Đề Xuất 3/2023 # Công Tác Xây Dựng, Thực Thi Pháp Luật Về Dân Tộc Thiểu Số, Miền Núi Tại Tây Nguyên # Top 10 Like | Photomarathonasia.com

Đề Xuất 3/2023 # Công Tác Xây Dựng, Thực Thi Pháp Luật Về Dân Tộc Thiểu Số, Miền Núi Tại Tây Nguyên # Top 10 Like

Cập nhật nội dung chi tiết về Công Tác Xây Dựng, Thực Thi Pháp Luật Về Dân Tộc Thiểu Số, Miền Núi Tại Tây Nguyên mới nhất trên website Photomarathonasia.com. Hy vọng thông tin trong bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu ngoài mong đợi của bạn, chúng tôi sẽ làm việc thường xuyên để cập nhật nội dung mới nhằm giúp bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.

    Việt Nam là quốc gia có 54 dân tộc anh em. Theo số liệu Tổng cục Thống kê ngày 01/4/2019, người Kinh chiếm 85,3% dân số, 53 dân tộc thiểu số chiếm 14,7% dân số. Các dân tộc Việt Nam có truyền thống đoàn kết, cùng chung vận mệnh lịch sử, từ lâu đời đã sớm có ý thức gắn bó với nhau trong chinh phục thiên nhiên, chống giặc ngoại xâm, xây dựng đất nước. Sự đoàn kết giữa các cộng đồng dân tộc đã tạo lên một quốc gia dân tộc bền vững, thống nhất. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, truyền thống đoàn kết các dân tộc ngày càng được củng cố và phát triển. Các dân tộc thiểu số (DTTS) sinh sống chủ yếu ở miền núi, với địa bàn rộng lớn chiếm 3/4 diện tích cả nước, bao gồm khu vực biên giới, có vị trí chiến lược đặc biệt quan trọng về chính trị, kinh tế, quốc phòng và môi trường sinh thái. Các DTTS ở nước ta có số lượng dân cư không đều, sống xen kẽ, không có dân tộc nào ở vùng lãnh thổ riêng, tạo điều kiện thuận lợi để các dân tộc tăng cường hiểu biết, đoàn kết, tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau cùng phát triển. Các DTTS có trình độ dân trí, trình độ phát triển kinh tế – xã hội không đều nhau (do rất nhiều nguyên nhân khác nhau), có sắc thái văn hóa phong phú và đa dạng, nhưng thống nhất trong bản sắc văn hóa của cộng đồng các dân tộc Việt Nam.

Đoàn công tác của Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng làm việc tại Đắk Lắk

    Những năm đổi mới, thực hiện chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta đã đạt được những thành tựu hết sức to lớn trong tất cả lĩnh vực đời sống xã hội. Quyền bình đẳng giữa các dân tộc đã được thực hiện đầy đủ trong mọi lĩnh vực hoạt động xã hội. Đoàn kết giữa các dân tộc tiếp tục được củng cố. Kinh tế vùng dân tộc và miền núi có bước phát triển đáng kể, tốc độ tăng trưởng kinh tế hàng năm cao (trung bình 8% năm). Nền kinh tế nhiều thành phần bước đầu hình thành và phát triển, chuyển dịch theo hướng sản xuất hàng hóa. Đã hình thành nhiều vùng chuyên canh cây trồng, sản xuất với số lượng hàng hóa lớn. Kết cấu hạ tầng vùng dân tộc và miền núi đã được cải thiện rõ rệt, góp phần đắc lực phục vụ cho sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội và nâng cao đời sống của đồng bào các dân tộc. Công tác xóa đói giảm nghèo đạt được kết quả to lớn. Đời sống của đồng bào các dân tộc được cải thiện đáng kể. Các lĩnh vực xã hội đạt được những kết quả quan trọng: Mặt bằng dân trí được nâng cao. Vùng dân tộc và miền núi đã hoàn thành phổ cập giáo dục tiểu học và xóa mù chữ. Hệ thống trường phổ thông dân tộc nội trú được hình thành và phát triển từ Trung ương đến các huyện vùng dân tộc và miền núi; đời sống văn hóa của đồng bào các dân tộc được nâng cao một bước, văn hóa truyền thống của các dân tộc thiểu số được tôn trọng, bảo tồn và phát huy. Hệ thống phát thanh, truyền hình ở vùng dân tộc và miền núi không ngừng phát triển; các loại dịch bệnh cơ bản được ngăn chặn. Việc khám chữa bệnh cho người nghèo vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn ngày càng được quan tâm với nhiều chính sách ưu tiên. Hệ thống chính trị vùng dân tộc và miền núi được tăng cường và củng cố, nhất là ở cấp cơ sở. Công tác phát triển Đảng trong vùng đồng bào dân tộc được chú trọng. Tình hình chính trị, trật tự xã hội ở vùng dân tộc và miền núi cơ bản ổn định; quốc phòng, an ninh được giữ vững. 

