Đề Xuất 3/2023 # Đánh Giá Mô Hình, Thực Trạng Hoạt Động Của Các Ban Quản Lý Rừng # Top 12 Like | Photomarathonasia.com

Đề Xuất 3/2023 # Đánh Giá Mô Hình, Thực Trạng Hoạt Động Của Các Ban Quản Lý Rừng # Top 12 Like

Cập nhật nội dung chi tiết về Đánh Giá Mô Hình, Thực Trạng Hoạt Động Của Các Ban Quản Lý Rừng mới nhất trên website Photomarathonasia.com. Hy vọng thông tin trong bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu ngoài mong đợi của bạn, chúng tôi sẽ làm việc thường xuyên để cập nhật nội dung mới nhằm giúp bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.

BHG – Chiều 3.5, tại Sở Nông nghiệp và PTNT, UBND tỉnh tổ chức Hội nghị đánh giá mô hình hoạt động và thực trạng công tác quản lý, bảo vệ rừng (BVR) của các ban quản lý rừng (BQLR) trên địa bàn tỉnh. Đồng chí Nguyễn Minh Tiến, Ủy viên BTV Tỉnh ủy, Phó Chủ tịch Thường trực UBND tỉnh chủ trì hội nghị. Dự hội nghị có lãnh đạo Ban Tổ chức – Nội vụ tỉnh, Sở Nông nghiệp và PTNT, Thường trực UBND các huyện, thành phố; lãnh đạo các BQLR trên địa bàn tỉnh…

Phó Chủ tịch Thường trực UBND tỉnh Nguyễn Minh Tiến kết luận hội nghị.

Hiện nay, trên địa bàn tỉnh có 4 BQLR đặc dụng, trực thuộc Sở Nông nghiệp và PTNT, 4 BQLR phòng hộ trực thuộc UBND các huyện, hoạt động theo hình thức đơn vị sự nghiệp công lập; 7 Ban quản lý Dự án Bảo vệ và Phát triển rừng, trực thuộc UBND các huyện. Ngoài ra, có 4 Ban quản lý Dự án Bảo vệ và phát triển rừng do các BQLR phòng hộ kiêm nhiệm. Riêng khu rừng Đặc dụng Chí Sán chưa thành lập Ban quản lý nên trực thuộc quản lý của Ban quản lý Dự án Bảo vệ và phát triển rừng huyện Mèo Vạc. Đối với công tác quản lý, BVR, các BQLR đặc dụng được quy hoạch tổng diện tích đất gần 54,6 nghìn ha, các BQLR phòng hộ là 42,2 nghìn ha và 7 Ban quản lý Dự án Bảo vệ và phát triển rừng được quy hoạch trên 285,3 nghìn ha. Từ năm 2016 đến nay, các BQLR đã nhận hỗ trợ gần 302,2 tỷ đồng thực hiện công tác giao khoán khoanh nuôi, bảo vệ, trồng, chăm sóc rừng. Tuy nhiên hiện nay, các BQLR cơ bản chưa được giao đất hoặc giao rừng dẫn đến khó khăn trong công tác quản lý, BVR. Mặt khác, trên cùng địa bàn có đến 2 hoặc 3 bộ máy cùng thực hiện công tác quản lý, BVR dẫn đến chồng chéo, thiếu đồng nhất một số chức năng, nhiệm vụ…

Chuyển giao các hạt kiểm lâm của BQLR đặc dụng về hạt kiểm lâm huyện quản lý. Cùng với đó, rà soát chức năng quản lý của hạt kiểm lâm, điều chỉnh, bổ sung nhiệm vụ theo chuyên ngành quản lý, bảo vệ các khu rừng đặc dụng theo quy định của pháp luật. Mặt khác, đề xuất sáp nhập các BQLR phòng hộ, Ban quản lý Dự án BV&PTR của các huyện về phòng nông nghiệp và PTNT quản lý. Đồng thời, cơ quan chuyên môn hoàn thiện quy chế phối hợp quản lý, BVR giữa phòng nông nghiệp và PTNT các huyện với hạt kiểm lâm theo phương thức 1 đầu mối quản lý thống nhất trên địa bàn là phòng nông nghiệp và PTNT…

Mô Hình Quản Lý Theo Chiều Ngang: Mô Hình Tổ Chức Đối Với Hoạt Động Kinh Doanh Quốc Tế

Mô hình quản lý theo chiều ngang là cách một doanh nghiệp thiết kế cơ cấu tổ chức của mình để đồng thời thực hiện 3 chức năng: thực hiện nhiệm vụ của tổ chức; chia nhỏ các công việc theo vị trí làm việc, phòng, ban, bộ phận, công ty con để triển khai thực hiện; và thiết kế mối quan hệ quản lý để đảm bảo công việc thực hiện theo cách phù hợp với chiến lược của doanh nghiệp. Có nhiều cách khác nhau để doanh nghiệp tổ chức và thực hiện các hoạt động kinh doanh quốc tế trên cơ sở chức năng, mô hình doanh nghiệp, khu vực địa lý hoặc kết hợp cả ba nội dung đó. Tuy nhiên, thông thường, các công ty đa quốc gia sử dụng 5 mô hình để tổ chức các hoạt động kinh doanh của mình: mô hình theo chức năng, mô hình theo bộ phận và mô hình ma trận.

Mô hình theo chức năng (functional structure): mô hình theo chức năng là cách thức tổ chức công việc của doanh nghiệp khi sản phẩm của doanh nghiệp có cùng công nghệ và các áp lực cạnh tranh phải theo đuổi chiến lược toàn cầu. Mô hình chức năng cho phép doanh nghiệp tối đa hóa được lợi ích theo quy mô thông qua việc sắp xếp trách nhiệm công việc và các thiết kế hiệu quả nhất các quan hệ quản lý trong doanh nghiệp. Vì vậy, mô hình này cho phép thành lập các bộ phận riêng biệt tập hợp nhân sự theo chức năng truyền thống của doanh nghiệp nhưng ở các khu vực địa lý khác nhau, tại đó nhân viên sản xuất làm việc với nhân viên sản xuất, nhân viên bán hàng làm việc với nhân viên bán hàng, nhân viên tài chính làm việc với nhân viên tài chính, v.v (Xem Hình 4.7).

Mô hình theo chức năng thường được các doanh nghiệp có dải hàng hóa hẹp trong đó phương pháp sản xuất và marketing thường không khác nhau nhiều, và thị trường không thường xuyên thay đổi nhiều. Ví dụ, những công ty khai thác dầu hay khoáng sản như Total hay British Petroleum thường sử dụng mô hình tổ chức này.

