Cập nhật nội dung chi tiết về Đại Hội Thảo Luận Tập Trung Các Giải Pháp Đưa Đất Nước Phát Triển Nhanh Và Bền Vững mới nhất trên website Photomarathonasia.com. Hy vọng thông tin trong bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu ngoài mong đợi của bạn, chúng tôi sẽ làm việc thường xuyên để cập nhật nội dung mới nhằm giúp bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.
Đoàn đại biểu Đảng bộ tỉnh tiến vào hội trường.
Cán bộ, công chức là tinh hoa
Tham luận của đại biểu Phạm Thị Thanh Trà, Thứ trưởng Bộ Nội vụ nhấn mạnh về vai trò của cải cách hành chính, coi đây là yếu tố nền tảng để xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa đã được xác định trong văn kiện trình Đại hội lần thứ XIII của Đảng.
Đại biểu Phạm Thị Thanh Trà cho biết, công tác cải cách hành chính đã được các cấp, các ngành, các địa phương đặc biệt quan tâm và đạt được nhiều kết quả quan trọng góp phần đổi mới sáng tạo, phát triển đất nước nhanh, bền vững. Hết năm 2020 cả nước đã có 2.700 dịch vụ công trực tuyến được tích hợp trên Cổng dịch vụ công quốc gia; 19 bộ, ngành, 63 tỉnh thành tích hợp dịch vụ công với Cổng dịch vụ công quốc gia. Trong 2 năm, Cổng dịch vụ công quốc gia đi vào hoạt động tiết kiệm được 8 nghìn tỷ, tiết kiệm thời gian, chi phí xã hội, tạo niềm tin sâu sắc của doanh, người dân. Sự ra đời của Cổng dịch vụ công quốc gia đã nhận diên rõ đất nước ta bước vào thời kỳ mới của công nghệ số, tạo ra nền tảng mới cho quá trình đổi mới đất nước.
Tuy nhiên, sự chồng chéo, thiếu sự liên thông còn khá phổ biến, việc phân quyền giữ Trung ương, địa phương còn một số lĩnh vực chưa khoa học… Do đó, xây dựng nền hành chính dân chủ, hiện đại, phục vụ người dân là nhiệm vụ quan trọng được xác định trong văn kiện. Vì vậy, trong thời gian tới cần tiếp tục quán triệt quan điểm, chủ trương của Đảng về cải cách hành chính, gắn cải cách hành chính với xây dựng chỉnh đốn Đảng, ban hành Nghị quyết của Trung ương Đảng về cải cách hành chính để xây dựng nền hành chính dân chủ, hiện đại phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, lấy người dân làm trung tâm; tạo lập đồng bộ thể chế kinh tế hành chính phù hợp với thông lệ quốc tế, bảo đảm sử dụng có hiệu quả các nguồn lực của đất nước. Đồng thời, cơ cấu lại đội ngũ cán bộ theo vị trí việc làm, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình mới; khơi dậy tinh thần vì đất nước, vì nhân dân của đội ngũ công chức, viên chức; nâng cao trình độ đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức đáp ứng yêu cầu Cuộc cách mạnh 4.0 để cán bộ, công chức trở thành tinh hoa của đất nước trong hành trình phát triển.
Đoàn đại biểu Đảng bộ tỉnh trao đổi với các đại biểu dự Đại hội.
Huy động các nguồn lực để phát triển
Tham luận của các đại biểu tại Đại hội sáng nay đều cho rằng cần huy động mọi nguồn lực để phát triển đất nước một cách hiệu quả và bền vững.
Đại biểu Trần Tuấn Anh, Bộ trưởng Bộ Công thương cho rằng, trong giai đoạn mới cần phải quan tâm phát triển công nghiệp xanh, công nghiệp công nghệ số và đẩy mạnh ứng dụng logistics. Đây là yếu tố nền tảng để bảo đảm hài hòa giữa phát triển công nghiệp và bảo vệ môi trường. Đồng thời, chú trọng phát triển công nghiệp gắn với nông nghiệp góp phần tiêu thụ sản phẩm cho người nông dân.
Phát triển nông nghiệp bền vững, nông nghiệp công nghệ cao là nội dung được nhiều đại biểu quan tâm tham luận nhất. Đại biểu Lê Quang Mạnh, Bí thư Thành ủy Cần Thơ tham luận nhấn mạnh, khuyến khích người nông dân thay đổi hình thức canh tác, ứng dụng khoa công nghệ vào sản xuất, tạo cho họ tính linh hoạt trên thửa đất của mình là yêu cầu quan trọng trong phát triển nền nông nghiệp 4.0. Đồng thời, mở rộng các sàn giao dịch để kết nối sản phẩm cho người nông dân; phát triển hệ sinh thái công nghệ cho sản xuất nông nghiệp là nền tảng cho sự phát triển bền vững, tạo ra nguồn lực lớn cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Đại biểu Phan Văn Mãi, Bí thư Tỉnh ủy Bến Tre cho rằng, khu vực đồng bằng sông Cửu Long có tiềm năng phát triển nông nghiệp nhưng lại thiếu tầm nhìn. Do đó, để đồng bằng sông Cửu Long phát triển nhanh, bền vững, yêu cầu đặt ra là xây dựng tính gắn kết vùng, mở rộng kết nối giao thông, lấy tri thức khoa học công nghệ làm nền tảng để phát triển nền nông nghiệp hàng hóa..
Lãnh đạo Ban Tổ chức Trung ương với các đại biểu tỉnh ta.
Tại Đại hội, các đại biểu cũng tập trung tham luận các giải pháp giảm nghèo bền vững, trong đó trọng tâm là tạo sinh kế cho người nghèo, xây dựng nông thôn mới gắn với đẩy mạnh giảm nghèo. Đại biểu Đỗ Đức Duy, Bí thư Tỉnh ủy Yên Bái tham luận tại Đại hội cho rằng, để thực hiện mục tiêu giảm nghèo bền vững cần phải có sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị, giao nhiệm vụ cụ thể cho các cơ quan chức năng, các đồng chí cấp ủy; thường xuyên quan tâm công tác lãnh đạo, chỉ đạo công tác giảm nghèo, gắn mục tiêu giảm nghèo với trách nhiệm của người đứng đầu; giải phóng tư tưởng để người nghèo có khát vọng, có tự trọng để vươn lên thoát nghèo; xây dựng kế hoạch giảm nghèo trên cơ sở đánh giá thấu đáo những nguyên nhân; chương trình giảm nghèo gắn với nông thôn mới, giúp người nghèo được tiếp cận với các dịch vụ xã hội…
Thực Trạng Và Giải Pháp Phát Triển Bền Vững Đất Nước
A. LỜI MỞ ĐẦU Mục tiêu tổng quát của kế hoạch phát triển kinh tế- xã hội giai đoạn 2006-2010 của Việt Nam là “đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế, đạt được bước chuyển biến quan trọng về nâng cao hiệu quả và tính bền vững của sự phát triển, sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển. Cải thiện rõ rệt đời sống vật chất văn hoá, tinh thần của nhân dân. Đẩy mạnh công nghiệp hoá hiện đại hoá và phát triển kinh tế tri thức tạo nền tảng để đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2010. Giữ vững ổn định chính trị và trật tự, an toàn xã hội. Bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và an ninh quốc gia. Nâng cao vị thế của Việt Nam trong khu vực và trên trường quốc tế.” Muốn nước ta đứng vững trên con đường phát triển thì cần phải hiểu về phát triển bền vững.Vì vậy trong khuôn khổ bài viết, em xin trình bày về “thực trạng và giải pháp phát triển bền vững đất nước”. Từ đó đưa ra những thành tựu, hạn chế và giải pháp khắc phục. Em xin chân thành cảm ơn