    Tuy nhiên, vùng dân tộc ở nước ta hiện nay còn có những khó khăn, thách thức cơ bản như sau: Đa số vùng nông thôn, nơi các DTTS sinh sống tập trung chưa được quy hoạch, xa các trung tâm huyện, tỉnh. Các tỉnh có đông đồng bào DTTS sinh sống là những tỉnh trong nhóm nghèo và nghèo nhất cả nước, xa các trung tâm động lực phát triển các khu vực; tài nguyên môi trường vùng miền núi biến đổi mạnh, nhanh. Rừng tự nhiên bị tàn phá ngày càng nghiêm trọng, tính đa dạng sinh học của nhiều vùng rừng quý nhất của nước ta đang mất dần; nguồn nước mặt và nước ngầm có dấu hiệu đang cạn kiệt dần, nguồn nước có nguy cơ bị ô nhiễm nặng. Tài nguyên khoáng sản ở nhiều nơi bị khai thác bừa bãi. Còn nhiều vùng kinh tế chậm phát triển, chưa tương xứng với tiềm năng; cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động chuyển dịch chậm. Tập quán sản xuất, công cụ thô sơ, lạc hậu, năng suất lao động rất thấp. Chất lượng giáo dục, chất lượng nguồn nhân lực hạn chế. Nguồn nhân lực lao động qua đào tạo trong các DTTS rất thấp, chỉ khoảng 5% đến dưới 10%, cá biệt có nhóm chỉ 1-2%. Bản sắc văn hóa của nhiều dân tộc đang đứng trước nguy cơ mai một dần. Những tập tục lạc hậu, mê tín dị đoan vẫn còn tồn tại ở một số vùng sâu, vùng xa. Việc tiếp cận các dịch vụ y tế mặc dù được cải thiện nhưng chất lượng còn thấp. Chất lượng dân số về thể chất, trí tuệ, tinh thần của một số dân cư trong cộng đồng và những làng, bản ở vùng sâu, vùng xa, vùng cao rất thấp so với các chỉ số phát triển trung bình của các địa phương ở từng tiêu chí. Do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan, diện tích đất ở, đất sản xuất, đất phục vụ cho cộng đồng của đồng bào DTTS ở nhiều nơi đã và đang bị thu hẹp dần cả về tương đối và tuyệt đối. Số lượng và chất lượng đội ngũ cán bộ người DTTS ở các ngành, các cấp còn rất hạn chế, nhất là ở cấp Trung ương, các ngành quản lý kinh tế, cán bộ giữ vị trí quản lý từ cấp vụ trở lên. Trong khi cấp cơ sở ở nhiều vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn và đặc biệt khó khăn, đội ngũ cán bộ còn nhiều hạn chế về văn hóa, về tri thức, kiến thức nghiệp vụ chuyên môn, về năng lực, kỹ năng thực thi nhiệm vụ. Tình hình tôn giáo, tín ngưỡng ở các vùng DTTS diễn biến rất đa dạng và có không ít nơi không bình thường; có nơi tôn giáo đã và đang bị kẻ xấu lợi dụng để tập hợp lực lượng, kích động phá hoại đoàn kết dân tộc, chống Đảng, chống chế độ, đòi ly khai… Các tổ chức phản động trong và ngoài nước tìm mọi cách lợi dụng những khó khăn phức tạp trong vùng DTTS để kích động, tập hợp lực lượng gây bất ổn về an ninh chính trị, trật tự xã hội(4)…

