ hội thúc đẩy phát triển ngành logistics

Hiện nay, Việt Nam được đánh giá có nhiều cơ hội để thúc đẩy phát triển ngành dịch vụ Logistics. Cụ thể, hệ thống hạ tầng giao thông đường bộ, cảng hàng không, cảng biển, kho bãi, hạ tầng thương mại, trung tâm logistics không ngừng được mở rộng với quy mô lớn, rộng khắp. Cùng với đó, các dịch vụ đi kèm đã, đang đáp ứng kịp thời những yêu cầu hết sức đa dạng của thị trường. Các thủ tục, thời gian thông quan đối với hàng xuất khẩu cũng đã cải thiện đáng kể.

Năm 2017, thời gian thông quan hàng xuất khẩu là 105 giờ, hàng nhập khẩu là 132 giờ. Việt Nam cũng đang đứng thứ 39/160 nước về chỉ số hoạt động logistics và đứng thứ 3 trong ASEAN chỉ sau Singapore và Thái Lan… Những yếu tố này đã tạo điều kiện cho DN phát triển, giảm chi phí, nâng cao năng lực cạnh tranh, thúc đẩy xuất khẩu; hình thành nên các chuỗi cung ứng logistics toàn diện, đa dạng và ngày càng chuyên sâu hơn, góp phần quan trọng trong cơ cấu nền kinh tế.

Công tác hoàn thiện quy định pháp luật thời gian qua đã được Chính phủ quan tâm. Thực tiễn hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng của Việt Nam, nhất là việc thực hiện các Hiệp định Thương mại tự do (FTA) thế hệ mới đòi hỏi phải có những quy định phù hợp, tạo điều kiện thuận lợi, thông thoáng cho ngành Dịch vụ logistics phát triển, đẩy mạnh đầu tư trong nước và hợp tác quốc tế.

Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 200/QĐ-TTg ngày 14/02/2017 phê duyệt Kế hoạch hành động nâng cao năng lực cạnh tranh và phát triển ngành Dịch vụ logistics Việt Nam đến năm 2025. Trong đó, đề ra 06 mục tiêu, 60 nhiệm vụ cụ thể với nhiều giải pháp toàn diện, nhằm đưa ngành này vượt qua những khó khăn, thách thức, đạt trình độ tiên tiến của khu vực và thế giới, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế của đất nước.

Ngày 30/12/2017, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 163/2017/NĐ-CP quy định về kinh doanh dịch vụ logistics (có hiệu lực từ ngày 20/02/2018), thay thế Nghị định số 140/2007/NĐ-CP ngày 05/09/2007 quy định chi tiết Luật Thương mại về điều kiện kinh doanh dịch vụ logistics và giới hạn trách nhiệm đối với thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics.

Ngày 06/07/2018, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 27/2018/QĐ-TTg ban hành Hệ thống ngành Kinh tế Việt Nam và đây là lần đầu tiên Việt Nam có mã ngành logistics riêng (Mã 52292: Logistics). Ngày 18/07/2018, Thủ tướng Chính phủ ký ban hành Chỉ thị số 21/CT-TTg về đẩy mạnh triển khai các giải pháp nhằm giảm chi phí logistics, kết nối hiệu quả hệ thống hạ tầng giao thông… Chính phủ đã thể hiện rõ cam kết hỗ trợ, kiến tạo môi trường thuận lợi, để nâng cao năng lực cạnh tranh và phát triển dịch vụ logistics Việt Nam.

Một số thách thức, rào cản

Ngành logistics nói chung, các DN logistics nói riêng của Việt Nam hiện còn phải đối diện với không ít thách thức, rào cản, cụ thể:

Hai là, cơ sở hạ tầng giao thông vận tải còn yếu kém, không đồng bộ, chưa tạo ra hành lang vận tải đa phương thức trong khi nhu cầu trung chuyển chất lượng cao cho hàng hóa giữa các phương thức đang ngày càng lớn. Việt Nam còn thiếu các khu kho vận tập trung có vị trí chiến lược, đồng bộ với hệ thống cảng, sân bay, đường quốc lộ, cơ sở sản xuất; Mất cân đối cung cầu tại các cảng biển miền Nam.

Thực tế cũng cho thấy, việc kết nối các phương thức vận tải chưa hiệu quả; chưa phát huy tốt các nguồn lực về hạ tầng, con người, thị trường nội địa và khu vực; các trung tâm logistics đóng vai trò kết nối Việt Nam với quốc tế chưa được đầu tư, xây dựng… dẫn đến chi phí logistics còn cao, chiếm 25% GDP (so với các nước phát triển chỉ từ 9 đến 15%) trong đó, chi phí vận tải chiếm 30 đến 40% giá thành sản phẩm (tỷ lệ này là 15% ở các quốc gia khác). Điều này làm giảm khả năng cạnh tranh dịch vụ, hàng hóa của các DN Việt Nam, ảnh hưởng đến sức cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam.