thầy giáo TS. ĐOÀN QUANG THỌ đã hướng dẫn và giúp đỡ em hoàn thành bài tiểu luận này. Mặc dù đã có nhiều cố gắng nhưng do thời gian và thông tin có hạn nên không tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong được thầy giáo chỉ bảo. B. NỘI DUNG Phần I: Những lí luận về phát triển bền vững I. Định nghĩa về phát triển bền vững Định nghĩa : Phát triển bền vững là sự phát triển nhằm thoả mãn các nhu cầu hiện tại của con người nhưng không tổn hại tới sự thoả mãn các nhu cầu của thế hệ tương lai. Phát triển bền vững đang là bài toán khó và là thách thức cho mọi quốc gia, nhất là trong điều kiện toàn cầu hoá, hội nhập kinh tế quốc tế,việc ựa chọn con đường, biện pháp và thể chế, chính sách đảm bảo phát triển bền vững luôn là mối quan tâm hàng đầu của mọi người trong bước đường phát triển. Các nguyên tắc xây dựng một xã hội phát triển bền vững(theo Chương trình Môi trường Liên Hợp Quốc đã đề ra 9 nguyên tắc: +) Tôn trọng và quan tâm đến cuộc sống cộng đồng. +) Cải thiện chất lượng cuộc sống của con người. +) Bảo vệ sức sống và tính đa dạng của Trái đất. +) Quản lý những nguồn tài nguyên không tái tạo được. +) Tôn trọng khả năng chịu đựng được của Trái đất. +) Thay đổi tập tục và thói quen cá nhân. +) Ðể cho các cộng đồng tự quản lý môi trường của mình. +) Tạo ra một khuôn mẫu quốc gia thống nhất, thuận lợi cho việc phát triển và bảo vệ. +) Xây dựng một khối liên minh toàn cầu. Hội nghị Thượng đỉnh Thế giới về Phát triển bền vững năm 2002 đã xác định “phát triển bền vững” là quá trình phát triển có sự kết hợp chặt chẽ, hợp lý và hài hoà giữa 3 mặt của sự phát triển, gồm: phát triển kinh tế (nhất là tăng trưởng kinh tế), phát triển xã hội (nhất là thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội; xoá đói giảm nghèo và giải quyết việc làm) và bảo vệ môi trường (nhất là xử lý, khắc phục ô nhiễm, phục hồi và cải thiện chất lượng môi trường; phòng chống cháy và chặt phá rừng; khai thác hợp lý và sử dụng tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên. II.Hậu quả của sự phát triển kinh tế đối với phát triển bền vững 1. Tăng trưởng kinh tế quá nhanh làm cho lạm phát tăng, bất bình đẳng xã hội tăng -Có sự đánh đổi giữa tăng trưởng và lạm phát, vì để tăng trưởng thì phải tăng đầu tư, mà để tăng đầu tư thì phải tăng cung tiền, tăng tín dụng. Lạm phát ở nước ta đang có xu hướng tăng cao trong những năm gần đây. Lạm phát trung bình năm 2005 là 8,3%, 2006 là 7,5% và 11,3% năm 2007 lạm phát trung bình của Việt Nam cao hơn các nước trong khu vực. -Như đã nói ở trên, tăng trưởng kinh tế nhanh sẽ dẫn đến lạm phát. Khi có lạm phát tức là giá cả sẽ tăng lên.Giá cả tăng sẽ tác động đến mọi người dân nhưng tác động mạnh nhất là công chức nhà nước và người nghèo. Trong nhóm người nghèo bị tác động mạnh ở Việt Nam có một phần rất đông là nông dân, sản xuất nông nghiệp. Những người nghèo thì hầu hết thu nhập dùng cho chi tiêu hàng ngày, có bao nhiêu phải chi hết, thậm chí không đủ mà chi. Vì vậy, giá cả lên sẽ khiến cuộc sống vốn eo hẹp của nhóm đối tượng này càng eo hẹp và khó khăn hơn. Nếu giá cả càng tăng thì càng tác động tiêu cực đến người nghèo và quá trình đó sẽ làm phân hóa giàu nghèo càng mạnh hơn. 2. Tăng trưởng kinh tế làm kiệt quệ tài nguyên thiên nhiên, môi trường sinh thái bị huỷ hoại – Sự phát triển trong những năm qua đã làm kiệt quệ tài nguyên thiên nhiên, phá vỡ cân bằng sinh thái, tổn hại đến môi trường- cơ sở tồn tại của chính bản thân con người. Trong khi loài người chiếm lĩnh những đỉnh cao của khoa học thì cũng là lúc phải đối mặt với nhiều thách thức từ môi trường; con người luôn bị đặt vào những tình huống bất ngờ không lường trước được : thiên tai, lũ lụt, hạn hán… – Sự thay đổi khí hậu toàn cầu; tình trạng ô nhiễm các nguồn nước; hiện tương sa mạc hoá; sự xói mòn đất đai; sự suy thoái về rừng; sự tuyệt chủng của các loài sinh vật… đã va đang trở thành mối đe doạ trực tiếp đến sự sống trên trái đất. Gần 1/2 đất đai trên thế giới đã bị biến đổi bởi con người. Người ta gọi sự xói mòn đất đai nhanh chóng là “cuộc khủng hoảng thầm lặng của hành tinh”, là mối đe doạ to lớn đối với sự sống trên trái đất. Tại nước ta, môi trường tiếp tục bị ô nhiễm và xuống cấp, có nơi rất nghiêm trọng. Đất đai bị xói mòn, thoái hoá; chất lượng các nguồn nước suy giảm mạnh; không khí ở nhiều đô thị, khu dân cư bị ô nhiễm nặng; tài nguyên thiên nhiên trong nhiều trường hợp bị khai thác quá mức, không có quy hoạch; đa dạng sinh học bị đe doạ nghiêm trọng; điều kiện vệ sinh môi trường, cung cấp nước sạch ở nhiều nơi không được bảo đảm…. Nhiều vấn đề ô nhiễm mới nảy sinh do quá trình phát triển công nghiệp và đô thị hoá. Sự tập trung và gia tăng số lượng dân cư lớn ở đô thị, tiến trình phát triển kinh tế dựa vào khai thác quá mức tài nguyên thiên nhiên… khiến cho ô nhiễm môi trường ở các thành phố lớn như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh trở thành vấn đề khá nghiêm trọng. Trong khi đó, việc thi hành Luật Bảo vệ môi trường chưa thực sự nghiêm minh, có nơi, có lúc còn buông lỏng. Ý thức tự giác của người dân về bảo vệ và giữ gìn môi trường chưa thực sự trở thành thói quen. Nhiều người còn có suy nghĩ giản đơn rằng vấn đề môi trường chưa cấp bách, trước mắt như vân đề cơm áo gạo tiền hàng ngày; bảo vệ môi trường là vấn đề chung của cả nước, cả xã hội, là trách nhiệm của Đảng và Nhà nước, chứ không phải là trách nhiệm của người dân… Chính sự thờ ơ, thái độ “vô cảm” của một bộ phận người dân đối với môi trường đã tiếp tay cho việc tàn phá môi trường. Phần II: Thành tựu đạt được và những hạn chế phát triển bền vững ở nước ta I. Quan điểm chỉ đạo Nghị quyết Đại hội X của Đảng Cộng sản Việt Nam là “Phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường”. Dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, sự hợp tác của các cơ quan, ban, ngành trong nước và đặc biệt với sự hỗ trợ của một số tổ chức quốc tế đã tiến hành thực hiện nhiều công việc quan trọng nhằm hoàn thiện thể chế, nâng cao nhận thức của nhân dân, nâng cao trình độ quản lý của đội ngũ cán bộ. Ngày 27/9/2005 Thủ tướng Chính phủ kí quyết định thành lập Hội đồng phát triển bền vững quốc gia có nhiệm vụ giúp Thủ tướng Chính phủ tổ chức, hướng dẫn và chỉ đạo thống nhất việc thực hiện trong cả nước chiến lược phát triển bền