    2. Tây Nguyên có diện tích tự nhiên trên 54.641 km2 (chiếm 16,51% diện tích cả nước); đường biên giới phía Tây giáp nước Lào và Campuchia khoảng 400 km; khí hậu nhiệt đới ẩm của cao nguyên ôn hòa, khô, mát, ít bão và sương muối, phân hóa thành nhiều tiểu vùng và thay đổi theo từng khu vực; là thượng nguồn sinh thủy của các sông Mê Kông, sông Ba, sông Đồng Nai… Trước năm 1975 có 12 dân tộc tại chỗ. Ở Tây Nguyên hiện nay có đủ 54 dân tộc cùng sinh sống (7). Tây Nguyên được xác định có vị trí chiến lược đặc biệt quan trọng, là vùng địa sinh thái giàu tài nguyên và là vùng địa văn hóa, đa dân tộc, đa tôn giáo, giàu bản sắc. Đảng và Nhà nước ta chủ trương nhất quán xây dựng Tây Nguyên thành địa bàn vững chắc về an ninh, quốc phòng và tiến tới trở thành vùng kinh tế trọng điểm của cả nước. Thực hiện chủ trương trên, trong suốt quá trình xây dựng và bảo vệ vùng Tây Nguyên từ ngày giải phóng đất nước năm 1975 đến nay, các bộ, ngành Trung ương và địa phương đã cử nhiều cán bộ, chuyên gia, nhà khoa học ở các lĩnh vực, chuyên ngành khác nhau tham gia khảo sát, nghiên cứu, xây dựng và thực thi pháp luật, chính sách, chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội và bảo đảm an ninh, quốc phòng khu vực Tây Nguyên nói chung và vùng đồng bào DTTS, miền núi nói riêng. Qua đó, góp phần làm thay đổi to lớn diện mạo Tây Nguyên về mọi mặt kinh tế – xã hội, an ninh – quốc phòng.

    Trong lĩnh vực khoa học - công nghệ, đến nay đã có 03 chương trình quan trọng về Tây Nguyên, tập hợp lực lượng đông đảo cán bộ, chuyên gia, nhà khoa học ở Trung ương và địa phương tham gia nghiên cứu, cung cấp kịp thời các luận cứ khoa học để xây dựng các kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội; xây dựng, ban hành các luật và chính sách phục vụ phát triển kinh tế – xã hội, bảo đảm an ninh – quốc phòng vùng Tây Nguyên. Đó là: Chương trình Tây Nguyên 1 “Điều tra tổng hợp về Tây Nguyên” trong các năm 1976-1980; Chương trình Tây Nguyên 2 “Nghiên cứu xây dựng cơ sở khoa học cho quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội Tây Nguyên” những năm 1984-1988; Chương trình Khoa học và Công nghệ trọng điểm cấp Nhà nước giai đoạn 2011-2015 “Khoa học và Công nghệ phục vụ phát triển kinh tế – xã hội Tây Nguyên” (Chương trình Tây Nguyên 3). Chỉ riêng Chương trình Tây Nguyên 3, qua 05 năm thực hiện đã huy động hơn 2.600 nhà khoa học và chuyên gia trong các tổ chức khoa học thuộc 12 bộ, ngành ở Trung ương và địa phương tham gia; thực hiện 62 đề tài và 05 nhiệm vụ độc lập, trong đó, có 21 đề tài thuộc lĩnh vực khoa học xã hội và an ninh, quốc phòng, 31 đề tài thuộc lĩnh vực khoa học tự nhiên và phòng, chống thiên tai, 11 đề tài thuộc lĩnh vực khoa học công nghệ; đáp ứng 04 mục tiêu cơ bản: Cung cấp luận cứ khoa học và cơ sở dữ liệu cho phát triển kinh tế – xã hội bền vững khu vực Tây Nguyên; ứng dụng chuyển giao công nghệ thích hợp nhằm tạo các sản phẩm hàng hóa nâng cao hiệu quả kinh tế trong khai thác sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên khu vực Tây Nguyên, bước đầu đề xuất mô hình phát triển bền vững cho Tây Nguyên. Trong nhiệm vụ an ninh – quốc phòng của Tây Nguyên, các vấn đề an ninh truyền thống và an ninh phi truyền thống như an ninh lương thực, an ninh nguồn nước, an ninh môi trường đã được chú ý nghiên cứu sâu, toàn diện với nhiều kết quả cập nhật phục vụ cho xây dựng các luận cứ khoa học. Các dữ liệu về văn hóa và biến đổi văn hóa, tôn giáo, dân tộc, dân cư, đào tạo đã cung cấp những luận cứ và giải pháp cho phát triển kinh tế – xã hội bền vững Tây Nguyên(8).    