Ba là, hoạt động của chính các DN logistics còn nhiều hạn chế cả về quy mô hoạt động, vốn, nguồn nhân lực… Các DN cung cấp dịch vụ logistics ở Việt Nam hầu hết là những DN nhỏ và vừa, hoạt động kinh doanh dịch vụ logistics còn manh mún, thiếu kinh nghiệm và chuyên nghiệp, cung cấp các dịch vụ cơ bản, hoặc cung cấp từng dịch vụ đơn lẻ, cạnh tranh về giá là chủ yếu, ít giá trị gia tăng, thường chỉ đóng vai trò là nhà thầu phụ hay đại lý cho các công ty nước ngoài gồm: Dịch vụ logistics chủ yếu mà các DN kinh doanh logistics Việt Nam cung ứng cho khách hàng là dịch vụ kho bãi, vận tải hàng hóa, giao nhận hàng hóa, bốc xếp, dịch vụ phân loại, đóng gói bao bì, lưu kho… còn các dịch vụ khác trong chuỗi dịch vụ logistics mặc dù có một số DN cung ứng nhưng số lượng không nhiều và chưa được quan tâm phát triển. Bên cạnh đó, còn thiếu sự kết nối giữa DN xuất khẩu và DN logistics do thói quen nhập khẩu CIF và xuất khẩu theo FOB. Khả năng cạnh tranh của các DN nội địa cũng còn thấp so với DN ngoại.

Bốn là, nguồn nhân lực phục vụ cho dịch vụ logistics chưa qua đào tạo bài bản còn thiếu và yếu, chưa đáp ứng yêu cầu, đặc biệt thiếu các chuyên viên logistics giỏi có năng lực ứng dụng và triển khai tại các DN nghiệp. Trong số các DN nội địa hiện nay, có tới 93 – 95% người lao động không được đào tạo bài bản, chủ yếu làm dịch vụ ở các chuỗi cung ứng nhỏ như: Giao nhận, kho bãi, xử lý vận đơn…

Giải pháp phát triển ngành logistics

Theo Kế hoạch hành động nâng cao năng lực cạnh tranh và phát triển dịch vụ logistics Việt Nam đến năm 2025, Việt Nam phấn đấu tỷ trọng đóng góp của ngành Dịch vụ logistics vào GDP đạt 8%-10%, tốc độ tăng trưởng dịch vụ đạt 15%-20%, tỷ lệ thuê ngoài dịch vụ logistics đạt 50%-60%, chi phí logistics giảm xuống tương đương 16%-20% GDP, xếp hạng theo chỉ số năng lực quốc gia về logistics (LPI) trên thế giới đạt thứ 50 trở lên. Với mục tiêu đưa Việt Nam trở thành một đầu mối logistics của khu vực, trong thời gian tới cần tập trung triển khai một số nhiệm vụ, giải pháp sau:

Một là, tiếp tục hoàn thiện chính sách, pháp luật về dịch vụ logistics. Theo đó, sửa đổi một số quy định, bổ sung về dịch vụ logistics tại Luật Thương mại, tạo cơ sở pháp lý thuận lợi cho hoạt động logistics. Sửa đổi, ban hành mới các chính sách, pháp luật điều chỉnh dịch vụ logistics, vận tải đa phương thức, vận tải xuyên biên giới. Bao quát toàn diện các dịch vụ logistics, nội luật hóa các cam kết quốc tế về logistics…

Hai là, ban hành các chính sách hỗ trợ thúc đẩy ngành Dịch vụ logistics phát triển. Theo đó, xây dựng chính sách hỗ trợ phát triển dịch vụ logistics tại địa phương hiệu quả, phù hợp với đặc điểm kinh tế – xã hội của từng địa phương. Hỗ trợ DN dịch vụ logistics, đặc biệt là các DN nhỏ và vừa, thuận lợi trong việc tiếp cận các nguồn vốn trong và ngoài nước, phát triển thị trường, đào tạo, tiếp cận thông tin.