vững. Phát triển bền vững trở thành đường lối, quan điểm chỉ đạo của Đảng và nhà nước ta do vậy Đảng và Nhà nước ta từ nhiều năm qua đã luôn nhận thức sâu sắc về tầm quan trọng của sự phát triển bền vững không chỉ riêng với Việt Nam mà còn có liên đới trách nhiệm với sự phát triển bền vững chung của toàn cầu. Chính phủ ta đã cử nhiều đoàn cấp cao tham gia các Hội nghị nói trên và cam kết thực hiện phát triển bền vững. Quan điểm phát triển bền vững đã được khẳng định trong các văn kiện của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng Cộng sản Việt Nam và trong Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội 2001-2010 là: “Phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường” và “Phát triển kinh tế – xã hội gắn chặt với bảo vệ và cải thiện môi trường, bảo đảm sự hài hoà giữa môi trường nhân tạo với môi trường thiên nhiên, giữ gìn đa dạng sinh học”. Để thực hiện mục tiêu phát triển bền vững, những năm vừa qua đã có nhiều chỉ thị, nghị quyết khác của Đảng, nhiều văn bản quy phạm pháp luật của Nhà nước đã được ban hành và triển khai thực hiện; nhiều chương trình, đề tài nghiên cứu về lĩnh vực này đã được tiến hành và thu được những kết quả bước đầu. Nhờ đó, nhiều nội dung cơ bản về phát triển bền vững đã đi vào cuộc sống và dần dần trở thành xu thế tất yếu trong sự phát triển của đất nước. II.Thành tựu và những hạn chế của phát triển bền vững ở nước ta 1.Thành tựu đạt được của phát triển bền vững ở nước ta 1.1. Nền kinh tế nước ta đã liên tục tăng trưởng với tốc độ khá cao và tương đối ổn định Nhiều năm liên tục, kinh tế Việt Nam tăng trưởng với tốc độ khá cao và tương đối ổn định. GDP tăng bình quân trên 7% năm, năm 2006 là 8,2% và năm 2007 là 8,5%. Việt Nam cũng đã chuyển mạnh sang nền kinh tế thị trường và hội nhập đầy đủ vào nền kinh tế thế giới. Hiện nay đã có gần 80 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư vào Việt Nam với gần 8.000 dự án và tổng số vốn đăng ký trên 70 tỷ USD, năm 2006 Việt Nam đã thu hút được 10,2 tỷ USD vốn FDI, tăng 50% so với 2005.Năm 2007, con số này là 20,3 tỉ USD. Bảng : Tăng trưởng GDP từ năm 1991-2007 năm 1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 GDP (%) 8.7 8.08 8.83 9.54 9.34 8.15 5.76 4.77 6.79 6.89 7.08 7.26 7.96 8.43 8.17 8.5 1.2. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế – xã hội theo hướng CNH, HĐH, từng bước hội nhập vào sự phân công của nền kinh tế khu vực và thế giới . Cơ cấu nền kinh tế đã chuyển dịch theo hướng CNH, HĐH, đó là tỷ trọng trong GDP của ngành nông – lâm – thuỷ sản; tăng tỉ trọng ngành công nghiệp và dịch vụ đồng thời cơ cấu nền kinh tế đã chuyển dịch tích cực theo hướng mở cửa, hội nhập vào kinh tế toàn cầu. Nhiều sản phẩm của Việt Nam như gạo, cao su, may mặc, giày dép, hải sản… đã có sức cạnh tranh cao trên thị trường thế giới. Các hoạt động kinh tế đối ngoại khác như đầu tư trực tiếp từ nước ngoài (FDI), và viện trợ phát triển chính thức (ODA) cũng đều tăng trưởng khả quan, đặc biệt là vốn FDI đã có bước phát triển tích cực, tăng mạnh từ năm 2004 đến nay. Năm 2003: 3,2 tỷ USD; 2004: 4,5 tỷ USD; 2005: 6,8 tỷ USD; 2006: 10,2 tỷ USD; năm 2007 đã đạt 20,3tỷ USD. Cơ cấu lao động cũng chuyển dịch theo hướng tích cực. Lực lượng lao động trong ngành nông-lâm-thuỷ sản đã giảm đáng kể. Tỷ lệ lao động công nghiệp và dịch vụ tăng nhanh. 1.3 Tăng trưởng và phát triển kinh tế đã đưa đến nâng cao trình độ và chất lượng sống của các tầng lớp dân cư. Để thấy rõ một cách chi tiết về trình độ và chất lượng sống của các tầng lớp dân cư Việt Nam đã ngày càng nâng cao hơn, nên xem xét một biểu hiện của nước ta trong một vài năm qua: +) Đời sống các tầng lớp nhân dân tiếp tục được cải thiện. Thu nhập GDP bình quân/người của cả nước đã tăng trong những năm gần đây. +)Tuổi thọ bình quân của người Việt Nam tăng từ 65,2 tuổi năm 1995 lên 70 tuổi năm 2003 và lên 71,5 tuổi năm 2005. +)Công tác chăm sóc sức khoẻ cộng đồng có nhiều tiến bộ. +) Đã ngăn chặn có hiệu quả và khắc phục nhanh một số bệnh dịch mới như SARS, cúm gia cầm, được thế giới đánh giá cao; đẩy mạnh phòng chống HIV/AIDS. +) Sự nghiệp phát triển giáo dục – tạo có bước phát triển mạnh. Cơ sở vật chất các cơ sở giáo dục và đào tạo ở các cấp được tăng cường. Nhiều tỉnh đã xây dựng được trường chuẩn quốc gia. Đầu tư cho giáo dục và đào tạo tăng lên. +) Đời sống văn hoá không ngừng nâng cao. 1.4 Tăng trưởng và phát triển kinh tế đi đôi với giải quyết việc làm, gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội. Công tác xoá đói giảm nghèo đã đạt kết quả rất khả quan, được cộng đồng quốc tế đánh giá cao. Là một trong những quốc gia có kết quả giảm tỷ lệ đói nghèo tốt nhất. Theo Báo cáo của Chính phủ do Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng trình bày tại kỳ họp thứ 12, Quốc hội khoá XII, đã có gần 4 triệu hộ nghèo và 1,7 triệu người có hoàn có hoàn cảnh khó khăn được tiếp cận với nguồn vốn thuộc 10 chương trình tín dụng ưu đãi của Nhà nước, góp phần giảm tỷ lệ hộ nghèo từ 18% năm 2006 xuống còn 14,7% năm 2007. Theo đánh giá của Liên hợp quốc, Việt Nam đã hoàn thành Mục tiêu Thiên niên kỷ xoá đói nghèo đến năm 2015 trước 10 năm. 2. Những hạn chế 2.1 Tăng trưởng kinh tế vẫn chưa vững chắc: Tăng trưởng kinh tế đạt trong những năm gần đây là một thành tựu lớn, nhưng tăng trưởng vẫn chủ yếu dựa vào các yếu tố về vốn, lao động, khai thác tài nguyên thiên nhiên… Bên cạnh đó, công nghiệp chế biến nông sản và chế tạo tư liệu sản xuất còn kém, chủ yếu vẫn là lắp ráp, gia công. Các yếu tố đem lại giá trị gia tăng cao như khoa học, công nghệ chưa được khai thác và phát huy. Quy mô đầu tư ngày càng tăng, thể hiện ở tỷ lệ đầu tư trên GDP ngày càng cao, nhưng hiệu quả đầu tư, trình độ của nền kinh tế và chất lượng tăng trưởng kinh tế vẫn còn ở mức thấp, chưa tương xứng với đầu tư. Khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp, của nền kinh tế còn thấp, lao động có tay nghề cao vẫn còn chiếm tỷ trọng nhỏ trong lực lượng lao động. Nhịp độ tăng trưởng kinh tế còn dưới mức khả năng phát triển của đất nước,chất lượng phát triển còn thấp, năng lực cạnh tranh của nền kinh tế còn yếu . Tăng trưởng kinh tế những năm qua chưa phát huy được hết các nhân tố theo chiều sâu. Năng lực cạnh tranh, năng suất, chất lượng, hiệu quả của nền kinh tế còn thấp. Chưa kết hợp thật tốt giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ và chăm lo đúng mức cho sự phát triển của con người, bảo vệ và cải thiện môi trường sinh thái. Đóng góp vào tăng trưởng chủ yếu vẫn là yếu tố vốn và lao động, yếu tố về tiến bộ khoa học và công nghệ tuy có tăng lên nhưng vẫn chiếm tỷ trọng nhỏ. Kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội vẫn còn yếu kém, chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển và nâng cao khả năng cạnh tranh của nền kinh tế. Một số công trình xây dựng lớn, quan trọng quốc gia không hoàn thành theo kế hoạch. Năng lực sản xuất một số ngành, sản phẩm quan trọng, thiết yếu tăng chậm. 2.2 Chuyển dịch cơ cấu kinh tế chưa đồng đều, chưa phát huy thế mạnh từng ngành, từng sản phẩm. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn triển khai còn chậm và thiếu tính bền vững. Tỷ trọng dịch vụ trong GDP còn thấp và chưa có chuyển biến rõ rệt. Các vùng kinh tế trọng điểm phát triển chưa tương xứng với tiềm năng, chưa phát huy được vai trò đầu kéo kinh tế vùng. Sự phát triển của các thành phần kinh tế chưa đồng đều. Tỷ lệ lao động qua đào tạo còn thấp so với yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá và chuyển dịch cơ cấu kinh tê. 2.3. Tăng trưởng kinh tế nhanh làm ô nhiễm môi trường Theo dự báo,năm 2010 tại TP.Hồ Chí Minh và vùng kinh tế trọng điểm phía Nam đều sử dụng hết diện tích thì sẽ thải 3500tấn rác/ngày gấp 29 lần năm 2005. So với các nước trong khu vực sản xuất công nghiệp của nước ta có quy mô còn rất nhỏ bé nên sự tác động gây ô nhiễm môi trường phần lớn đang ở phạm vi hạn chế gây suy thoái cục bộ trong ranh giới của vùng hẹp. Tuy vậy, với tốc độ tăng trưởng công nghiệp hàng năm của chúng ta hiện nay, để bảo đảm phát triển bền vững chúng ta đang đứng ở thời điểm không thể trì hoãn, bắt buộc phải xác lập các bước đi thích hợp, thực hiện các biện pháp giải quyết và ngăn ngừa ô nhiễm môi trường. Phần III: Giải pháp phát triển bền vững ở nước ta 1. Về kinh tế 1.1. Ngành công nghiệp +) Tập trung phát triển mạnh những ngành có lợi thế so sánh để tạo tích luỹ, thu hút lao động xã hội, bao gồm các ngành sử dụng nhiều lao động như dệt may, giày dép, lắp ráp cơ điện tử, chế biến nông – lâm – thủy – hải sản, ngành công nghệ cao như công nghệ điện tử tin học, công nghệ sinh học, vật liệu mới…; kêu gọi đầu tư nước ngoài vào những ngành công nghiệp cần nhiều vốn, dựa vào nguồn tài nguyên như dầu khí, luyện kim,… +) Khuyến khích xuất khẩu, mở rộng các hình thức hợp tác quốc tế, đồng thời nhận thêm các nguồn vốn ODA và FDI, tạo môi trường cho người lao động tiếp xúc với công nghệ hiện đại, học hỏi kinh nghiệm, nâng cao trình độ chuyên môn và quản lý, góp phần nâng cao chất lượng và năng lực khai thác nguồn nhân lực. +) Từng bước tái cơ cấu công nghiệp theo hướng giảm dần tỷ trọng khu vực nhà nước, tăng dần khu vực tư nhân và đầu tư nước ngoài: chú trọng phát triển hệ thống doanh nghiệp vừa và nhỏ; hình thành các tập đoàn công nghiệp đa thành phần, đa ngành nghề để phối hợp sức mạnh và lợi thế của các thành phần, các ngành nghề, đồng thời làm đối tác cho các hoạt động kinh tế quốc tế, trụ cột cho nền kinh tế quốc dân. +) Thực hiện cơ cấu phân bố công nghiệp theo hướng phát triển và dịch chuyển các ngành công nghiệp sử dụng nhiều lao động về nông thôn, hình thành công nghiệp nông thôn, đảm bảo phát triển cân đối; chú trọng phát triển công nghiệp theo các tuyến giao thông (cảng biển, trục giao thông, trục đường thủy, bộ) để phát huy các lợi thế. +) Chú trọng đổi mới công nghệ trong các ngành công nghiệp nhằm nâng cao chất lượng và sức cạnh tranh của các sản phẩm công nghiệp; giảm ô nhiễm môi trường. +) Quản lý KH&CN, nâng cao vai trò của KHCN trong việc đổi mới, hiện đại hóa công nghệ của các ngành, đồng thời tăng cường tiếp nhận, làm chủ và phát triển các công nghệ mới, hiện đại. +) Tăng cường công tác vệ sinh an toàn, bảo hộ lao động, phòng chống cháy nổ, đặc biệt trong ngành khai thác mỏ; khuyến khích áp dụng các hệ thống quản lý theo tiêu chuẩn quốc tế như ISO 9.000; ISO 14.000; SA 8.000, HACCP; +) Tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức về phát triển bền vững trong ngành Công nghiệp. 1.2. Ngành nông nghiệp Chủ trương phát triển nền nông nghiệp mạnh, bền vững. Phát triển nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa gắn với thị trường trong nước và quốc tế. Đẩy mạnh công tác vận động, tuyên truyền, giáo dục, thuyết phục cùng với việc cung cấp các thông tin cập nhật nhu cầu của thị trường về mặt hàng nông sản, cả về số lượng, chất lượng và chủng loại, mẫu mã… nhằm tạo bước chuyển tiếp theo trong tư duy, phát triển nông nghiệp theo hướng bền vững về kinh tế, xã hội và bảo vệ tài nguyên thiên nhiên, môi trường. Triển khai và thực hiện hiệu quả công tác quy hoạch. Thông qua công tác quy hoạch để phát hiện và nắm bắt chính xác tiềm năng, thế mạnh của từng vùng sinh thái. Trên cơ sở đó, lập kế hoạch cụ thể phát triển ngành gì, mặt hàng nông sản nào, số lượng bao nhiêu, chất lượng ra sao, ở vùng sinh thái nào… để vừa thu được lợi nhuận cao, vừa bảo vệ tài nguyên, môi trường sinh thái và ổn định xã hội. Đẩy nhanh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn, tạo nền tảng vững chắc để phát triển nông nghiệp bền vững, tập trung vào các công tác sau: +) Phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng: đường giao thông, công trình thủy lợi, mạng lưới điện, nhà xưởng để lưu kho, bảo quản, chế biến… +) Đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng hiện đại; giảm tỷ trọng trồng trọt, tăng tỷ trọng chăn nuôi, phát triển nghề rừng, nghề biển…Đồng thời, đẩy mạnh chương trình nâng cao năng suất đất đai, sử dụng hợp lý nguồn nước; kết hợp giữa nông, lâm và ngư nghiệp phù hợp với điều kiện sinh thái từng vùng nhằm bảo vệ tài nguyên đất, nước và khí hậu. +) Phát triển mạnh công nghiệp chế biến nông sản hàng hóa, nhất là những mặt hàng có lợi thế: cà phê, cao su, chè, các sản phẩm chăn nuôi gia súc, gia cầm và thủy sản. +) Đẩy mạnh ứng dụng thành tựu khoa học – công nghệ vào sản xuất, nuôi trồng và giữ gìn các nguồn gen quý hiếm. Gắn liền với phát triển phân bón hữu cơ phải sản xuất phân bón sinh học, phân bón phân giải chậm phục vụ phát triển nền nông nghiệp sinh thái. +) Thực hiện đa dạng hóa cơ cấu sản xuất kinh doanh nông nghiệp, phát triển ngành nghề mới, tạo nhiều việc làm, nâng cao thu nhập và đời sống của dân cư, giảm sức ép về lao động cũng như di dân tự do. +) Củng cố và hoàn thiện hệ thống dịch vụ, đẩy mạnh phát triển thị trường tiêu thụ nông sản phẩm. Thực hiện đồng bộ và hiệu quả chính sách điều tiết vĩ mô phục vụ phát triển nền nông nghiệp bền vững. Trước mắt, cần thực hiện tốt chính sách đất đai, chính sách tài chính – tín dụng, chính sách thuế, chính sách lao động – việc làm và di dân, chính sách phát triển thị trường tiêu thụ hàng nông sản. Năm là, tiếp tục đổi mới và hoàn thiện hệ thống luật pháp về phát triển nông nghiệp bền vững. 1.3. Ngành thương mại và dịch vụ Phát triển đa dạng các ngành dịch vụ, hướng vào đáp ứng nhu cầu sản xuất và nâng cao mức sống dân cư: +) Phát triển mạnh thị trường trong nước, các trung tâm thương mại ở thành thị, mở rộng mạng lưới thương nghiệp trong tất cả mọi thành phần kinh tế ở cả vùng ven đô, vùng nông thôn đồng bằng, miền núi, ven biển và hải đảo +) Tạo liên kết chặt chẽ giữa các vùng trong nước, tăng tỷ trọng thương mại trong nước, chú trọng kích cầu trong nước để bù đắp lại thị trường bên ngoài bị thu hẹp. +) Phát triển mạnh ngành du lịch, nâng cao chất lượng và nguồn cung cấp dịch vụ, hàng hoá cho nhu cầu của khách du lịch. +) Phát triển mạnh dịch vụ vận tải, nhanh chóng nâng cao giá trị ngành vận tải trong lĩnh vực dịch vụ; trang bị thêm phương tiện vận tải các loại…tăng năng lực vận tải đường sắt, đường bộ, đường sông, bảo đảm vận tải hàng hoá thiết yếu lên tận vùng sâu, vùng xa… +) Phát triển dịch vụ bưu chính, viễn thông, tin học, tiếp tục thực hiện lộ trình giảm giá cước bưu chính viễn thông phù hợp với yêu cầu hội nhập và sự phát triển công nghệ thông tin, kích thích sức mua của khách hàng; thu hút các nguồn vốn để hoàn thiện và xây dựng mới cơ sở vật chất… 2. Tăng cường bảo vệ tài nguyên môi trường, giảm thiểu tình trạng ô nhiễm môi trường. Giải quyết các vấn đề sau: -Chống thoái hóa, sử dụng hiệu quả và bền vững tài nguyên đất. – Khai thác hợp lý và sử dụng tiết kiệm bền vững tài nguyên khoáng sản. – Bảo vệ môi trường nước và sử dụng bền vững tài nguyên nước. – Bảo vệ môi trường biển, ven biển, hải đảo và phát triển tài nguyên biển. – Bảo vệ và phát triển rừng. – Giảm ô nhiễm không khí ở các đô thị và khu công nghiệp. – Quản lý có hiệu quả chất thải rắn và chất thải nguy hại. – Bảo tồn đa dạng sinh học. – Giảm nhẹ biến đổi khí hậu và hạn chế những ảnh hưởng có hại của biến đổi khí hậu, góp phần chống thiên tai . – Thực hiện tốt công tác quản lý và bảo vệ môi trường, đầu tư mới và cải tạo các hệ thống xử lý chất thải, nhằm thực hiện nghiêm chỉnh việc xử lý triệt để các cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng; chú trọng áp dụng các giải pháp sản xuất sạch hơn; nghiên cứu hình thành và phát triển ngành công nghiệp môi trường, ưu tiên ứng dụng công nghệ sạch và công nghệ thân thiện với môi trường. 3. Phát triển xã hội: -Xóa đói giảm nghèo, giảm khoảng cách giàu nghèo,đồng thời khắc phục tình trạng tái nghèo trên cả nước. -Bảo tồn di sản văn hóa dân tộc. -Tăng cho phúc lợi xã hội, xây dựng thể chế xã hội. – Quan tâm chăm lo đời sống, sức khoẻ, bệnh nghề nghiệp cho người lao động. C. KẾT LUẬN Từ những phân tích trên ta thấy được thực trạng vấn đề phát triển bền vững ở nước ta hiện nay. Phát triển bền vững là thách thức, là bài toán khó không chỉ với nước ta mà còn với mọi quốc gia trên thế giới. Trong tình hiện nay thì phát triển bền vững lại càng trở thành vấn đề cấp thiết với kinh tế ,xã hội của mọi quốc gia và đặc biệt với môi trường, khí hậu toàn cầu . Vì thế, để có được một nền kinh tế phát triển bền vững phải kết hợp nhiều yếu tố như môi trường, có cơ cấu kinh tế một cách hợp lí,và đặc biệt là phải quan tâm đến việc cải thiện đời sống cho người dân. TÀI LIỆU THAM KHẢO Giáo trình kinh tế phát triển Giáo trình kinh tế môi trường Kế hoạch phát triển kinh tế xã hội giai đoạn 2006-2010 Văn kiện đại hội X_chương trình nghị sự 21 Trang web: và một số trang web khác.
Nâng Cao Chất Lượng Dân Số, Góp Phần Phát Triển Đất Nước Nhanh, Bền Vững
Các bé trường Mầm non Láng Thượng, Đống Đa (Hà Nội) hào hứng với giờ uống sữa học đường cho mỗi ngày tới trường. Ảnh: Thanh Tùng/TTXVN
Chiến lược với quan điểm chỉ đạo là quán triệt sâu sắc và triển khai đầy đủ Nghị quyết số 21-NQ/TW ngày 25/10/2017 của Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về công tác dân số trong tình hình mới; trong đó, tập trung mọi nỗ lực chuyển trọng tâm chính sách dân số từ kế hoạch hóa gia đình sang thực hiện và đạt được các mục tiêu toàn diện cả về quy mô, cơ cấu, phân bố, đặc biệt là chất lượng dân số và được đặt trong mối quan hệ hữu cơ với các yếu tố kinh tế, xã hội, quốc phòng, an ninh”.
Chiến lược đề ra 8 mục tiêu cụ thể đến năm 2030. Theo đó, mục tiêu 1 là duy trì vững chắc mức sinh thay thế, giảm chênh lệch mức sinh giữa các vùng, đối tượng; duy trì vững chắc mức sinh thay thế (bình quân mỗi phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ có 2,1 con), quy mô dân số 104 triệu người; giảm 50% chênh lệch mức sinh giữa nông thôn và thành thị, miền núi và đồng bằng; 50% số tỉnh đạt mức sinh thay thế; mọi phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ đều được tiếp cận thuận tiện với các biện pháp tránh thai hiện đại, phòng tránh vô sinh và hỗ trợ sinh sản; giảm 2/3 số vị thành niên, thanh niên có thai ngoài ý muốn.
Mục tiêu 2 là bảo vệ và phát triển dân số các dân tộc thiểu số có dưới 10 nghìn người, đặc biệt là những dân tộc thiểu số rất ít người có nguy cơ suy giảm giống nòi: duy trì tỉ lệ tăng dân số của các dân tộc thiếu số dưới 10 nghìn người cao hơn mức bình quân chung cả nước; cơ bản ngăn chặn tình trạng tảo hôn và hôn nhân cận huyết thống trong vùng dân tộc thiểu số; bảo đảm tốc độ tăng các chỉ tiêu phản ánh chất lượng dân số của các dân tộc thiếu số dưới 10 nghìn người cao hơn mức tăng bình quân chung cả nước.
Mục tiêu 3 là đưa tỉ số giới tính khi sinh về mức cân bằng tự nhiên, phấn đấu duy trì cơ cấu tuổi ở mức hợp lý. Tỉ số giới tính khi sinh dưới 109 bé trai/100 bé gái sinh ra sống; tỉ lệ trẻ em dưới 15 tuổi đạt khoảng 22%, tỉ lệ người cao tuổi từ 65 tuổi trở lên đạt khoảng 11%, tỉ lệ phụ thuộc chung đạt khoảng 49%.