    Thực hiện Nghị quyết của Trung ương, Kết luận của Bộ Chính trị, Nghị quyết của Quốc hội về công tác dân tộc trong tình hình mới, việc đẩy mạnh phát huy sự đóng góp của các chuyên gia, nhà khoa học tham gia xây dựng, phổ biến, giáo dục và thực thi pháp luật, thực hiện chính sách phát triển kinh tế – xã hội, bảo đảm an ninh – quốc phòng đối với vùng dân tộc, miền núi, trong đó có vùng Tây Nguyên là hết sức cần thiết và cấp bách trong thời gian tới.

(1) Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb CTQG, H.1995, t.9, tr.181-182.

(2) PGS. TS. Hoàng Văn Tú, TS. Nguyễn Cao Thịnh, Ủy ban Dân tộc; TS. Hoàng Thị Hương, Đại học Kinh tế:

“Thực trạng của việc Quốc hội quyết định chính sách dân tộc hiện nay và một số khuyến nghị”, tháng 7/2019.

(3) TS. Phan Văn Hùng, Thứ trưởng, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Dân tộc: “Một số vấn đề đặt ra trong thực tiễn

chính sách dân tộc hiện nay cần vai trò quyết định của Quốc hội”, tháng 7/2019.

(4) Đề án “Thể chế hóa chủ trương, đường lối công tác dân tộc của Đảng, thực hiện Khoản 5, Điều 70, Hiến

pháp năm 2013 Quốc hội quyết định chính sách dân tộc của Nhà nước” của Đảng đoàn Quốc hội; Hội thảo tại

Hà Nội ngày 25/7/2019.

(5) Tài liệu đã dẫn như trên.

(6) Tài liệu Hội nghị tổng kết 05 năm thực hiện Nghị định số 05/2011/NĐ-CP, ngày 14/01/2011 của Thủ tướng

Chính phủ về công tác dân tộc.

(7) GS. TS. Trình Quang Phú: “Luận bàn về văn hóa Tây Nguyên” trong giá trị văn hóa truyền thống Tây

Nguyên với phát triển bền vững, Nxb CTQG-ST, H.2016, tr.37.

(8) Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam, Chương trình khoa học và công nghệ trọng điểm cấp nhà

nước giai đoạn 2011-2015 (Chương trình Tây Nguyên 3): Báo cáo tổng kết chương trình, Hà Nội, năm 2016.

Trần Quốc Cường

(Ủy viên Trung ương Đảng, Phó trưởng Ban Nội chính Trung ương)

Phát Triển Bền Vững Vùng Đồng Bào Dân Tộc Thiểu Số Và Miền Núi

Ngày 30/10, thay mặt Bộ Chính trị, đồng chí Trần Quốc Vượng, Ủy viên Bộ Chính trị, Thường trực Ban Bí thư đã ký ban hành Kết luận số 65-KL/TW về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 24-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá IX về công tác dân tộc trong tình hình mới.

Đẩy mạnh công tác tuyên truyền ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi; tăng cường đồng thuận xã hội; củng cố lòng tin của đồng bào với Đảng và Nhà nước, phát huy nội lực, vượt qua khó khăn, thách thức, hoà nhập phát triển cùng với đất nước.