Tuy nhiên, nhược điểm của mô hình này là doanh nghiệp không thể thích nghi kịp theo các thay đổi của thị trường đòi hỏi có sự phối hợp giữa nhiều chức năng. Mô hình theo chức năng thường khó xây dựng được mối quan hệ hiệu quả giữa việc sáng tạo tri thức với việc ra quyết định nhằm tạo điều kiện cho chức năng marketing phối hợp được với chức năng sản xuất và chức năng tài chính. Cơ chế quản lý theo chiều dọc của mô hình theo chức năng là một chuỗi dài mệnh lệnh trải ở nhiều cấp, khiến cho việc ra quyết định phải dịch chuyển chậm vì thông tin phải trải rộng tới hầu khắp các cấp bậc cần xử lý thông tin.

Mô hình theo bộ phận (division structure): Trong khi mô hình theo chức năng được sử dụng tại các doanh nghiệp chủ yếu gắn với nguyên liệu đầu vào thì mô hình theo bộ phận được sử dụng gắn với sản phẩm đầu ra. Mỗi bộ phận trong doanh nghiệp được giao trách nhiệm quản lý một tập hợp hàng hóa khác nhau hoặc tập hợp những thị trường khác nhau. Trên lý thuyết, một công ty đa quốc gia có thể có bộ phận phụ trách quốc tế, hoặc có bộ phận phụ trách sản phẩm trên toàn cầu hoặc bộ phận phụ trách khu vực địa lý trên toàn cầu.

Mô hình bộ phận quốc tế (international division structure): Tập hợp nhóm các hoạt động kinh doanh quốc tế lại vào một bộ phận, một ban để những nhân sự phụ trách chuyên môn về quốc tế giải quyết những vấn đề khác nhau như hồ sơ xuất khẩu, giao dịch ngoại hối, quan hệ với chính phủ nước ngoài … ( Xem Hình 4.8.). Mô hình này có khả năng thích nghi nhanh với những thay đổi của môi trường, cho phép doanh nghiệp hoạt động trên nhiều thị trường khác nhau. Mô hình này cũng hạn chế những lãng phí lặp đi lặp lại trong các hoạt động ở nhiều nơi trong tổ chức.

Bộ phận phụ trách kinh doanh nội địa thường được đánh giá dựa trên hoạt động của bộ phận mình. Do vậy, các bộ phận này thường duy trì và giữ lại sản phẩm, nhân lực, công nghệ và các nguồn lực, không khuyến khích tham gia vào hoạt động quốc tế để thúc đẩy kết quả hoạt động của mình. Một bộ phận quốc tế hoặc phòng, ban phụ trách quốc tế có thể giải quyết được xu hướng trên nếu doanh nghiệp trang bị cho bộ phận này nhân lực để khai thác được năng lực của toàn hệ thống.

Các doanh nghiệp sử dụng mô hình này để khai thác lợi ích theo quy mô thị trường. Qua việc phân chia bộ phận phụ trách thị trường nội địa, thị trường quốc tế, các doanh nghiệp thực hiện tốt và phù hợp với việc theo đuổi chiến lược đa quốc gia, trong đó không phải chịu nhiều sức ép phải hội nhập và tiêu chuẩn hóa giữa thị trường trong nước và thị trường nước ngoài. Thêm vào đó, giám đốc phụ trách thị trường quốc tế có thể sử dụng các cách thức như chia sẻ kho vận hay cách thức lập dự toán để thực hiện phối hợp một số nhất định các quy trình sản xuất hoặc quản lý trong toàn hệ thống của doanh nghiệp. Mô hình tổ chức này thường được các công ty đa quốc gia của Châu Âu sử dụng do tính phụ thuộc tương đối vào thị trường nội địa của các công ty này.

Mô hình bộ phận phụ trách sản phẩm (product division structure): Mô hình phụ trách sản phẩm là một trong những mô hình phổ biến nhất tại các doanh nghiệp kinh doanh quốc tế hiện nay do hầu hết các doanh nghiệp này đều có dải hàng hóa đa dạng và khác biệt ( Xem Hình 4.9). Ví dụ, việc sáp nhập giữa công ty Moet Hennessy và Louis Vuitton đã tạo ra tập đoàn hàng hóa sang trọng lớn nhất thế giới, tập đoàn LVMH, trong đó những hãng nước hoa Christian Dior, đồng hồ Tag Heuer, đồ túi xách Louis Vuitton, rượu sâm panh Moet & Chandon là thuộc trong các thương hiệu hàng hóa của tập đoàn. Việc không có sự tương đồng giữa nhiều dòng sản phẩm đã dẫn tới việc tập đoàn LVMH chia nhỏ thành 5 bộ phận, mỗi bộ phận tập trung vào một phân đoạn thị trường riêng biệt trên quy mô toàn cầu, đó là: rượu và đồ uống có cồn, thời trang và đồ da thuộc, nước hoa và mỹ phẩm, đồng hồ và trang sức, và hàng bán lẻ khác. Mặc dù có sự lắp lẫn, trùng lặp ở các thị trường cụ thể, các kênh phân phối, các chuỗi cung ứng nhưng các bộ phận này đều tương đối độc lập.

Tương tự như mô hình theo chức năng, mô hình phụ trách sản phẩm được thiết kế phù hợp với chiến lược toàn cầu do hoạt động ở thị trường nội địa và thị trường nước ngoài đối với cùng một sản phẩm được một bộ phận phụ trách sản phẩm chịu trách nhiệm. Bộ phận này có thể kết hợp tương ứng và kinh nghiệm, tri thức giữa hai thị trường (ví dụ như chia sẻ thông tin về thành công hoặc thất bại trên các thị trường khác nhau với nhau).

Thêm vào đó, mô hình phụ trách sản phẩm tăng cường năng lực bán hàng hoặc tung sản phẩm mới hoặc dừng bán một dòng sản phẩm nhất định vì các dòng sản phẩm là không có liên hệ với nhau. Tất nhiên, sẽ có các chức năng hoặc hoạt động bị lặp đi lặp lại giữa các bộ phận phụ trách sản phẩm và cũng khó có cơ hội hay cách nào mà một bộ phận phụ trách sản phẩm này có thể học tập được kinh nghiệm quốc tế từ một bộ phận phụ trách sản phẩm khác.

Các công ty con khác nhau của các bộ phận phụ trách sản phẩm khác nhau hoạt động ở cùng một quốc gia ở nước ngoài sẽ báo cáo về cho các ban và bộ phận khác nhau tại trụ sở chính. Ví dụ, Hình 4.9 mô tả công ty điện và công ty thang máy ở Bỉ sẽ báo cáo về hai bộ phận khác nhau của công ty, vì vậy, sự kết hợp nguồn lực trong một nước có thể không được khai khác nếu các công ty con không liên hệ với nhau và tới cùng một bộ phận phụ trách. Tương tự, có trường hợp, có công ty con tại tập đoàn Westinghouse phải vay vốn với lãi suất cao tại thị trường địa phương trong khi đó một công ty con khác lại đang dư thừa tiền mặt.

Mô hình bộ phận phụ trách khu vực địa lý (geographic area division structure): Các doanh nghiệp thường sử dụng mô hình phụ trách theo khu vực địa lý ( Xem Hình 4.10) để vận hành tổ chức của mình khi các doanh nghiệp có hoạt động vận hành ở nước ngoài với quy mô lớn mà tập trung vào một nước hay một vùng cụ thể, bao gồm cả nước chủ nhà. Mô hình này cũng phổ biến đối với các công ty đa quốc gia của Châu Âu do các công ty này thường không có một thị trường nội địa có quy mô lớn. Mô hình này thường phù hợp trong trường hợp doanh nghiệp có được lợi ích từ quy mô sản xuất trên phạm vi khu vực, không phải trên phạm vi toàn cầu do quy mô thị trường hoặc công nghệ sản xuất đặc thù của ngành. Thông thường, mô hình này được các doanh nghiệp theo đuổi chiến lược đa quốc gia sử dụng do mô hình này dành quyền quản lý phân cấp cho các công ty ở từng nước điều chỉnh thích nghi hơn với các điều kiện của thị trường địa phương.

Hạn chế của mô hình này là khả năng lắp lẫn công việc trong mỗi khu vực do các công ty con có các hoạt động tạo giá trị giống nhau ở những địa điểm khác nhau chứ không tập trung vào địa điểm hiệu quả nhất. Ví dụ, hãng Neslé có hơn 500 nhà máy ở gần 90 nước để bán khoảng 8.000 nhãn hàng hóa tới hầu hết các nước trên thế giới. Do vậy, trụ sở tại Thụy Sĩ đã đau đầu để quyết định xem chi phí nguyên liệu đầu vào của các công ty con mua từ các nhà cung cấp trên khắp thế giới. Và có những trường hợp, mỗi nhà máy trong số 40 nhà máy của Nestlé tại Hoa Kỳ đã tiến hành mua nguyên liệu một cách độc lập. Việc thiếu sự phối hợp này đã dẫn tới hiện tượng các nhà máy của doanh nghiệp tại Hoa Kỳ phải thanh toán tới 20 mức giá khác nhau đối với sản phẩm vanilla cho cùng một nhà cung cấp.

Mô hình ma trận (matrix structure): Các doanh nghiệp kinh doanh quốc tế theo đuổi chiến lược xuyên quốc gia tại đó đáp ứng cả hai yêu cầu đó là hội nhập, toàn cầu hóa và thích nghi địa phương. Để thực hiện chiến lược này, các doanh nghiệp thường thiết kế tổ chức của mình theo mô hình ma trận để cho phép tận dụng được ưu điểm của mô hình theo chức năng và mô hình theo bộ phận (Xem Hình 4.11). Mô hình ma trận về mặt lý thuyết cho phép một doanh nghiệp kinh doanh quốc tế còn hạn chế được những nhược điểm của hai mô hình kể trên.

Mô hình ma trận thường xác định rõ một công ty con phải báo cáo tới hơn một bộ phận phụ trách bao gồm cả về chức năng, sản phẩm hoặc địa lý. Giả định cơ bản ở đây là mỗi nhóm phải chia sẻ trách nhiệm về hoạt động vận hành ở nước ngoài sẽ khuyến khích việc mỗi nhóm trao đổi thông tin và nguồn lực một cách tự nguyện hơn. Ví dụ, các bộ phận phụ trách sản phẩm phải cạnh tranh với nhau để đảm bảo rằng bộ phận R&D được liên kết với nhóm chức năng như sản xuất, phát triển công nghệ đối với sản phẩm của họ. Các bộ phận phụ trách sản phẩm sẽ phải cạnh tranh để đảm bảo rằng các đối tác ở các khu vực địa lý khác nhau sẽ chú ý và đầu tư quan tâm thỏa đáng đến dòng sản phẩm của mình.

Các bộ phận phụ trách sản phẩm, phụ trách chức năng và khu vực địa lý phải cùng cạnh tranh với nhau để có được nguồn lực mà những bộ phận khác đang nắm giữ trong ma trận. Ví dụ, số lượng các nguồn lực cần thiết để phát triển sản phẩm dệt ở Mexico phụ thuộc một phần vào cạnh tranh giữa nhóm Châu Âu và Châu Mỹ La tinh và một phần phụ tuộc vào cạnh tranh nguồn lực giữa nhóm sản phẩm dệt và sản phẩm nông sản. Do vậy, mô hình ma trận là sự nhân nhượng hữu ích khi các bộ phận gặp khó khăn trong việc liên kết hay phân tách các hoạt động ở nước ngoài.

Công ty Dow Chemical thực hiện theo mô hình ma trận cho rằng “chúng tôi theo mô hình ma trận và phụ thuộc vào tinh thần hợp tác, ở đó không có ai chịu trách nhiệm cả. Khi mọi thứ ok, chúng tôi không biết ai để khen thưởng và khi một thứ tồi tệ, chúng tôi không biết ai để phê bình„. Việc giả định nhầm ai đó chịu trách nhiệm đã khiến cho nhiều công ty lại phải quay lại mô hình phân định vai trò và chức năng của các bộ phận.

mô hình tổ chức theo sản phẩm của công ty nestle

phân biệt một số mô hình tổ chức cơ bản

phân loại nhà quản trị theo chiều ngang ví dụ

vd cấu trúc tổ chức theo chiều ngang

,

Nguyên Lý Hoạt Động Của Biến Mô Thủy Lực

Nếu bạn từng tìm hiểu về hộp số thường, bạn biết rằng một động cơ được nối với một số bằng một ly hợp. Nếu không có kết nối này, chiếc xe sẽ không thể hoàn toàn dừng lại mà không phá hỏng động cơ. Tuy nhiên với xe trang bị hộp số tự động, không có li hợp để ngắt động cơ và hộp số. Thay vào đó, người ta sử dụng một thiết bị gọi là biến mô thủy lực.Ở bài này, chúng ta sẽ tìm hiểu tại sao một hộp số tự động cần một biến mô, hoạt động và những tiện lợi của một biến mô thủy lực.

Bộ biến mô vừa truyền vừa khuyếch đại mô men từ động cơ vào hộp số (Bộ truyền bánh răng hành tinh) bằng việc sử dụng dầu hộp số tự động (ATF) như một môi chất.

Bộ biến mô gồm bánh bơm, bánh tuabin, khớp một chiều, stato và vỏ biến mô chứa tất cả các bộ phận đó. Bộ biến mô được điền đầy ATF do bơm dầu cung cấp. Động cơ quay và bánh bơm quay, và dầu bị đẩy ra từ bánh bơm thành một dòng mạnh làm quay bánh tua bin.

Bánh bơm được bố trí nằm trong vỏ bộ biến mô và nối với trục khuỷu qua đĩa dẫn động. Nhiều cánh hình cong được lắp bên trong bánh bơm. Một vòng dẫn hướng được lắp trên mép trong của các cánh để đường dẫn dòng dầu được êm.