Ba là, hoàn thiện kết cấu hạ tầng logistics, bằng việc tiếp tục rà soát các quy hoạch, kế hoạch, đảm bảo tính đồng bộ của hạ tầng giao thông và dịch vụ vận tải với mục tiêu phát triển ngành Dịch vụ logistics. Rà soát, điều chỉnh quy hoạch, cơ cấu sản xuất địa phương gắn với phát triển hạ tầng và dịch vụ logistics, đảm bảo các quy hoạch, kế hoạch về giao thông, vận tải phù hợp với các chiến lược, quy hoạch về sản xuất công nghiệp, nông nghiệp, xuất nhập khẩu, chiến lược phát triển kinh tế – xã hội của các địa phương, gắn kết quy hoạch về trung tâm logistics, cảng cạn, kho ngoại quan trong một tổng thể thống nhất. Tăng lưu lượng hàng hóa vận chuyển bằng đường biển, đường thủy nội địa, đường sắt và đường hàng không. Phát triển hệ thống vận chuyển nhằm đáp ứng xu thế phát triển của thương mại điện tử, trong đó chú trọng đến giao hàng chặng cuối.

Ba là, nâng cao năng lực DN và chất lượng dịch vụ. Cần có cách thức hỗ trợ giúp các DN Việt Nam hiểu rõ và nhận thức đúng về quy trình cung cấp các dịch vụ logistics, đặc biệt là trong quá trình vận tải; Đào tạo có hệ thống nguồn nhân lực có kinh nghiệm và được trang bị đầy đủ những kiến thức chuyên môn, am hiểu luật pháp trong nước và quốc tế. Khuyến khích DN trong một số ngành (dệt may, da giày, đồ gỗ, nông sản, cơ khí – chế tạo…) áp dụng mô hình quản trị chuỗi cung ứng tiên tiến trong quá trình sản xuất, kinh doanh, trong đó chú trọng triển khai các hoạt động logistics trên nền tảng ứng dụng công nghệ thông tin và các công nghệ mới trong logistics.

Về phía DN, ngoài nguồn nhân lực cần được nâng cao trình độ ngoại ngữ công nghệ để đáp ứng với việc hội nhập các DN cần đầu tư cơ sở vật chất, nâng cấp và mở rộng hệ thống kho bãi, các trang thiết bị bốc xếp, vận chuyển chuyên dùng và các dịch vụ hỗ trợ khác; Liên doanh, liên kết với các DN trong và ngoài nước để kết nối, mở rộng mạng lưới dịch vụ trong cả nước và trên thế giới để tạo đầu ra thị trường ngoài nước và nâng cao khả năng chuyên môn của cán bộ để từ đó nâng cao tính cạnh tranh trong hoạt động kinh doanh.

Thông qua các hoạt động này nhằm nâng cao năng lực DN, khuyến khích, hướng dẫn DN trong một số ngành áp dụng mô hình quản trị chuỗi cung ứng tiên tiến trong quá trình sản xuất, kinh doanh, trong đó chú trọng triển khai các hoạt động logistics trên nền tảng công nghệ thông tin và các công nghệ mới trong logistics.

Bốn là, phát triển thị trường dịch vụ logistics. Đẩy mạnh xúc tiến thương mại cho dịch vụ logistics thông qua việc đăng cai, tổ chức các hội thảo, hội chợ, triển lãm quốc tế về logistics. Tổ chức các đoàn nghiên cứu ra nước ngoài và mời các đoàn DN nước ngoài vào Việt Nam trao đổi cơ hội đầu tư, hợp tác về phát triển dịch vụ logistics. Đẩy mạnh tuyên truyền cho các DN sản xuất, xuất nhập khẩu và thương mại nội địa về việc sử dụng dịch vụ logistics thuê ngoài theo hướng chuyên môn hóa, phân công lao động hợp lý trong chuỗi cung ứng.

Đặc biệt, tập trung cải thiện cơ sở hạ tầng logistics gắn với thương mại điện tử, kết hợp logistics với thương mại điện tử theo xu hướng phát triển trên thế giới và khu vực. Chú trọng đào tạo nguồn nhân lực cho cả DN lẫn cơ quan quản lý để phục vụ sự phát triển nhanh chóng của dịch vụ logistics.

Năm là, đẩy mạnh hợp tác quốc tế trong lĩnh vực logistics. Tiếp tục mở rộng kết nối hạ tầng logistics với các nước trong khu vực ASEAN, Đông Bắc Á và các khu vực khác trên thế giới nhằm phát huy tác dụng của vận tải đa phương thức, vận tải xuyên biên giới và quá cảnh. Xây dựng công trình giao thông, kho bãi, trung tâm logistics trên các tuyến đường, hành lang kết nối các cảng của Việt Nam với Lào, Campuchia, Thái Lan và Nam Trung Quốc.

Đẩy mạnh phát triển loại hình vận tải đa phương thức, vận tải xuyên biên giới, nhất là đối với hàng hóa quá cảnh. Hình thành các trung tâm logistics ở nước ngoài làm đầu cầu, tập kết và phân phối hàng hóa Việt Nam đến các thị trường quốc tế. Tăng cường liên kết với các hiệp hội và DN dịch vụ logistics khu vực ASEAN và trên thế giới. Vận động thu hút đầu tư xây dựng trung tâm logistics để thúc đẩy xuất nhập khẩu hàng hóa Việt Nam với thị trường toàn cầu, nhằm hình thành các trung tâm logistics ở nước ngoài làm đầu cầu, tập kết và phân phối hàng hóa Việt Nam đến các thị trường quốc tế.