Khai thác tiềm năng, lợi thế để phát triển

Phát huy mọi nguồn lực, khai thác tiềm năng, lợi thế để phát triển bền vững vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi; bảo đảm quốc phòng – an ninh; giữ gìn, phát huy bản sắc văn hoá tốt đẹp của các dân tộc. Tập trung giải quyết có hiệu quả những vấn đề bức thiết. Rà soát, lồng ghép, sửa đổi, bổ sung chính sách; nâng cao hiệu quả các chương trình, dự án; tăng cường hợp tác quốc tế, đa dạng hoá và xã hội hoá nguồn lực để đầu tư phát triển vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi. Thúc đẩy đào tạo nghề, tạo việc làm, nâng cao hiệu quả và mở rộng vốn tín dụng ưu đãi đối với các dự án phát triển sản xuất, kinh doanh.

Đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng sản xuất hàng hoá, phát huy thế mạnh của địa phương, phù hợp với văn hoá, tập quán từng dân tộc. Hình thành và phát triển các vùng chuyên canh cây trồng, vật nuôi có năng suất, chất lượng cao; nhân rộng các mô hình sản xuất hiệu quả, tạo sản phẩm đặc sản, giá trị cao. Chú trọng phát triển liên vùng, rút ngắn khoảng cách phát triển giữa các vùng. Quan tâm phát triển du lịch, nhất là du lịch sinh thái, gắn kết du lịch với giữ gìn, phát huy giá trị văn hoá các dân tộc thiểu số.

Tập trung giải quyết cơ bản tình trạng thiếu đất sản xuất, đất ở, nhà ở, nước sinh hoạt và tranh chấp, khiếu kiện về đất đai; đẩy nhanh việc hoàn thành các dự án định canh, định cư mới gắn với quy hoạch sắp xếp, ổn định dân cư, hạn chế và tiến tới chấm dứt tình trạng di cư tự phát. Đến năm 2025, giải quyết cơ bản tình trạng thiếu đất sản xuất, đất ở cho đồng bào. Điều chỉnh cơ chế, chính sách, định mức khoán bảo vệ rừng, tạo sinh kế cho người dân sống gần rừng, bảo vệ môi trường sinh thái, không gian sinh sống của đồng bào.

Ưu tiên nguồn lực nhà nước để đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế – xã hội, nhất là đường giao thông, công trình thuỷ lợi, chợ, trường học, trạm y tế, nhà văn hoá phải được kiên cố hoá; bảo đảm các hộ gia đình dân tộc thiểu số được sử dụng điện lưới quốc gia, dịch vụ phát thanh, truyền hình, viễn thông, tiếp cận công nghệ thông tin phục vụ nhu cầu sản xuất, sinh hoạt. Ban hành tiêu chí nông thôn mới phù hợp với vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi. Phấn đấu đến năm 2030 không còn địa bàn khó khăn.

Nâng cao chất lượng cuộc sống đồng bào dân tộc thiểu số

Phát triển đồng bộ các lĩnh vực giáo dục, y tế, văn hoá, xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi. Nâng cao chất lượng công tác giáo dục và đào tạo đối với vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi. Giữ vững và phát huy thành quả xoá mù chữ, phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em 5 tuổi, phổ cập giáo dục tiểu học và trung học cơ sở. Nâng cao chất lượng và mở rộng hệ thống các trường phổ thông dân tộc nội trú, bán trú; hỗ trợ việc ăn, ở cho học sinh, sinh viên vùng địa bàn đặc biệt khó khăn.

Đổi mới phương thức tuyển sinh theo hướng cử tuyển, chế độ dự bị đại học, đào tạo nghề cho đối tượng người dân tộc thiểu số. Có chính sách giải quyết việc làm đối với thanh niên dân tộc thiểu số sau khi tốt nghiệp đại học, cao đẳng và đào tạo nghề; có cơ chế chăm lo đời sống cho đội ngũ giáo viên, cán bộ quản lý giáo dục công tác ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi.

Nâng cao tỉ lệ khám, chữa bệnh và chất lượng các dịch vụ y tế, nhất là khám, chữa bệnh ban đầu ở tuyến cơ sở; phát triển y học dân tộc kết hợp với y học hiện đại; đẩy mạnh phát triển y tế dự phòng; thực hiện các giải pháp đồng bộ. Tạo điều kiện cho đồng bào dân tộc thiểu số tiếp cận dịch vụ y tế, khám, chữa bệnh ở tuyến Trung ương thông qua chính sách bảo hiểm y tế.