Rất nhiều cánh được lắp lên bánh tuabin giống như trường hợp bánh bơm. Hướng cong của các cánh này ngược chiều với hướng cong của cánh của bánh bơm. Bánh tua bin được lắp trên trục sơ cấp của hộp số sao cho các cánh bên trong nó nằm đối diện với các cánh của bánh bơm với một khe hở rất nhỏ ở giữa.

Stato nằm giữa bánh bơm và bánh tua bin. Qua khớp một chiều nó được lắp trên trục stato và trục này được cố định trên vỏ hộp số. Dòng dầu trở về từ bánh tua bin vào bánh bơm theo hướng cản sự quay của bánh bơm. Do đó, stato đổi chiều của dòng dầu sao cho nó tác động lên phía sau của các cánh trên bánh bơm và bổ sung thêm lực đẩy cho bánh bơm do đó làm tăng mômen. Khớp một chiều cho phép Stato quay theo chiều quay của trục khuỷu động cơ. Tuy nhiên nếu Stato định bắt đầu quay theo chiều ngược lại thì khớp một chiều sẽ khoá stato để ngăn không cho nó quay.

Khi tốc độ của bánh bơm tăng thì lực li tâm làm cho dầu bắt đầu chảy từ tâm bánh bơm ra phía ngoài. Khi tốc độ bánh bơm tăng lên nữa thì dầu sẽ bị ép văng ra khỏi bánh bơm. Dầu va vào cánh của bánh tua bin làm cho bánh tua bin bắt đầu quay cùng chiều với bánh bơm. Dầu chảy vào trong dọc theo các cánh của bánh tua bin. Khi nó chui được vào bên trong bánh tua bin thì mặt cong trong của cánh sẽ đổi hướng dầu ngược lại về phía bánh bơm, và chu kỳ lại bắt đầu từ đầu. Việc truyền mô men được thực hiện nhờ sự tuần hoàn dầu qua bánh bơm và bánh tua bin.

Việc khuyếch đại mômen do bộ biến mô thực hiện bằng cách dẫn dầu khi nó vẫn còn năng lượng sau khi đã đi qua bánh tua bin trở về bánh bơm qua cánh của Stato. Nói cách khác, bánh bơm được quay do mô men từ động cơ mà mô men này lại được bổ sung dầu quay về từ bánh tua bin. Có thể nói rằng bánh bơm khuyếch đại mô men ban đầu để dẫn động bánh tua bin.

Khi động cơ chạy không tải thì mômen do động cơ sinh ra là nhỏ nhất. Nếu gài phanh (phanh tay và/hoặc phanh chân) thì tải trên bánh tuabin rất lớn vì nó không thể quay được. Tuy nhiên, do xe bị dừng nên tỷ số truyền tốc độ của bánh tuabin so với cánh bơm bằng không trong khi tỷ số truyền mô men ở trị số lớn nhất. Do đó, bánh tua bin luôn sẵn sàng để quay với một mômen lớn hơn mô men do động cơ sinh ra.

Khi nhả các phanh thì bánh tuabin có thể quay cùng với trục sơ cấp của hộp số. Do đó, bánh tuabin quay với một mômen lớn hơn mô men do động cơ sinh ra khi đạp bàn đạp ga. Như vậy xe bắt đầu chuyển động.

Khi tốc độ xe tăng lên, thì tốc độ quay của bánh tua bin sẽ nhanh chóng tiến gần tới tốc độ quay của bánh bơm. Vì vậy, tỷ số truyền mômen nhanh chóng tiến gần tới 1.0. Khi tỷ số truyền tốc độ giữa bánh tua-bin và bánh bơm đạt tới điểm li hợp thì stato bắt đầu quay. và sự khuyếch đại mô men giảm xuống. Nói cách khác, bộ biến mô bắt đầu hoạt động như một khớp nối thuỷ lực. Do đó, tốc độ xe tăng gần như theo tỷ lệ thuận với tốc độ động cơ.

Bộ biến mô chỉ hoạt động như một khớp nối thuỷ lực. Bánh tua bin quay ở tốc độ gần đúng tốc độ của bánh bơm.

Cơ cấu li hợp khoá biến mô truyền công suất động cơ tới hộp số tự động một cách trực tiếp và cơ học. Do bộ biến mô sử dụng dòng thuỷ lực để gián tiếp truyền công suất nên có sự tổn hao công suất. Vì vậy, li hợp được lắp trong bộ biến mô để nối trực tiếp động cơ với hộp số để giảm tổn thất công suất. Khi xe đạt được một tốc độ nhất định, thì cơ cấu li hợp khoá biến mô được sử dụng để nâng cao hiệu quả sử dụng công suất và nhiên liệu. Li hợp khoá biến mô được lắp trong moayơ của bánh tuabin, phía trước bánh tuabin. Lò xo giảm chấn sẽ hấp thụ lực xoắn khi ăn khớp li hợp để ngăn không cho sinh ra va đập. Một vật liệu ma sát (cùng dạng vật liệu sử dụng trong các phanh và đĩa li hợp) được gắn lên vỏ biến mô hoặc píttông khoá của bộ biến mô để ngăn sự trượt ở thời điểm ăn khớp li hợp.

Khi li hợp khoá biến mô được kích hoạt thì nó sẽ quay cùng với bánh bơm và bánh tua-bin. Việc ăn khớp và nhả li hợp khoá biến mô được xác định từ những thay đổi về hướng của dòng thuỷ lực trong bộ biến mô khi xe đạt được một tốc độ nhất định. Khi xe chạy ở tốc độ thấp thì dầu bị nén (áp suất của bộ biến mô) sẽ chảy vào phía trước của li hợp khoá biến mô. Do đó, áp suất trên mặt trước và mặt sau của li hợp khoá biến mô trở nên cân bằng và do đó li hợp khoá biến mô được được nhả khớp. Khi xe chạy ổn định ở tốc độ trung bình hoặc cao (thường trên 60 km/h) thì dầu bị nén sẽ chảy vào phía sau của li hợp khoá biến mô. Do đó, vỏ bộ biến mô và li hợp khoá biến mô sẽ trực tiếp nối với nhau. Do đó, li hợp khoá biến và vỏ bộ biến mô sẽ quay cùng nhau (ví dụ, li hợp khoá biến được đã được ăn khớp).

Tại sao những chiếc xe có hộp số tự động lại cần phải có một bộ chuyển đổi momen, chúng hoạt động như thế nào và ưu điểm cũng như nhược điểm của chúng là gì?

1. Nguyên lý cơ bản

Cũng giống như những chiếc xe dùng hộp số cơ, những chiếc sử dụng hộp số tự động cần phải có cách để cho động cơ vẫn quay trong khi những chiếc bánh xe và bánh răng trong hộp số chuyển động tới vị trí dừng. Những chiếc xe có hộp số cơ dùng một khớp ly hợp để tách hoàn toàn động cơ ra khỏi hộp số. Những chiếc xe có hộp số tự động dùng bộ chuyển đổi momen.