Giải Pháp Đẩy Mạnh Triển Khai Dịch Vụ Công Trực Tuyến Tại Kbnn Long An

Tính đến hết quý I/2020, KBNN Long An đã nhanh chóng triển khai dịch vụ công trực tuyến lĩnh vực kho bạc (DVCTT) tới 86% đơn vị sử dụng NSNN trên địa bàn tỉnh, mang đến một diện mạo hoàn toàn mới trong công tác kiểm soát chi NSNN qua KBNN.

In the first quarter of 2020, the State Treasury of Long An Province quickly implemented the State Treasury online public service to 86% spending units in the province, bringing a completely new face in the work of controlling state budget expenditure through the State Treasury.

KBNN Long An thực hiện triển khai DVCTT vào đầu tháng 10/2019. Xác định rõ DVCTT là bước tiến quan trọng để hình thành Kho bạc điện tử nhằm cung cấp thông tin, DVCTT trên diện rộng cho người dân và doanh nghiệp, nâng cao chất lượng phục vụ nhân dân, minh bạch hoạt động của cơ quan nhà nước, vì vậy, ngay từ những ngày đầu tháng 10/2019, Ban lãnh đạo KBNN Long An đã tổ chức lấy ý kiến, họp trao đổi chỉ đạo trực tiếp với lãnh đạo các phòng nghiệp vụ, KBNN các huyện, thị thông qua các cuộc họp, hội nghị nhằm ổn định về mặt tinh thần, tư tưởng, thống nhất phương án, kế hoạch sẵn sàng để triển khai DVCTT.

Theo đó, tất cả công chức thuộc phòng Kiểm soát chi đều được KBNN tập huấn, thực hành nhuần nhuyễn các nghiệp vụ trên hệ thống DVCTT theo hình thức tập trung dưới sự hướng dẫn, hỗ trợ của công chức tin học KBNN Long An. Bên cạnh đó, trước khi triển khai DVCTT diện rộng, lãnh đạo KBNN Long An đã lựa chọn một số công chức đưa đi đào tạo học hỏi kinh nghiệm ở các đơn vị đã triển khai để tổ chức thực hiện đồng thời hướng dẫn lại cho công chức toàn đơn vị theo hình thức cầm tay chỉ việc. Trong quá trình triển khai DVCTT, mọi công chức đều nghiêm túc chấp hành quy định, quy trình nghiệp vụ DVCTT để kiểm soát các khoản chi NSNN qua KBNN theo Quyết định số 4377/QĐKBNN ngày 15/09/2017 của KBNN về việc ban hành quy trình nghiệp vụ thống nhất đầu mối kiểm soát các khoản chi NSNN qua KBNN.

KBNN Long An đặc biệt chú trọng tổ chức tuyên truyền để đông đảo người dân và các đơn vị sử dụng ngân sách hiểu về DVCTT và những lợi ích, mục tiêu hướng đến của DVCTT, đăng bài tuyên truyền về tiện ích DVCTT trên báo Long An. Mỗi công chức làm công tác kiểm soát chi là một tuyên truyền viên đến các đơn vị sử dụng NSNN. Ngoài ra, KBNN Long An cũng đã soạn thảo tài liệu chi tiết về quy trình cài đặt và hướng dẫn sử dụng DVCTT gửi các đơn vị sử dụng NSNN có quan hệ giao dịch với KBNN khi tham gia hội nghị tập huấn triển khai.

Hệ thống mạng máy tính và các thiết bị tin học đã được lắp đặt đầy đủ đảm bảo vận hành tốt; các chương trình ứng dụng như TABMIS, (ĐTKB – LAN) thanh toán liên ngân hàng, Thanh toán liên kho bạc, Thu thuế trực tiếp (TCS), mạng Internet… đều hoạt động ổn định, thông suốt. Trong tháng 10/2019, Hội nghị tập huấn triển khai DVCTT được triển khai trên toàn tỉnh Long An. Tại Văn phòng KBNN Long An chia làm hai đợt, mỗi đợt thực hiện trong một ngày làm việc, đối tượng là các đơn vị sử dụng NSNN của thành phố Tân An và các đơn vị sử dụng NSNN còn lại trên địa bàn tỉnh với số lượng mỗi đợt trên 100 người bao gồm lãnh đạo đơn vị sử dụng NSNN và kế toán trưởng có giao dịch với KBNN.