Có biện pháp triển khai đầy đủ, kịp thời các chương trình tiêm chủng mở rộng, dinh dưỡng và an toàn thực phẩm. Xây dựng và thực hiện chiến lược về phòng, chống suy dinh dưỡng ở trẻ em, nâng cao sức khoẻ, tầm vóc thanh, thiếu niên dân tộc thiểu số. Quan tâm đào tạo, phát triển nguồn nhân lực y tế, có cơ chế đào tạo cán bộ có trình độ chuyên sâu là đồng bào dân tộc thiểu số ở địa phương.

Nâng cao mức hưởng thụ văn hoá của người dân. Đầu tư xây dựng hệ thống thiết chế văn hoá cơ sở ở từng vùng, từng địa phương; quan tâm tu bổ, bảo tồn các công trình di tích lịch sử, văn hoá; sưu tầm, bảo tồn và phát huy có hiệu quả giá trị văn hoá vật thể và phi vật thể của các dân tộc thiểu số. Phát huy vai trò làm chủ của đồng bào trong xây dựng đời sống văn hoá, xoá bỏ các hủ tục lạc hậu. Có biện pháp quyết liệt để xoá bỏ tình trạng tảo hôn, chấm dứt sớm hôn nhân cận huyết thống.

Bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và thực hiện nghiêm pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo. Phát huy vai trò tích cực của người có uy tín trong đồng bào dân tộc thiểu số. Đấu tranh với các hoạt động lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo ảnh hưởng đến an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội.

Cán bộ nữ người dân tộc thiểu số tỉnh Hòa Bình tại Hội thảo “Thách thức và giải pháp để phụ nữ DTTS không bị bỏ lại phía sau”. (Ảnh: Minh Châu)

Phát triển nguồn nhân lực và xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số

Xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh nhân dân gắn với thế trận lòng dân vững chắc ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi. Nâng cao chất lượng hoạt động của tổ chức đảng, chính quyền, đoàn thể nhân dân, đội ngũ cán bộ cơ sở ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi. Tăng cường phát triển đảng viên là người dân tộc thiểu số và khắc phục tình trạng không có tổ chức đảng và đảng viên ở các thôn, bản, nhất là đảng viên là người dân tộc thiểu số ở những vùng trọng điểm, vùng đặc biệt khó khăn, vùng biên giới…

Tập trung phát triển nguồn nhân lực và xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số. Người đứng đầu cấp uỷ, chính quyền, cơ quan, đơn vị phải chịu trách nhiệm về quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, bố trí, sử dụng hợp lý đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số; có giải pháp cụ thể, hiệu quả để bảo đảm tỉ lệ cán bộ dân tộc thiểu số trong cấp uỷ và các cơ quan dân cử các cấp. Có chính sách đặc thù tuyển dụng công chức, viên chức đối với dân tộc thiểu số rất ít người, nhóm dân tộc thiểu số ở vùng có điều kiện kinh tế – xã hội đặc biệt khó khăn. Chú trọng phát hiện, quy hoạch, bồi dưỡng, đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao và thực hiện tốt chính sách tuyển dụng, sử dụng, đãi ngộ cán bộ là người dân tộc thiểu số.

Có cơ chế để phụ nữ dân tộc thiểu số tiếp cận tốt hơn dịch vụ công, dịch vụ xã hội thiết yếu. Quan tâm tạo nguồn cán bộ nữ dân tộc thiểu số; hỗ trợ nâng cao năng lực để tham gia vị trí quản lý lãnh đạo trong các cơ quan, tổ chức của hệ thống chính trị…../.

Thực Hiện Chính Sách Giáo Dục Đối Với Học Sinh Dân Tộc Thiểu Số Ở Tây Nguyên

Tóm tắt: Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước đã đầu tư nguồn lực lớn để phát triển kinh tế – xã hội gắn với chính sách dân tộc ở Tây Nguyên. Xác định “giáo dục, đào tạo là quốc sách hàng đầu”, nhiều chủ trương, chính sách phát triển giáo dục, đào tạo cho Tây Nguyên được Đảng, Nhà nước ta ban hành, tạo tiền đề, động lực cho sự phát triển bền vững của khu vực. Tuy nhiên, chính sách giáo dục đối với học sinh dân tộc thiểu số nói chung, dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên nói riêng vẫn đang đối diện với nhiều thách thức, cần phải được tiếp tục hoàn thiện trong thời gian tới.