Bộ chuyển đổi momen là một loại khớp nối dầu, cho phép động cơ quay có phần độc lập với hộp số. Nếu động cơ đang ở vòng tua thấp, như khi xe đang ở chế độ không tải hoặc chuẩn bị dừng xe, lượng momen xoắn đi qua bộ chuyển đổi momen rất nhỏ, do đó, giữ cho xe đứng yên chỉ cần một áp lực nhẹ trên pê đan phanh.

Nếu bạn định dậm lên peđan ga khi chiếc xe đang dừng thì xe sẽ lập tức chuyển động về phía trước ngay, khi đó nếu muốn xe dừng xe thì chuyển chân từ bàn đạp ga sang vị trí bàn đạp phanh. Điều này có thể giải thích như sau: khi bạn dậm lên chân ga, máy tăng tốc và bơm thêm dầu vào bộ chuyển đổi momen, làm cho nhiều momen xoắn được truyền tới 4 bánh xe hơn.

2. Cấu tạo bộ chuyển đổi momen

Như hình vẽ bên dưới, cấu tạo của bộ chuyển đổi momen, ngoài hộp vỏ còn 4 phần chính như sau: Bơm , tuabin , stato , dầu hộp số

Hộp vỏ của bộ chuyển đổi momen được gắn với một bánh đà của động cơ, nó quay theo tốc độ động cơ. Các cạnh bên cấu thành bơm của bộ chuyển đổi momen được gắn liền với hộp vỏ, do đó, chúng cũng quay theo tốc độ quay của động cơ. Nhìn vào mặt cắt bên dưới, ta có thể thấy các bộ phận bên trong bộ chuyển đổi momen được nối với nhau như thế nào.

Bơm bên trong bộ chuyển đổi momen là một loại bơm li tâm. Khi nó quay, dầu văng ra bên ngoài, giống như vòng quay của một máy giặt làm văng nước và quần áo hướng ra bên ngoài thành máy giặt. Khi dầu văng ra phía ngoài, chân không được tạo ra để hút nhiều dầu vào giữa.

Sau đó, dầu đi vào các lá tuabin được nối với hộp số. Tuabin làm cho hộp số quay, đây chính là yếu tố cơ bản làm cho chiếc xe của bạn chuyển động. Bạn có thể thấy trong hình bên dưới các lá tuabin được uốn cong. Điều này có nghĩa là dầu đi vào tuabin từ bên ngoài và nó phải thay đổi hướng trước khi đi ra khỏi tâm tuabin. Chính sự thay đổi hướng này đã làm cho tuabin quay.

Để thay đổi hướng chuyển động của một vật, bạn phải tác động một lực lên vật đó – -Sẽ chẳng có gì khác nhau nếu vật đó là một chiếc ô tô hay một giọt dầu. Và bất kể bạn dùng cái gì để tác động một lực làm vật đó chuyển động bạn cũng sẽ cảm nhận được một lực nhưng theo chiều ngược lại. Do đó, khi tuabin làm cho dầu chuyển hướng thì ngược lại, dầu làm cho tuabin quay.

Dầu ra khỏi tuabin ở chính giữa tâm tuabin, chuyển động theo một hướng khác so với khi nó đi vào tuabin. Nếu nhìn vào mũi tên ở hình vẽ bên trên, bạn có thể thấy rằng dầu đi ra khỏi tuabin theo hướng chuyển động ngược với hướng quay của bơm (và động cơ). Nếu dầu đi đến bơm, nó sẽ làm cho động cơ quay chậm lại, gây hao phí công. Điều này lý giải vì sao bộ chuyển đổi momen cần có một stato.

Stato nằm ở chính giữa tâm của bộ chuyển đổi momen. Nhiệm vụ của nó là dẫn hướng cho dầu quay ngược trở lại từ tuabin trước khi nó chảy đến bơm một lần nữa. Việc này làm tăng hiệu suất của bộ chuyển đổi momen rất nhanh.

Khi chiếc xe bắt đầu chuyển động, sẽ xảy ra một số vấn đề nhỏ. Tại một thời điểm, khoảng 40 dặm/h (64 km/h), lúc này, cả bơm và tuabin đều quay với một vận tốc gần bằng nhau (bơm luôn quay nhanh hơn một chút). Và cũng tại thời điểm này, dầu quay trở lại từ tuabin, đi vào bơm, chuyển động cùng chiều với bơm, do đó, không cần đến stato.

Mặc dù tuabin làm thay đổi hướng chuyển động của dầu và làm cho nó văng ra phía sau, dầu vẫn dừng chuyển động theo hướng tuabin đang quay vì tuabin đang quay theo một hướng nhanh hơn dầu được bơm theo một hướng khác. Nếu bạn đang đứng sau một chiếc Pickup chuyển động với tốc độ 60 dặm/h, và bạn ném một quả bóng về đằng sau của chiếc Pickup đó với tốc độ 40 dặm/h, quả bóng vẫn sẽ chuyển động về phía trước với tốc độ 20 dặm/h. Điều này tương tự những gì diễn ra trong tuabin: Dầu bị văng ra phía sau theo một hướng, nhưng không nhanh bằng khi nó bắt đầu chuyển động theo chiều ngược lại.

Với các mức tốc độ như vậy, dầu sẽ đập vào các phần sau của các lá stato, làm cho stato quay tự do trên khớp ly hợp một chiều của nó, do đó, nó không gây cản trở cho dầu khi đi qua nó.

3. Ưu điểm và nhược điểm

Bên cạnh nhiệm vụ quan trọng là làm cho chiếc xe của bạn dừng hẳn lại mà không chết máy, bộ chuyển đổi momen tạo ra nhiều momen xoắn hơn cho chiếc xe trong những trường hợp cần dừng xe đột ngột (có tác dụng như phanh hãm). Các bộ chuyển đổi momen hiện đại có khả năng tăng momen xoắn cho động cơ gấp 2 hoặc 3 lần. Hiệu ứng này chỉ xảy ra khi động cơ quay nhanh hơn rất nhiều so với hộp số.

Ở tốc độ cao, lúc này hộp số và động cơ chuyển động với một vận tốc gần bằng nhau. Tuy nhiên, về mặt lý tưởng, hộp số cần chuyển động với tốc độ chính xác bằng tốc độ của động cơ vì vận tốc khác nhau sẽ gây hao phí công. Đây là một phần nguyên nhân vì sao những chiếc ô tô dùng hộp số tự động tiêu thụ nhiều nhiên liệu hơn những chiếc xe sử dụng hộp số cơ.

Theo thegioioto

Thực Trạng Cháy Rừng Ở Việt Nam, Vai Trò Của Các Hệ Sinh Thái Rừng

Rừng được coi là một phần cần thiết không thể thiếu của thế giới. Cây cối quang hợp sẽ sản sinh ra ô xy để nuôi dưỡng các sinh vật sông trên trái đất. Bất kể loài sinh vật nào sống trên trái đất này đều cần đến oxy,bởi oxy sẽ giúp duy trì sự sống.