Mục tiêu 4 là nâng cao chất lượng dân số. Tỉ lệ cặp nam, nữ thanh niên được tư vấn, khám sức khỏe trước khi kết hôn đạt 90%; giảm 50% số cặp tảo hôn, giảm 60% số cặp hôn nhân cận huyết thống; 70% phụ nữ mang thai được tầm soát ít nhất 4 loại bệnh tật bẩm sinh phổ biến nhất; 90% trẻ sơ sinh được tầm soát ít nhất 5 bệnh bẩm sinh phổ biến nhất; tuổi thọ bình quân đạt 75 tuổi, trong đó thời gian sống khỏe mạnh đạt tối thiểu 68 năm; chiều cao người Việt Nam 18 tuổi đối với nam đạt 168,5 cm, nữ đạt 157,5 cm; chỉ số Phát triển con người (HDI) nằm trong nhóm 4 nước hàng đầu khu vực Đông Nam Á.
Mục tiêu 5 là thúc đẩy phân bố dân số hợp lý và bảo đảm quốc phòng, an ninh; thúc đẩy đô thị hóa, đưa tỉ lệ dân số đô thị đạt trên 45%; tiếp tục thực hiện bố trí, sắp xếp dân cư hợp lý ở vùng biên giới, hải đảo, vùng đặc biệt khó khăn; bảo đảm người di cư được tiếp cận đầy đủ và công bằng các dịch vụ xã hội cơ bản.
Mục tiêu 6 là hoàn thành xây dựng và vận hành cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, đẩy mạnh lồng ghép các yếu tố dân số vào xây dựng và thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội: 100% dân số được đăng ký, quản lý trong hệ thống cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư thống nhất, dùng chung trên quy mô toàn quốc; 100% ngành, lĩnh vực và địa phương sử dụng dữ liệu chuyên ngành dân số vào xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chương trình, dự án phát triển kinh tế – xã hội.
Mục tiêu 7 là phát huy tối đa lợi thế cơ cấu dân số vàng, tạo động lực mạnh mẽ cho sự phát triển đất nước nhanh, bền vững; tiếp tục thực hiện tốt, hướng đến đạt mục tiêu cao hơn các chiến lược về giáo dục, đào tạo, lao động, việc làm, xuất khẩu lao động, thu hút nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài… hiện có; nghiên cứu xây dựng các chiến lược, chương trình về những lĩnh vực nêu trên cho giai đoạn 2021 – 2030 với mục tiêu tăng tối đa số lượng việc làm, nâng cao tỉ lệ lao động được đào tạo, cải thiện chất lượng việc làm.
Mục tiêu 8 là thích ứng với già hóa dân số, đẩy mạnh chăm sóc sức khỏe người cao tuổi: Ít nhất 50% số xã, phường đạt tiêu chí môi trường thân thiện với người cao tuổi; khoảng 70% người cao tuổi trực tiếp sản xuất, kinh doanh tăng thu nhập, giảm nghèo có nhu cầu hỗ trợ được hướng dẫn về sản xuất kinh doanh, hỗ trợ phương tiện sản xuất, chuyển giao công nghệ, tiêu thụ sản phẩm, vay vốn phát triển sản xuất. 100% người cao tuổi có thẻ bảo hiểm y tế, được quản lý sức khỏe, khám, chữa bệnh, chăm sóc tại gia đình, cộng đồng, cơ sở chăm sóc tập trung.
Để đạt được các mục tiêu trên, Chiến lược đề ra một số nhiệm vụ và giải pháp như: Tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy, chính quyền các cấp; đổi mới truyền thông, vận động về dân số; hoàn thiện cơ chế, chính sách, pháp luật về dân số; phát triển mạng lưới và nâng cao chất lượng dịch vụ về dân số; đẩy mạnh nghiên cứu khoa học, hoàn thiện hệ thống thông tin, số liệu dân số; bảo đảm nguồn lực cho công tác dân số; kiện toàn tổ chức bộ máy và đào tạo; tăng cường hợp tác quốc tế.
Trong đó, về bảo đảm nguồn lực cho công tác dân số, bảo đảm đủ nguồn lực đáp ứng yêu cầu triển khai toàn diện công tác dân số, tập trung vào việc thực hiện các mục tiêu: duy trì mức sinh thay thế, đưa tỉ số giới tính khi sinh về mức cân bằng tự nhiên, tận dụng hiệu quả lợi thế cơ cấu dân số vàng, thích ứng với già hóa dân số, phân bố dân số hợp lý và nâng cao chất lượng dân số.
Cùng với đó, tăng đầu tư từ ngân sách nhà nước, gồm cả ngân sách Trung ương và ngân sách địa phương; đẩy mạnh việc đa dạng hóa các nguồn đầu tư từ cộng đồng, doanh nghiệp, tư nhân cho công tác dân số. Ngân sách nhà nước bảo đảm đáp ứng nhu cầu thiết yếu cho triển khai toàn diện công tác dân số và thực hiện chính sách đối với các đối tượng được nhà nước chi trả.
Đồng thời, bố trí các chương trình, dự án về dân số vào kế hoạch, chương trình đầu tư công. Thực hiện phân bổ kinh phí công khai, có định mức rõ ràng, tập trung cho cơ sở, phù hợp với các vùng, miền, địa phương. Quản lý chặt chẽ và nâng cao hiệu quả sử dụng ngân sách nhà nước đầu tư cho công tác dân số; đẩy mạnh xã hội hóa, huy động các nguồn vốn ngoài ngân sách nhà nước cho công tác dân số; có chính sách khuyến khích các tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân trong và ngoài nước đầu tư xây dựng các cơ sở sản xuất, phân phối, cung cấp các phương tiện, dịch vụ trong lĩnh vực dân số.
Chiến lược nêu rõ, cần phát triển thị trường bảo hiểm, bao gồm bảo hiểm nhà nước, bảo hiểm thương mại theo hướng đa dạng hóa các gói bảo hiểm, với nhiều mệnh giá tương ứng các gói dịch vụ khác nhau bảo đảm các nhóm dân số đặc thù được bình đẳng trong việc tham gia và thụ hưởng các dịch vụ phúc lợi, an sinh xã hội. Nghiên cứu, thí điểm tiến tới hình thành quỹ dưỡng lão trên cơ sở đóng góp của người dân, bảo đảm mọi người đều được chăm sóc khi về già.
Ðồng Bộ Các Giải Pháp Để Bình Thuận Phát Triển Nhanh Và Bền Vững
Ðồng bộ các giải pháp để Bình Th
Ðồng bộ các giải pháp để Bình Thuận phát triển nhanh và bền vững
Giải pháp đạt và vượt chỉ tiêu thu ngân sách 5 năm tới
Theo tham luận của đại biểu Trần Thị Diệu Hoàng – Cục trưởng Cục Thuế tỉnh, 5 năm qua, thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XIII, môi trường đầu tư của tỉnh từng bước được cải thiện, nền kinh tế tỉnh nhà không ngừng phát triển. Đây là tiền đề tiên quyết, quan trọng tạo nguồn thu cơ bản, ổn định lâu dài cho ngân sách, nổi bật là số thu ngân sách hàng năm của tỉnh đều tăng cao, đạt và vượt so chỉ tiêu giao.
Đại biểu Trần Thị Diệu Hoàng
Cụ thể, tổng thu nội địa toàn tỉnh (trừ dầu, xuất nhập khẩu) 5 năm qua ước thực hiện đạt 36.033 tỷ đồng, bằng 116,41% mục tiêu kế hoạch 5 năm (30.950 tỷ đồng). Nếu so kế hoạch Bộ Tài chính giao hàng năm thì từ năm 2016-2019, hàng năm vượt so với kế hoạch từ 3 – 49%. Riêng năm 2020, do tình hình ảnh hưởng bởi dịch Covid-19, trong 9 tháng năm 2020 thu nội địa (trừ dầu) là 5.800 tỷ đồng, đạt 75,81% so dự toán giao và phấn đấu thu đạt dự toán Bộ Tài chính giao…
Bên cạnh kết quả đạt được, Cục Thuế cũng nhận thấy, nguồn thu ngân sách của tỉnh chưa ổn định, số doanh nghiệp có đóng góp lớn cho ngân sách còn ít, hầu hết là doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ, đóng góp ngân sách không cao…
Vì vậy, ngành thuế đề ra một số giải pháp chủ yếu. Trong đó, cần tiếp tục đẩy mạnh các giải pháp đồng bộ để cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh, phát huy các lợi thế để thu hút mạnh các nguồn lực đầu tư trong nước và quốc tế, nhất là những dự án lớn, có quy mô, hiệu quả kinh tế cao, tạo nguồn thu lớn tập trung cho ngân sách. Ưu tiên khuyến khích các nhà đầu tư trên địa bàn tỉnh mở công ty, chi nhánh hạch toán độc lập tại tỉnh để thuận lợi cho việc hỗ trợ doanh nghiệp thực hiện các ưu đãi đầu tư, pháp luật về thuế và thực hiện nghĩa vụ thuế trên địa bàn.