Từ khóa: chính sách giáo dục, giáo dục dân tộc, học sinh dân tộc thiểu số, Tây Nguyên

Abstract: The Communist Party and State have used huge resources for socio-economic developments in association with the ethnic policy in the Central Highlands. It is defined “education and training as the top national policy”, and a series of specific guidelines and policies on ethnic minority education have been released to support and encourage the sustainable developments of Central Highlands. However, the ethnic education policy is still facing many challenges, still cannot solve all the local difficulties and it needs to be further reviewed and improved in coming time.

Key words: Education policy; ethnic education; pupils of ethnic minorities; Central Highlands

1. Chính sách phát triển giáo dục đối với học sinh dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên

Hệ thống chính sách về phát triển giáo dục, đào tạo của Nhà nước được ban hành và thực hiện đối với học sinh dân tộc thiểu số(DTTS) ở Tây Nguyên gồm 2 nhóm: chính sách quốc gia có phạm vi, hiệu lực trên toàn quốc (trong đó có các đối tượng điều chỉnh hoạt động trên địa bàn Tây Nguyên) và chính sách đặc thù được ban hành và có hiệu lực riêng đối với Tây Nguyên.

Thời gian qua, Đảng, Nhà nước ta đã ban hành những chính sách về phát triển giáo dục, đào tạo dành riêng cho Tây Nguyên. Nghị quyết số 10-NQ/TW, ngày 18/01/2002 của Bộ Chính trị (khóa IX) về “Phát triển kinh tế – xã hội và đảm bảo quốc phòng, an ninh vùng Tây Nguyên thời kỳ 2001- 2010”; Quyết định số 1951/QĐ-TTg ngày 01/11/2011 của Thủ tướng Chính phủ ban hành về phát triển giáo dục, đào tạo và dạy nghề các tỉnh Tây Nguyên và các huyện miền núi của các tỉnh giáp Tây Nguyên giai đoạn 2011 – 2015; Quyết định số 276/QĐ-TTg ngày 18/2/2014 của Thủ tướng về Kế hoạch triển khai thực hiện Kết luận số 12-KL/TW ngày 24/10/2011 của Bộ Chính trị về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 10-LK/TW của Bộ Chính trị (khóa IX) phát triển vùng Tây Nguyên thời kỳ 2011-2020; Nghị quyết số 46/NQ-CP ngày 09/6/2017 của Chính phủ về tiếp tục thực hiện các chính sách được quy định tại Quyết định số 1951/QĐ-TTg đến hết ngày 31/12/2020. Đó là những chủ trương, chính sách lớn của Đảng, Nhà nước đối với giáo dục và đào tạo vùng Tây Nguyên.

Bên cạnh các chính sách của trung ương, chính quyền địa phương các tỉnh Tây Nguyên còn ban hành các chính sách hỗ trợ riêng của mình (với nguồn tài chính từ ngân sách tỉnh). Điển hình là Ủy ban nhân dân (UBND) tỉnh Kon Tum trong việc thực hiện Quyết định số 112/2007/QĐ-TTg hỗ trợ tiền ăn cho học sinh trong các trường dân tộc bán trú; Quyết định số 143/QĐ-UB ngày 26/01/2010 của UBND tỉnh Đăk Nông về chính sách hỗ trợ kinh phí cho học sinh, sinh viên người DTTS tỉnh Đăk Nông; Nghị quyết số 31/2016/NQ-HĐND ngày 06/9/2016 của Hội đồng nhân dân tỉnh về việc ban hành chính sách hỗ trợ học sinh, sinh viên DTTS thuộc diện hộ nghèo, hộ cận nghèo tỉnh Đăk Nông từ năm học 2016-2017 đến năm học 2020-2021; tỉnh Đăk Lăk triển khai thực hiện các chính sách hỗ trợ cho học sinh ở các trường phổ thông DTNT, bán trú, học sinh học tiếng Êđê, giáo viên dạy tiếng Êđê, thực hiện chính sách hỗ trợ sách giáo khoa cho học sinh nghèo …

2. Kết quả thực hiện chính sách giáo dục đối với học sinh dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên 2.1 Những kết quả đạt được

Những chính sách trên đã thể hiện sự quan tâm của Đảng, Nhà nước ta đối với sự nghiệp giáo dục nói chung và giáo dục dân tộc ở Tây Nguyên nói riêng, thực hiện công bằng trong giáo dục, nâng cao mặt bằng dân trí, là động lực quan trọng nhằm thúc đẩy sự phát triển bền vững Tây Nguyên.