Bên cạnh đó, tại các huyện thị, lãnh đạo KBNN Long An đã chỉ đạo triển khai 14 cuộc tại 14 huyện, thị với thành phần được mời triển khai là lãnh đạo đơn vị sử dụng NSNN và kế toán trưởng của các đơn vị sử dụng NSNN trên địa bàn có giao dịch với KBNN. Các đối tượng tham gia tập huấn được phổ biến, hướng dẫn toàn bộ quy trình cài đặt và sử dụng hệ thống dịch vụ công trực tuyến KBNN. Ngày 01/11/2019, KBNN Long An đã chính thức triển khai DVCTT trên toàn tỉnh Long An theo hình thức “cuốn chiếu”.

KBNN Long An cử công chức tin học đến từng đơn vị để cài đặt chương trình DVCTT và hướng dẫn chi tiết các thao tác cần thiết theo hình thức “cầm tay chỉ việc”, “một thầy một trò” chắc chắn từng đơn vị, từng người sử dụng đều thao tác nhuần nhuyễn trên hệ thống DVCTT sau triển khai. KBNN Long An đã phân công công chức tin học trực tiếp hỗ trợ, tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong suốt quá trình và sau khi triển khai DVCTT, đảm bảo công tác giao dịch qua DVCTT được vận hành thông suốt, tránh tối đa những luồng ý kiến trái chiều gây ảnh hưởng đến tâm lý của các đơn vị giao dịch.

Tính đến hết ngày 31/03/2020, KBNN Long An đã hoàn thành triển khai DVCTT đến 1.178/1.372 đơn vị sử dụng ngân sách, tương đương 86%. Hệ thống DVCTT đã hoạt động thông suốt, ổn định, an toàn; tập trung ở các mảng dịch vụ: Thủ tục đăng ký mở và sử dụng tài khoản tại KBNN; thủ tục giao, nhận và trả kết quả đối với hồ sơ kiểm soát chi; kê khai yêu cầu thanh toán dễ dàng cho các đơn vị tham gia. Các đơn vị sử dụng ngân sách đã truyền được chứng từ sang KBNN Long An, KBNN Long An đã thực hiện hoàn thiện chứng từ trên DVCTT, kết nối thành công vào TABMIS và trả báo nợ cho đơn vị theo đúng quy định. Hết ngày 31/03/2020, trên địa bàn KBNN Long An có 69.181 hồ sơ giao dịch đã được tiếp nhận và thực hiện thành công qua hệ thống DVCTT, chiếm 89% tổng số hồ sơ giao dịch tính từ thời điểm triển khai DVCTT.

DVCTT là một hệ thống ứng dụng mới đòi hỏi người sử dụng cần phải có thời gian sử dụng để có thể tối ưu mọi chức năng của hệ thống. Đây cũng là khó khăn cho công chức kế toán, thủ trưởng các đơn vị sử dụng NSNN cũng như công chức làm công tác kiểm soát chi và lãnh đạo KBNN Long An.

Hiện nay, công tác lưu trữ chứng từ, hồ sơ trong thanh toán của bộ phận Kiểm soát chi sau khi thực hiện triển khai DVCTT chưa có hướng dẫn cụ thể nên cũng tồn tại một số khó khăn như phải kết hợp lưu trữ chứng từ in phục hồi từ cổng DVCTT và chứng từ, hồ sơ được đơn vị sử dụng ngân sách gửi trực tiếp, các phụ lục và hồ sơ đính kèm qua cổng DVCTT khi in ra để lưu trữ không có dấu đỏ (đây là cơ sở pháp lý để lưu trữ chứng từ giấy) theo Quyết định.

Quá trình xử lý hồ sơ, chứng từ chi NSNN của đơn vị sử dụng ngân sách qua cổng DVCTT trong thời gian qua trên hệ thống mạng có những thời điểm rất chậm, đặc biệt là vào các thời điểm giao dịch cao điểm, số lượng hồ sơ giao dịch nhiều như cuối năm, cuối tháng khi đó màn hình giao dịch DVCTT bị treo hay hoạt động được nhưng xử lý rất chậm.