Mặt khác, tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính thuế theo hướng tích cực hỗ trợ cho các doanh nghiệp, thực hiện tốt công tác tư vấn, tuyên truyền về thuế, thường xuyên tổ chức đối thoại với các doanh nghiệp, đẩy mạnh việc thực hiện kê khai nộp thuế qua mạng điện tử. Mặt khác, thực hiện đầy đủ vai trò của cơ quan thuế trong việc nâng cao hiệu lực, hiệu quả Luật Quản lý thuế và hệ thống chính sách pháp luật về thuế, đảm bảo sự cạnh tranh bình đẳng trong kinh doanh. Song song, tăng cường kết nối thông tin, phối hợp chặt chẽ với các ngành, các cấp để có giải pháp hiệu quả nhằm tăng cường khai thác nguồn thu, chống thất thu, phấn đấu đạt dự toán thu hàng năm và trong 5 năm tới, góp phần quan trọng thực hiện thắng lợi các mục tiêu, chỉ tiêu Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XIV đề ra.
Nâng cao trách nhiệm người đứng đầu trong quản lý tài nguyên môi trường
Tham luận từ đại biểu Trần Hữu Thành – Giám đốc Sở Tài nguyên và Môi trường cho rằng, công tác quản lý nhà nước về tài nguyên môi trường có nhiều kết quả tích cực, một số chỉ tiêu đạt và vượt kế hoạch đề ra, góp phần quan trọng trong việc phát triển kinh tế – xã hội của tỉnh. Như hoàn thành việc lập và điều chỉnh quy hoạch sử dụng đất đến năm 2020 của tỉnh; quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất của 10/10 huyện; bán đấu giá quyền sử dụng đất thu nộp ngân sách 1.347 tỷ đồng, tương ứng với diện tích 46,17 ha; hoàn thành xây dựng bảng giá đất cho 5 năm (2015 – 2019), bảng giá đất (2020 – 2024); thông báo bán hồ sơ đấu giá quyền khai thác khoáng sản tại 122 khu vực, cấp 54 giấy phép khai thác khoáng sản vật liệu xây dựng thông thường… Đặc biệt, việc xử lý các vi phạm của các cơ sở gây ô nhiễm môi trường kiên quyết hơn (tăng 378% về số lượng quyết định và 333% về tiền xử phạt); 2/5 điểm nóng về môi trường từ nhiệm kỳ trước đã được giải quyết, không để phát sinh điểm nóng mới.
Tuy nhiên, theo ông Thành công tác quản lý nhà nước về tài nguyên môi trường vẫn còn nhiều hạn chế, như tình trạng vi phạm pháp luật về đất đai diễn ra tại một số địa phương; quy hoạch phân vùng thăm dò, khai thác quặng sa khoáng titan, khu vực dự trữ khoáng sản quặng titan chưa được Trung ương điều chỉnh, tháo gỡ, gây khó khăn trong quản lý, thu hút đầu tư và triển khai các dự án; ô nhiễm môi trường vẫn còn diễn ra…
Để tăng cường quản lý đất đai, khoáng sản và bảo vệ môi trường, nhất là tại những điểm nóng trong thời gian tới, ông Thành cho biết: Trước mắt, cần tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật về tài nguyên môi trường nhằm nâng cao nhận thức cho người dân; tăng cường kiểm tra, giám sát những nội dung trọng điểm, nổi cộm; tăng cường công tác giải quyết thủ tục hành chính đáp ứng nhu cầu của nhân dân; xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm, nâng cao tinh thần trách nhiệm người đứng đầu trong việc quản lý và sử dụng đất đai, tài nguyên môi trường. Còn về lâu dài, xây dựng và kiện toàn bộ máy quản lý, ngành tài nguyên môi trường theo hướng hiện đại hóa trên cơ sở ứng dụng công nghệ hiện đại và mô hình quản lý tiên tiến. Phối hợp thực hiện tốt công tác quy hoạch làm cơ sở phát huy hiệu quả công tác quản lý tài nguyên môi trường; giải quyết và chỉ đạo tham mưu giải quyết tốt những vấn đề nổi cộm, bức xúc mà nhân dân quan tâm…Đối với UBND các cấp, thực hiện nghiêm túc, quyết liệt, đồng bộ các nhiệm vụ đã được giao; đặc biệt là người đứng đầu cấp ủy, chính quyền cấp xã, huyện phải vào cuộc quyết liệt, phát huy vai trò cấp cơ sở, nhất là cấp xã trong quản lý khoáng sản, đất đai, môi trường…
Ưu tiên các nguồn vốn đầu tư vùng đồng bào dân tộc thiểu số
Phát biểu tham luận về tình hình dân sinh, kinh tế – xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số, đại biểu Võ Văn Hòa – Trưởng ban Dân tộc tỉnh trình bày: Qua 5 năm (2015-2020) thực hiện công tác dân tộc và chính sách dân tộc trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số (DTTS), đến nay, 100% xã vùng đồng bào DTTS đã có đường ô tô được nhựa hóa thông suốt đến trung tâm xã; 100% xã được phủ sóng truyền hình, phát thanh; 98% hộ sử dụng điện lưới quốc gia; 88,3% hộ được sử dụng nước sạch, hợp vệ sinh; 17/17 xã thuần đồng bào DTTS có nhà văn hóa… Kết quả giảm nghèo đến đầu năm 2020 (so với năm 2016) là 2.545 hộ, tương ứng giảm 13,02% (bình quân giảm trên 3,25%/năm).
Bên cạnh những mặt đạt được, ông Hòa cho biết: đời sống của một bộ phận đồng bào DTTS còn khó khăn; kết quả giảm nghèo chưa vững chắc. Hiệu lực, hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị ở cơ sở vùng đồng bào DTTS nhìn chung còn hạn chế; hệ thống kết cấu hạ tầng còn thiếu và chưa đồng bộ, một số nơi phát huy chưa tốt, đồng bào chưa hưởng lợi nhiều. Những tập quán sinh hoạt, sản xuất lạc hậu đã hình thành lâu đời trong cộng đồng chậm thay đổi; việc tiếp thu và ứng dụng tiến bộ khoa học – công nghệ vào sản xuất và đời sống vẫn còn nhiều khó khăn, hiệu quả chưa cao.