Theo cơ quan khí tượng, bên cạnh nguyên nhân trực tiếp là áp thấp nóng phía tây kết hợp với gió Lào, nhiệt độ tăng cao thì hiện tượng cháy rừng còn là hệ quả của hiện tượng biến đổi khí hậu toàn cầu, cộng thêm việc 2012 là năm đổi pha, sau La Nina (pha lạnh) là El Nino (pha nóng).

Bên cạnh các khu rừng ven biển ở miền cực nam nằm trên các thảm than bùn, hay các vùng rừng Tây Nguyên với tập quán đốt rừng làm nương rẫy, vùng rừng núi phía Tây Bắc cũng là một khu vực bị thần lửa thường xuyên đe dọa. Trong mấy năm gần đây, rừng quốc gia Hoàng Liên thường xuyên bị cháy. Năm 2010, ít nhất 1.000 ha rừng Hoàng Liên bị thiêu rụi.

Như vậy, hiện trạng cháy rừng ở Việt Nam là không thể xem thường và phải tìm ra nguyên nhân và phương án xử lý kịp thời.

Nguyên nhân cháy rừng ở Việt Nam

Một trong những nguyên nhân cháy rừng hàng đầu là do sự thay đổi rõ rệt của khí hậu, trái đất nóng lên nhiệt độ cũng thay đổi thất thường theo. Biên độ nhiệt ngầy càng dao động mạnh lên và luôn giữ mức cao. Điều đó cho thấy nhiệt độ tại những nước nhiệt đới cao làm cho mùa hè khắc nghiệt hơn cháy rừng diễn ra phổ biến hơn.

Nền nhiệt độ luôn cao trên 40 độ C thì rất dễ dấn đến cháy rừng. Những khu rừng vào mùa hanh khô thường có dấu hiệu như là cây khô héo, cành cây, gốc cây trơ lại thường rất dễ bén lửa. Chỉ cần một chút lửa thôi nhưng do gió đưa đi làm cho cả cánh rừng mấy ha cũng có thể bị thiêu rụi trong vòng vài chục phút. Đây là nguyên nhân cháy rừng không thể bỏ qua.

Vai trò của rừng

Rừng như một sinh cảnh

Ví dụ, chim chích của Kirtland ( Dendroica kirtlandii ) là một loài chim có nguy cơ tuyệt chủng chỉ làm tổ trên cây thông (Pinus bankiana) ở một độ tuổi và mật độ cụ thể ở phía bắc Michigan. Loài chim biết hót này không sinh sản trong bất kỳ loại rừng nào khác, kể cả những cây thông nhỏ hơn hoặc già hơn. Tương tự, loài cú đốm nguy cấp ( Strixernidentalis ) chỉ xuất hiện ở một số loại rừng lá kim phát triển lâu đời ở phía tây Bắc Mỹ. Những khu rừng già này cũng duy trì các loài khác không thể tồn tại trên các khán đài trẻ hơn, ví dụ, một số loài địa y, rêu và gan.

Tuy nhiên, thông thường, nhiều loài xuất hiện trong rừng có khả năng chịu đựng sinh thái rộng hơn và trên thực tế chúng có thể thích nghi các loại môi trường sống khác nhau.

Rừng là tài nguyên

Gỗ: Gỗ là sản phẩm quan trọng nhất được khai thác từ rừng. Gỗ thường được sản xuất thành giấy, gỗ, ván ép và các sản phẩm khác. Ngoài ra, ở hầu hết các khu vực có rừng của củi thế giới kém phát triển là nguồn năng lượng quan trọng nhất được sử dụng để nấu ăn và các mục đích khác.

Các sản phẩm lâm nghiệp ngoài gỗ: bao gồm rộng rãi tất cả các thảm thực vật gỗ phi công nghiệp trong rừng và môi trường nông lâm kết hợp, hoặc có khả năng có giá trị thương mại. Các thuật ngữ khác đồng nghĩa với lâm sản không độc hại bao gồm lâm sản đặc biệt, lâm sản ngoài gỗ, lâm sản nhỏ, lâm sản thay thế và lâm sản thứ sinh.

Một số loại lâm sản không độc hại được thu thập ở Mỹ là nấm dại, quả mọng, dương xỉ, cành cây, nón, rêu, xi-rô cây thích, mật ong và các sản phẩm làm thuốc như vỏ cây cascara và nhân sâm. Lâm sản không phải là một phạm trù sinh học hay sinh thái; nó là một phạm trù chính trị và kinh tế phục vụ để làm nổi bật các tài nguyên rừng bị bỏ qua hoặc bị bỏ qua trong quản lý rừng như một nguồn thu nhập khả thi.

Rừng và giải trí

Bằng cách cung cấp một loạt các cơ hội giải trí ngoài trời, rừng khuyến khích mọi người sống theo lối sống năng động, lành mạnh. Rừng cũng cải thiện sức khỏe tinh thần và tinh thần thông qua liên kết với người khác và kết nối với thiên nhiên.

Các hoạt động giải trí trong rừng nuôi dưỡng sự đánh giá cao của mọi người về vai trò của rừng trong việc giữ gìn sức khỏe của hành tinh chúng ta.

Đầu tư vào rừng cho các cơ hội giải trí, chẳng hạn như du lịch, đi bộ đường dài và cắm trại, cũng cung cấp một sự thúc đẩy cho nền kinh tế địa phương và cảm giác tự hào về các cộng đồng xung quanh.

Vai trò của rừng trong biến đổi khí hậu

Hiện tại chúng đóng góp khoảng 1/6 lượng khí thải carbon toàn cầu, do sử dụng quá mức hoặc xuống cấp;

Rừng phản ứng nhạy cảm với khí hậu thay đổi;

Khi được quản lý bền vững, rừng sản xuất gỗ mộc như một sự thay thế lành tính cho nhiên liệu hóa thạch;

Và cuối cùng, chúng có khả năng hấp thụ khoảng một phần mười lượng khí thải carbon toàn cầu dự kiến ​​trong nửa đầu thế kỷ này vào sinh khối, đất và lưu trữ chúng – về nguyên tắc là vĩnh viễn.

Rừng ảnh hưởng đến biến đổi khí hậu phần lớn bằng cách ảnh hưởng đến lượng carbon dioxide trong khí quyển. Khi rừng phát triển, carbon được loại bỏ khỏi khí quyển và hấp thụ trong gỗ, lá và đất. Bởi vì các khu rừng (và đại dương) có thể hấp thụ và lưu trữ carbon trong một khoảng thời gian dài. Carbon này vẫn được lưu trữ trong hệ sinh thái rừng, nhưng có thể được thải vào khí quyển khi rừng bị đốt cháy. Định lượng vai trò đáng kể của rừng trong việc hấp thụ, lưu trữ và giải phóng carbon là chìa khóa để hiểu chu trình carbon toàn cầu và do đó biến đổi khí hậu.