Xuất phát từ thực tế triển khai tại địa phương, KBNN Long An đề xuất một số giải pháp để triển khai DVCTT hiệu quả trong thời gian tới:

Tiếp tục đẩy mạnh tuyên truyền bằng nhiều hình thức, qua tất cả các kênh truyền thông để các đơn vị sử dụng ngân sách, chủ đầu tư, ban quản lý dự án trên địa bàn tỉnh Long An thấy được tầm quan trọng, lợi ích, hiệu quả DVCTT trong giao dịch hành chính công; hiểu điện tử hóa hoạt động hành chính công nói chung và hoạt động giao dịch KBNN nói riêng là một xu thế tất yếu, bắt buộc phải thực hiện để xây dựng Chính phủ điện tử;

Kiến nghị KBNN tiếp tục nâng cấp tốc độ xử lý, ổn định đường truyền cũng như nâng cấp giao diện sử dụng hệ thống DVCTT có tính thân thiện với người sử dụng hơn nữa, có các chức năng sắp xếp hồ sơ tiếp nhận theo từng đơn vị sử dụng NSNN và từng công chức kiểm soát chi chuyên quản tạo thuận lợi cho công tác phê duyệt chứng từ để hồ sơ, chứng từ chi NSNN của đơn vị sử dụng NSNN qua cổng DVCTT trong thời gian tới trên hệ thống mạng được nhanh chóng kịp thời và thuận tiện hơn. Qua đó, tạo được niềm tin của người dùng trong hệ thống KBNN và khách hàng giao dịch sử dụng hệ thống.

KBNN sớm ban hành mới quy trình nghiệp vụ lưu trữ chứng từ, hồ sơ trong thanh toán của bộ phận Kiểm soát chi sau khi thực hiện triển khai hệ thống DVCTT trên diện rộng.

Một hệ thống có hiện đại đến đâu thì cũng không thể thiếu con người vận hành, khai thác. Mỗi công chức cần chú trọng công tác tự đào tạo, tự nâng cao kỹ năng tin học, khai thác hệ thống DVCTT cho bản thân đồng thời tuyên truyền đến các đơn vị sử dụng NSNN tham gia hiệu quả vào hệ thống DVCTT KBNN.

Hiệu quả thực sự của hệ thống DVCTT được đánh giá qua nhận xét từ những người sử dụng trực tiếp của hệ thống. Những yếu tố như: Giao diện sử dụng thân thiện, tốc độ xử lý nhanh chóng, quy trình triển khai được thuận tiện mang đến cho khách hàng là yếu tố quyết định. Trong thời gian qua còn tồn tại một số điểm chưa hài lòng cần được cải tiến, khắc phục như: Việc sắp xếp, phân loại hồ sơ chứng từ để kiểm soát của lãnh đạo KBNN còn chưa thật sự thuận lợi, chương trình còn có những thời điểm bị treo, chậm gây khó chịu cho người sử dụng…

Cần nâng cấp đường truyền và hệ thống DVCTT tốt hơn. Đây là yếu tố quyết định giúp cho việc triển khai DVCTT của KBNN thành công trên phạm vi cả nước.

TÀI LIỆU THAM KHẢO:

1. Quyết định số 4377/QĐ-KBNN ngày 15/09/2017 của KBNN về việc ban hành quy trình nghiệp vụ thống nhất đầu mối kiểm soát các khoản chi NSNN qua KBNN;

2. Quyết định số 858/QĐ-KBNN ngày 15/10/2014 của KBNN về việc ban hành Quy chế bảo quản, lưu trữ và tiêu huỷ tài liệu kế toán của hệ thống KBNN trong điều kiện vận hành TABMIS;

3. Nghị định số 11/2020/NĐ-CP ngày 20/01/2020 của Chính phủ quy định về thủ tục hành chính trong linh vực KBNN.

ThS.NGUYỄN NGỌC HÙNG CƯỜNG

Phát Triển Ngành Dịch Vụ: Cần Định Hướng Đúng, Giải Pháp Phù Hợp

(Báo Quảng Ngãi)- Ngành dịch vụ chịu ảnh hưởng nặng nề nhất khi xảy ra đại dịch Covid-19. Nguyên nhân chính là do khách quan, nhưng vẫn có yếu tố chủ quan là khả năng thích ứng còn hạn chế. Trong giai đoạn mới, Quảng Ngãi đặt mục tiêu nâng cao chất lượng dịch vụ gắn với những định hướng đúng để có thể phát triển nhanh và bền vững.

Trong 5 năm qua, giá trị sản xuất ngành dịch vụ tăng bình quân 7,28%/năm. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng đến năm 2020 ước đạt khoảng 60.000 tỷ đồng, tăng bình quân 10,3%/năm. Nhiều dịch vụ có mức tăng trưởng khá, như: Vận tải, bưu chính, viễn thông; tài chính, ngân hàng.  

Nhiều nhà đầu tư hiện đã triển khai dự án kinh doanh dịch vụ cảng biển tại cảng nước sâu Dung Quất. Ảnh: PV

Đặc biệt là dịch vụ phân phối, thương mại phát triển mạnh; hệ thống chợ truyền thống được đầu tư, nâng cấp. Một số siêu thị, trung tâm thương mại hiện đại được đầu tư, đi vào hoạt động, đáp ứng tốt hơn nhu cầu của người tiêu dùng. Dịch vụ cảng biển bước đầu đáp ứng nhu cầu phát triển công nghiệp của tỉnh. Tuy nhiên, tỉnh cũng thừa nhận rằng dịch vụ phát triển chưa tương xứng với tiềm năng; quy hoạch chưa đồng bộ, thiếu liên kết. Dịch vụ vận tải biển chưa hiện đại, sức cạnh tranh hàng hóa qua cảng thấp.