Ông Hòa cho biết, để tiếp tục đẩy mạnh phát triển kinh tế – xã hội và chăm lo đời sống đồng bào các DTTS trong thời gian tới, cần thực hiện tốt các giải pháp. Cụ thể, tập trung đẩy nhanh tiến độ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho đồng bào; tiếp tục xem xét, giải quyết đất sản xuất cho đồng bào chưa có đất sản xuất hoặc còn thiếu đất sản xuất; đẩy mạnh khuyến nông, khuyến công, khuyến thương thúc đẩy phát triển sản xuất hàng hóa, chuyển đổi cơ cấu sản xuất phù hợp trên từng địa bàn. Bên cạnh, duy trì và phát huy hiệu quả công tác giao khoán quản lý, bảo vệ rừng cho đồng bào DTTS, gắn với nghiên cứu thực hiện chính sách hưởng lợi từ rừng và thực hiện các đề án “Lâm nghiệp xã hội” với các tổ chức, doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực lâm nghiệp, nhằm tạo việc làm, thu nhập cho hộ đồng bào cũng như tham gia vào quá trình phân công sản xuất theo chuỗi giá trị. Bên cạnh đó, đẩy mạnh thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới và giảm nghèo bền vững theo kế hoạch đã đề ra. Đẩy mạnh đầu tư ứng trước và thu hút doanh nghiệp bao tiêu nông sản, hàng hóa của đồng bào. Song song đó, tiếp tục nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, thực hiện tốt các chính sách hỗ trợ học sinh, sinh viên vùng đồng bào DTTS, tăng cường công tác hướng nghiệp, đào tạo nghề, giải quyết việc làm. Đẩy mạnh công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân, thực hiện tốt việc cấp thẻ bảo hiểm y tế miễn phí cho đồng bào DTTS theo quy định, chú ý làm tốt công tác tuyên truyền, giáo dục, nâng cao ý thức giữ gìn vệ sinh môi trường và phòng chống dịch bệnh…
Hướng tới xây dựng đô thị Phan Thiết: Thông minh, hiện đại, xanh, sạch, đẹp và giàu bản sắc
Xác định nhiệm kỳ 2020 – 2025 có ý nghĩa hết sức quan trọng, Đảng bộ TP. Phan Thiết sẽ phát huy cao độ sức mạnh tổng hợp, đổi mới mạnh mẽ tư duy phát triển. Cùng với đó, chủ động, sáng tạo trong cách nghĩ, cách làm để xây dựng TP. Phan Thiết xứng tầm là đô thị trung tâm, là thành phố văn minh, hiện đại, góp phần xây dựng tỉnh Bình Thuận phát triển nhanh, bền vững. Trên tinh thần đó, TP. Phan Thiết thực hiện công tác quản lý quy hoạch, quản lý đô thị. Đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng đô thị đồng bộ theo hướng đô thị văn minh, thân thiện. Tập trung nâng cấp hạ tầng kỹ thuật đô thị, nhất là các dự án xử lý nước thải, rác thải. Xây dựng mới các khu tái định cư, khu dân cư tập trung nhằm phát triển đô thị Phan Thiết theo hướng “xanh – sạch – đẹp”. Phan Thiết phải có giải pháp để nâng cao các danh hiệu đã đạt được, đi đầu trong mọi phong trào, chủ trương lớn của tỉnh, đi đầu trong huy động đầu tư để phát triển kinh tế – xã hội.
Đặc biệt, sớm nghiên cứu quy hoạch mở rộng không gian thành phố đến năm 2030 và xây dựng cơ chế quản lý phù hợp để phát triển thương hiệu du lịch Mũi Né – Phan Thiết xứng với địa danh được thiên nhiên ban tặng. Hướng tới xây dựng đô thị Phan Thiết: “Thông minh, hiện đại, xanh, sạch, đẹp và giàu bản sắc”. Bên cạnh đó, với vai trò là trung tâm, tạo động lực thúc đẩy Bình Thuận phát triển nhanh, bền vững, phải gắn kết 3 trụ cột của Bình Thuận, đó là năng lượng, du lịch và nông nghiệp sạch. Cùng với đó, chú ý phát triển kinh tế thủy sản gắn với kinh tế du lịch và đảm bảo quốc phòng, an ninh. Mặt khác, chủ động tranh thủ tối đa các nguồn lực xã hội hóa để tập trung đầu tư xây dựng, nâng cấp hạ tầng du lịch theo hướng đồng bộ, hiện đại. Tập trung đầu tư kết cấu hạ tầng phục vụ chiến lược phát triển du lịch, nhất là giao thông kết nối từ đường bộ cao tốc, Cảng hàng không Phan Thiết đến Khu du lịch Tiến Thành, Khu du lịch Quốc gia Mũi Né.
Huy động tối đa các nguồn lực cho đầu tư phát triển đạt trên 250.000 tỷ đồng
Tham luận tại đại hội, đại biểu Nguyễn Văn Phong – Giám đốc Sở Kế hoạch và Đầu tư cho biết: Thực hiện đồng hành, tháo gỡ khó khăn, tạo lập môi trường kinh doanh thuận lợi nhất cho các nhà đầu tư, các doanh nghiệp phát triển thành công, tỉnh Bình Thuận đã đẩy mạnh công tác cải cách thủ tục hành chính, đặc biệt đã thành lập Trung tâm hành chính công tỉnh Bình Thuận với mục tiêu tập trung rút ngắn thời gian xử lý hồ sơ, rà soát, hoàn thiện các quy trình, loại bỏ các thủ tục hành chính chồng chéo, phức tạp trong một số lĩnh vực. Mặt khác, trong giai đoạn này, việc thu hút đầu tư tập trung ở lĩnh vực công nghiệp – xây dựng, chiếm 70% về tổng vốn thu hút đầu tư. Lũy kế đến nay, toàn tỉnh có 1.572 dự án đầu tư ngoài ngân sách còn hiệu lực với tổng vốn đăng ký trên 319.000 tỷ đồng, trong đó vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI có 114 dự án, tổng vốn đăng ký trên 3,3 tỷ USD. Bên cạnh đó, tỉnh cũng đã hoàn thành việc sắp xếp các doanh nghiệp nhà nước theo chủ trương của Chính phủ, các doanh nghiệp nhà nước sau sắp xếp hoạt động ổn định, từng bước phát huy hiệu quả tốt hơn.
Đại biểu Nguyễn Văn Phong
Để huy động tối đa các nguồn lực cho đầu tư phát triển trong 5 năm tới đạt trên 250.000 tỷ đồng, đại biểu Nguyễn Văn Phong – Giám đốc Sở Kế hoạch và Đầu tư đưa ra 3 giải pháp. Đó là tiếp tục đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, phấn đấu rút ngắn thời gian của tất cả các thủ tục dưới 2/3 thời gian quy định, nâng cao chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI) tập trung vào các tiêu chí giảm điểm như: Gia nhập thị trường, chi phí thời gian, chi phí không chính thức. Thực hiện quyết liệt các giải pháp cải thiện và nâng cao các chỉ số về cải cách hành chính (PAR index), Chỉ số hiệu quả quản trị và hành chính công cấp tỉnh (PAPI) và Chỉ số hài lòng của người dân, tổ chức đối với sự phục vụ của cơ quan hành chính nhà nước (SIPAS). Phấn đấu tỷ lệ hài lòng của người dân đối với sự phục vụ của các cơ quan hành chính nhà nước hàng năm trên 85%.
Song song đó, cần phải cải thiện môi trường đầu tư, tạo môi trường hấp dẫn để thu hút các nguồn vốn đầu tư ngoài ngân sách và vốn đầu tư nước ngoài, hướng vào các nhà đầu tư lớn, có năng lực. Quan tâm giải quyết các khó khăn, vướng mắc đối với từng dự án cụ thể, nhất là các dự án đầu tư ngoài ngân sách nhà nước chậm triển khai để có biện pháp tháo gỡ, xử lý theo quy định. Bên cạnh đó, đẩy mạnh phát triển các thành phần kinh tế, khuyến khích khởi nghiệp, phát triển kinh tế tư nhân. Ưu tiên thu hút các nhà đầu tư chiến lược, các doanh nghiệp lớn đầu tư vào Bình Thuận, đóng vai trò là một “trụ cột” phát triển kinh tế của tỉnh. Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về kinh tế tập thể. Thực hiện đầy đủ, kịp thời các chính sách hỗ trợ phát triển hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã và các hình thức liên kết, hợp tác sản xuất gắn với chế biến, tiêu thụ nông sản theo chuỗi giá trị. Xây dựng và nhân rộng các mô hình, điển hình về kinh tế tập thể tiên tiến, có hiệu quả.
K.Hằng – T.Thủy – T.Hà – T.Nhàn
Bạn đang đọc nội dung bài viết Đại Hội Thảo Luận Tập Trung Các Giải Pháp Đưa Đất Nước Phát Triển Nhanh Và Bền Vững trên website Photomarathonasia.com. Hy vọng một phần nào đó những thông tin mà chúng tôi đã cung cấp là rất hữu ích với bạn. Nếu nội dung bài viết hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!