Nhiều chức năng sinh thái của rừng

Khu rừng biến đá vô hồn thành một hệ sinh thái: Trải qua hàng ngàn năm, các loài thực vật và động vật của rừng tự thiết lập và xây dựng một lớp phủ xanh. Rừng mọc chậm. Một vùng đất mới được tiếp xúc trước tiên sẽ bị chiếm đóng bởi một vài loài cây rất khỏe và có thể sống trên đá trần. Dần dần các thực vật và động vật khác theo sau. Khu rừng bao phủ vùng đất ngày nay có thể hàng ngàn năm tuổi. Bạn có thể chặt một số cây và không làm tổn thương gì cả. Nhưng nếu bạn chặt quá nhiều cây cùng một lúc, bạn có thể phá hủy nó.

Rừng làm đất: Đất trên đất là tảng đá cũ nát xen lẫn với những thực vật chết trong rừng và nhiều động vật nhỏ, vi khuẩn và thực vật sống trong đất. Rừng làm hầu hết đất trên hành tinh. Khi đất vườn trở nên nghèo nàn, rừng phát triển trên khu vườn cũ và làm cho đất tốt trở lại.

Rừng bảo vệ đất: Nó giữ đất với rễ của nó. Nếu cây bị chặt hạ và không có cây nào phát triển, đất sẽ bị cứng và khô và không tốt cho rừng. Nếu mưa lớn đến và không có cây, đất sẽ bị bùn và rửa trôi, gây ô nhiễm dòng suối, sông và biển.

Khu rừng che chở những khu vườn: Khi gió mạnh và mưa to đến, cây cối bảo vệ khu vườn. Gió mạnh có thể làm tổn thương mùa màng và làm khô đất. Gần bờ biển, phun muối có thể gây độc cho đất hoặc gây hại cho cây trồng. Rừng cũng có thể bảo vệ nhà cửa và làng mạc khỏi gió mạnh.

Rừng giữ nước: Cây và đất họ làm đầy nước và họ trữ nước này trong thời gian không mưa. Rừng kiểm soát dòng nước trên đất. Khi mưa lớn, cây giúp giữ nước trong đất. Chúng giữ nước trong cành, thân, rễ và lá của chúng. Khi đất khô, nước từ rừng giữ cho đất xanh. Không có cây trong rừng, đất có thể nhanh chóng bị khô và hoa màu có thể chết.

Vài trò của rừng trong việc ngăn ngừa hỏa hoạn: Khi rừng chết, đất trở nên khô cằn và có thể nhanh chóng bắt lửa và thiêu rụi toàn bộ sự sống.

Hậu quả cháy rừng không thể bỏ qua

Nếu con người còn tiếp tục gây ra cháy rừng hoặc không có ý thức bảo vệ rừng sẽ gây ra nhiều hậu quả nghiêm trọng. Một trong số đó có thể kể đến như sau:

Hâu quả đầu tiên cần nhắc tới là chúng ta đã bị mất đi cánh rừng hàng chục năm cũng có thể là hành trăm năm trong vào chục phút. Còn lại gì sau những ngọn lửa đó, chắc mọi người chỉ thu lại được than củi nhưng thay vào đó chúng ta đã mất thêm hàng chục năm nữa mới có thể lấy lại những gì đã mất.

Cháy rừng đồng nghĩa với việc chúng ta lại bị chậm lại hàng chục năm để trồng thêm rừng đó là một khoảng thời gian rất dài chính là những thách thức dành do loài người bởi không phải chỉ trồng thôi mà chúng ta còn cần có thêm nhiều biện pháp để chăm sóc và bảo vệ.

Không chỉ thế cháy rừng làm cho nhiều loài sinh vật bị thiêu rụi, xác động vật bị cháy đen sau những vụ cháy rừng trông rất thương tâm. Nếu như là những loài động vật quý hiếm thì sẽ gây ra sự mất cân bằng sinh thái.

Hậu quả của cháy rừng ở Việt Nam cũng giống như nhiều nước trên thế giới là mất cân bằng hệ sinh thái và ảnh hưởng trực tiếp đến sự sống của con người. Mỗi người cần có ý thức phòng chống cháy rừng và bảo vệ rừng khỏi nguy cơ cháy rừng.

Cách phòng chống cháy rừng hiệu quả

Giáo dục ý thức phòng cháy chữa cháy rừng

Tuyên truyền, phổ biến và giáo dục cho người dân về pháp luật phòng chống và chữa cháy rừng.

Tuyên truyền trên loa truyền thanh thường xuyên. Các huyện và cơ sở tổ chức họp dân, vận động ký cam kết khi dọn đốt nương rẫy không để cháy lan vào rừng.

Những chủ rừng thì cần phải có cam kết phòng chống cháy rừng khi tham gia trồng rừng mới và khoanh nuôi tái sinh.

Quy hoạch vùng sản xuất nương rẫy. Vận động, tuyên truyền cho người dân không đốt rừng làm nương rẫy bừa bãi.

Xử lý nhanh, kịp thời cháy rừng

Đối với địa phương xảy ra cháy rừng thì cần phải chủ động xử lý nhanh chóng, kịp thời.

Làm rõ được nguyên nhân, xử lý nghiêm minh người có hành vi vi phạm về luật phòng chống và chữa cháy rừng.

Khen thưởng cá nhân, tổ chức có thành tích trong phòng, chữa cháy rừng

Có chế độ khen thưởng cho cá nhân, tổ chức có thành tích xuất sắc trong việc phòng chống và chữa cháy rừng.

Tăng cường kiểm tra bảo vệ rừng

Các hạt kiểm lâm huyện cần phải tăng cường kiểm soát các biện pháp phòng chống chữa cháy rừng của từng đơn vị, địa phương.

Giám sát, kiểm tra chặt chẽ người ra vào rừng.

Phát hiện sớm và xử lý nhanh chóng những vụ cháy khi vừa phát sinh.

Phân công, bố trí lực lượng thường xuyên kiểm tra, gác trực vào mùa cao điểm, nắng nóng, hanh khô.

Theo dõi và cập nhật tình hình thời tiết thường xuyên sẽ giúp dự đoán được cấp cháy rừng nếu xảy ra. Từ đó, chỉ đạo, bố trí lực lượng, có các cách xử lý phù hợp, kịp thời.

Rừng Amazon ở đâu

Rừng Amazon ở đâu và thuộc nước nào? Rừng Amazon nằm trong 9 lãnh thổ thuộc các quốc gia của khu vực Nam Mỹ là phần nằm ở phía Tây Nam Bán Cầu Trái Đất thuộc Châu Mỹ bao gồm 60% thuốc Brazil, phần còn lại là Colombia, Peru, Venezuela, Ecuador, Bolivia, Guyana, Suriname. Tổng diện tích của bề mặt phủ của rừng Amazon lên tới hơn 7 triệu km2.