Giai đoạn 2020 – 2025, Quảng Ngãi đặt mục tiêu giá trị sản xuất ngành dịch vụ tăng bình quân 7,5%/năm; đến năm 2025, tỷ trọng khu vực dịch vụ chiếm khoảng 29 – 30% GRDP. Theo đó, tỉnh sẽ tập trung phát triển đa dạng các ngành dịch vụ, nhất là những ngành có hàm lượng tri thức, công nghệ, giá trị gia tăng cao. Tiếp tục tạo môi trường đầu tư thật sự thông thoáng, hấp dẫn để khuyến khích, thu hút đầu tư, phát triển nhanh các ngành dịch vụ. Hình thành và phát triển dịch vụ logistics trên cơ sở phát huy lợi thế của cảng biển nước sâu Dung Quất. Phát triển mạnh dịch vụ thông tin và truyền thông; mở rộng phát triển dịch vụ phân phối; đầu tư phát triển mới các trung tâm thương mại, cửa hàng tiện lợi, siêu thị mini ở các khu đô thị. Hiện đại hóa và mở rộng dịch vụ tài chính, ngân hàng, bảo hiểm và hỗ trợ kinh doanh.

 

Phó trưởng Ban Quản lý KKT Dung Quất và các KCN tỉnh Đàm Minh Lễ: “Tập trung thu hút đầu tư phát triển dịch vụ cảng biển, logistics”

Giai đoạn 2016 – 2020, thu hút đầu tư của KKT Dung Quất và các KCN Quảng Ngãi dự kiến khoảng 6,6 tỷ USD, đạt 184% so với chỉ tiêu được giao. Trong đó, thu hút nhiều dự án thuộc lĩnh vực dịch vụ, đặc biệt là khai thác cảng tối đa công suất, hiệu quả cao, góp phần tạo ra sự phát triển vượt bậc của KKT Dung Quất. Giai đoạn 2021 – 2025, KKT Dung Quất và các KCN Quảng Ngãi khuyến khích đầu tư vào các lĩnh vực, trong đó có dịch vụ cảng biển, logistics.

Theo đó, tỉnh sẽ rà soát quy hoạch chi tiết cảng Dung Quất, xây dựng và tổ chức khai thác đồng bộ các cảng biển tổng hợp, cảng chuyên dùng gắn với các dịch vụ hỗ trợ; đầu tư xây dựng, hình thành tuyến container trung chuyển quốc tế tại KKT Dung Quất. Quy hoạch các ngành dịch vụ vận tải biển; phát triển mạnh các ngành dịch vụ biển gắn với cảng biển nước sâu Dung Quất như: Đại lý tàu biển, hoa tiêu, lai dắt; vận tải hàng hóa, dịch vụ cung cấp vật tư, thiết bị hàng hải, thông tin liên lạc trên biển… Đồng thời, quy hoạch một quỹ đất thích hợp gần cảng Dung Quất để xây dựng trung tâm phân phối hàng hóa, dịch vụ hậu cần cảng, đảm bảo thuận lợi nhất và kết nối thuận tiện với mạng lưới giao thông quốc gia; kêu gọi các nhà đầu tư có tiềm lực để thực hiện đầu tư đồng bộ nhằm xây dựng trung tâm logistics hiện đại tại KKT Dung Quất, đáp ứng yêu cầu phát triển của Quảng Ngãi và Vùng kinh tế trọng điểm miền Trung.

 

Phó Giám đốc Sở GTVT Võ Phiến: “Đa dạng loại hình, nâng cao chất lượng dịch vụ vận tải”

Những năm gần đây, dịch vụ vận tải phát triển nhanh; bình quân doanh thu tăng 14,5%/năm, lượng khách tăng11,1%/năm, lượng hàng hóa vận chuyển tăng 12,3%/năm. Các tuyến xe buýt được mở đến tất cả các huyện, thị xã. Các phương thức vận tải tăng nhanh về số lượng, nhất là vận tải đường bộ. Phương tiện vận tải gia tăng đột biến, hiện toàn tỉnh có đến gần 20.000 xe ô tô con, gần 1.000 xe khách, hơn 12.500 xe tải; tàu thủy vận tải hành khách nội địa 24 chiếc… Doanh thu từ dịch vụ vận tải hành khách rất lớn, giải quyết lao động cho hàng ngàn lao động tại địa phương. Tuy nhiên, từng lúc, từng nơi, hoạt động của loại hình dịch vụ này vẫn chưa đáp ứng yêu cầu của nhân dân, chưa khai thác hết tiềm năng.