Nơi đây được mệnh danh là Lá Phổi Xanh lớn nhất của trái đất với hệ động thực vật phong phú, phát triển đa dạng về chủng loại, đây là một trong những khu vực luôn luôn tiềm ẩn những điều kỳ bí khiến cho con người phải tò mò muốn tìm hiểu.

Một số hệ sinh thái rừng phổ biến

Rừng ngập mặn

Rừng ngập mặn bao gồm nhiều loại cây sống trong khu vực nước mặn ở ven biển cũng như ở trong vùng có khí hậu nhiệt đới và cận nhiệt đới.

Ở rừng ngập mặn thì không phải loại cây nào cũng có thể sinh sống và phát triển được, ở đây chỉ những loại thực vật thích hợp với vùng nước ngập mặn thì mới có thể sinh sống và phát triển một cách tốt nhất.

Chính vì những yếu tố đó mà đã tạo nên một môi trường sinh trưởng và phát triển khắc nhiệt chỉ có những loại cây ngập mặn với những đặc tính riêng thì mới có thể sống và thích nghi một cách tốt nhất.

Hệ sinh thái rừng ngập mặn được hình thành bởi nhiều yếu tố như động vật, thực vật và một số loại sinh vật khác.

Những khu rừng ngập mặn chỉ được lộ ra khi nước biển xuống thấp và khi nước biển dâng nên, điều này đã tạo ra một hệ sinh thái rừng ngập mặn phong phú và đa dạng với những đặc trưng riêng mà không phải hệ sinh thái rừng nào cũng có.

Rừng lá kim

Cây lá kim có thể phát triển khá tốt bên cạnh những cây rụng lá trong nhiều quần xã, như quần xã rụng lá ôn đới hay quần xã taiga.

Cây lá kim đã phát triển rất nhiều sự thích nghi thực sự gọn gàng để tồn tại và phát triển trong điều kiện hạn chế chất dinh dưỡng. Một trong những thích ứng lớn nhất là lá kim của chúng.

Cây lá kim có thể trông khá trần tục, nhưng cái cây đã tạo ra rất nhiều công việc để tạo ra chúng, và nó hy vọng sẽ thu được rất nhiều từ những chiếc kim. Mỗi kim có một lớp sáp gọi là lớp biểu bì (đừng nhầm với lớp biểu bì trên tay của bạn) giúp giữ độ ẩm quý giá không bị rò rỉ ra ngoài. Lá Kim cũng được bơm đầy hỗn hợp các hóa chất như tannin và terpen để làm cho chúng trở nên khó chịu đối với động vật ăn cỏ.

Cây lá kim thường phát triển chậm vì chúng thường phát triển trong đất hạn chế chất dinh dưỡng và chúng tiêu tốn rất nhiều chất dinh dưỡng mà chúng có trong việc tạo ra những chiếc lá kim. Chúng sử dụng những cây kim này trong một thời gian dài, từ hai đến năm năm hoặc lâu hơn.

Cây lá kim thường được gọi là cây thường xanh vì những chiếc lá kim giữ được màu xanh quanh năm. Nhưng, thực sự có một vài loài cây lá kim rụng lá!

Cách cây lá kim ảnh hưởng đến đất khá thú vị. Mặc dù chúng không rụng lá kim mỗi mùa thu, thỉnh thoảng chúng vẫn làm rơi lá. Theo thời gian, những cây kim này chất đống quanh gốc cây. Những chiếc kim không bị phân rã như những chiếc lá rụng khác. Thay vào đó, chúng phân hủy chậm và làm cho đất thậm chí còn hạn chế chất dinh dưỡng hơn. Tannin trong những chiếc lá kim cũng có tính axit và ngấm vào đất, khiến cho các cây và cây rụng lá khác khó lấy chất dinh dưỡng hơn.

Trong một số khu rừng lá kim, có rất nhiều tannin có tính axit trong đất đến nỗi chúng ngấm vào sông và nhuộm nước thành màu vàng.

Rừng đặc dụng là gì

Rừng đặc dụng là loại rừng được thành lập với mục đích chủ yếu để bảo tồn thiên nhiên, mẫu chuẩn hệ sinh thái rừng của quốc gia, nguồn gen sinh vật rừng, nghiên cứu khoa học, bảo vệ di tích lịch sử, danh lam thắng cảnh phục vụ nghỉ ngơi du lịch kết hợp với phòng hộ bảo vệ môi trường sinh thái.

Là vùng đất tự nhiên được thành lập để bảo vệ lâu dài một hay nhiều hệ sinh thái, đáp ứng yêu cầu sau:

Vùng đất tự nhiên bao gồm mẫu chuẩn của các hệ sinh thái cơ bản còn nguyên vẹn hoặc ít bị tác động của con người, các khu rừng có giá trị cao về văn hóa, du lịch.

Phải đủ rộng để chứa được một hay nhiều hệ sinh thái và không bị thay đổi bởi những tác động xấu của con người.

Tỷ lệ diện tích hệ sinh thái cần bảo tồn phải đạt từ 70% trở lên.

Điều kiện giao thông tương đối thuận lợi.

Khu bảo tồn thiên nhiên còn gọi là khu dự trữ tự nhiên và khu bảo toàn loài sinh cảnh, là vùng đất tự nhiên được thành lập nhằm mục đích đảm bảo diễn thế tự nhiên và đáp ứng các yêu cầu sau:

Vườn quốc gia: Vườn quốc gia Xuân Sơn ở Việt Nam

Vùng đất tự nhiên có dự trữ tài nguyên thiên nhiên và có giá trị đa dạng sinh học cao.

Có giá trị cao về khoa học, giáo dục, du lịch.

Có các loài động thực vật đặc hữu hoặc là nơi cư trú, ẩn náu, kiếm ăn của các loài động vật hoang dã quý hiếm.

Đủ rộng để chứa được một hay nhiều hệ sinh thái, tỷ lệ cần bảo tồn trên 70%.

Là khu vực gồm một hay nhiều cảnh quan có giá trị thẩm mỹ tiêu biểu có giá trị văn hóa-lịch sử nhằm phục vụ các hoạt động văn hóa, du lịch hoặc để nghiên cứu, bao gồm:

Khu bảo tồn thiên nhiên: Phong cảnh khu bảo tồn thiên nhiên Vân Long ở Ninh Bình

Khu vực có các thắng cảnh trên đất liền, ven biển hay hải đảo.

Khu vực có di tích lịch sử-văn hóa đã được xếp hạng.

Khu rừng văn hóa-lịch sử-môi trường

Bạn đang đọc nội dung bài viết Đánh Giá Mô Hình, Thực Trạng Hoạt Động Của Các Ban Quản Lý Rừng trên website Photomarathonasia.com. Hy vọng một phần nào đó những thông tin mà chúng tôi đã cung cấp là rất hữu ích với bạn. Nếu nội dung bài viết hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!