Hiện nay, ngành GTVT đang tập trung xây dựng phương hướng phát triển ngành dịch vụ, theo hướng chất lượng, cạnh tranh, tiện ích. Ngành sẽ tạo điều kiện tối đa cho tổ chức, cá nhân, doanh nghiệp tham gia kinh doanh dịch vụ, nâng cao chất lượng cả giao thông đường bộ, đường thủy, đường sắt; tham mưu cho tỉnh về xây dựng cơ chế, chính sách phù hợp, đảm bảo phát triển đúng định hướng, gia tăng giá trị cho người kinh doanh, song cũng mang lại tiện ích, an toàn thực sự cho người dân. Qua đại dịch Covid-19, dịch vụ vận tải đã bị ảnh hưởng khá nặng nề, khả năng khôi phục phải mất một thời gian dài, rất cần được tỉnh có cơ chế, chính sách quan tâm hỗ trợ.

 

Bí thư Huyện ủy Ba Tơ Đinh Ngọc Vỹ: “Phát triển dịch vụ phù hợp với tiềm năng, lợi thế”

Là huyện miền núi, nhưng là cửa ngõ kết nối với Tây Nguyên, nên Ba Tơ có những lợi thế nhất định so với các huyện miền núi khác. Nhiều năm qua, Ba Tơ cũng rất quan tâm đến phát triển dịch vụ, bước đầu hình thành một số trung tâm dịch vụ, thương mại. Tuy nhiên, sự phát triển cũng còn nhiều hạn chế, chưa tương xứng với tiềm năng, thế mạnh.

Trong chiến lược phát triển những năm tiếp theo, Ba Tơ tiếp tục xác định chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng giảm tỷ trọng nông nghiệp, tăng dần tỷ trọng công nghiệp, thương mại và dịch vụ. Theo đó, huyện đang tập trung xây dựng hạ tầng, đặc biệt là chỉnh trang đô thị, từng bước thu hút đầu tư lĩnh vực dịch vụ. Huyện sẽ có chính sách ưu đãi trong thu hút đầu tư vào lĩnh vực này, đảm bảo hài hòa lợi ích nhiều phía.

Quyền Chủ tịch UBND huyện Sơn Tây Đinh Quang Ven: “Đầu tư đồng bộ để thúc đẩy dịch vụ phát triển”

Nhiều năm nay, Sơn Tây luôn đặt ra mục tiêu từng bước phát triển dịch vụ, nhưng thực tế kết quả đạt được không cao. Nguyên nhân chính là do địa hình phức tạp, sông suối, đồi núi chia cắt trong khi kết nối với các tỉnh, khu vực lân cận chưa thuận lợi. Dịch vụ hiện tại ở Sơn Tây chủ yếu là dịch vụ thương mại, buôn bán, trao đổi hàng hóa giữa khu vực đồng bằng với huyện và ngược lại. Còn kết nối giao thương với các tỉnh lân cận như Quảng Nam, Kon Tum thì chưa, vì giao thông còn hạn chế. Dịch vụ vận tải cũng có gia tăng trong thời gian gần đây, song chủ yếu là phục vụ nhu cầu đi lại của nhân dân theo hình thức vận tải công cộng bằng xe buýt, mỗi ngày 4 lượt. Do địa hình hiểm trở, các loại hình dịch vụ vận tải khác cũng hầu như không hoạt động.

Định hướng phát triển dịch vụ của Sơn Tây trong những năm đến vẫn tập trung chủ yếu là dịch vụ thương mại và vận tải. Theo đó, huyện sẽ tập trung quy hoạch lại khu trung tâm huyện, đảm bảo thuận lợi cho trao đổi hàng hóa. Kêu gọi, tạo điều kiện thuận lợi cho tư nhân đầu tư thêm phương tiện để phát triển dịch vụ vận tải, kể cả vận tải hàng hóa. Muốn dịch vụ phát triển, Sơn Tây cần được quan tâm đầu tư phát triển đồng bộ về văn hóa, du lịch, tạo điểm nhấn, để thu hút khách tham quan, qua đó tạo đà phát triển các lĩnh vực dịch vụ ăn uống, vận tải, giải trí…

     

Thanh Nhị  

(thực hiện)

Bạn đang đọc nội dung bài viết Đẩy Mạnh Phát Triển Ngành Dịch Vụ trên website Photomarathonasia.com. Hy vọng một phần nào đó những thông tin mà chúng tôi đã cung cấp là rất hữu ích với bạn. Nếu nội dung bài viết hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!