Nhìn chung, các chính sách phát triển giáo dục dân tộc đã được các địa phương tổ chức triển khai thực hiện nghiêm túc, kịp thời; vì vậy thời gian qua mặc dù còn đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức nhưng sự nghiệp giáo dục Tây Nguyên đã thu được nhiều kết quả quan trọng.

Trong vùng DTTS, nhận thức về giáo dục ngày càng chuyển biến rõ nét. Với phương châm có dân sinh là có trường lớp, đến nay phần lớn các thôn, buôn, làng, các xã ở các tỉnh Tây Nguyên đều có nhà trẻ, trường mẫu giáo, trường tiểu học, trung học cơ sở thu hút ngày càng đông các cháu trong độ tuổi đến trường. Phần lớn các trường học ở vùng đồng bào DTTS tại chỗ đều được xây dựng kiên cố, bán kiên cố, không còn tranh tre nứa lá, không còn tình trạng học 3 ca, mà số trường tiểu học tổ chức học 2 buổi/ngày ngày càng tăng lên. Riêng về hệ thống các trường phổ thông DTNT những năm gần đây được đặc biệt quan tâm. Hiện nay tất cả các huyện có từ 10.000 người DTTS trở lên đều có trường phổ thông DTNT. Năm học 2016 – 2017, Tây Nguyên có 59 trường phổ thông DTNT (tăng 15 trường so với năm học 2011 – 2012), trong đó 06 trường cấp tỉnh và 53 trường cấp huyện. Tổng số học sinh phổ thông DTNT Tây Nguyên năm học 2016 – 2017 là 14.454 học sinh (trong đó cấp tỉnh là 3.249 học sinh và cấp huyện là 11.205 học sinh). Tỷ lệ học sinh học trường phổ thông DTNT so với học sinh DTTS cấp trung học của vùng là 7,23% (tăng 0,57% so với năm học 2010 – 2011)[1].

Để tạo điều kiện thuận lợi cho con em đồng bào DTTS ở các địa bàn vùng sâu, vùng xa đến trường, các tỉnh Tây Nguyên cũng chú trọng phát triển về quy mô, mạng lưới trường phổ thông dân tộc bán trú (DTBT). Nếu năm học 2012 -2013, toàn vùng có 5 tỉnh có trường phổ thông DTBT, gồm 81 trường và 10.682 học sinh bán trú, thì đến năm học 2016 -2017, toàn vùng có 97 trường và 12.753 học sinh bán trú. Chất lượng giáo dục của hệ thống trường phổ thông DTBT ngày càng được nâng lên. Năm học 2016-2017, số học sinh hoàn thành cấp tiểu học đạt 98,9%; cấp trung học cơ sở 92%; số học sinh đạt thành tích từ cấp huyện trở lên chiếm 3% ở cả 2 cấp học; số trường đạt chuẩn quốc gia ở cấp tiểu học là 05 trường, cấp trung học cơ sở 01 trường. Kết quả này đã khẳng định chất lượng giáo dục của các trường phổ thông DTBT ở Tây Nguyên đã đạt được nhiều tiến bộ rõ rệt, mặt bằng chất lượng có thể đặt ngang bằng với các trường có điều kiện thuận lợi của vùng[2]. Hệ thống trường phổ thông DTBT đã và đang làm thay đổi tích cực chất lượng giáo dục ở Tây Nguyên hiện nay. Sự phát triển ổn định về quy mô, số lượng và nâng cao chất lượng đã góp phần huy động tối đa học sinh trong độ tuổi tới trường, giảm tỷ lệ học sinh bỏ học, nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện; góp phần quan trọng vào việc cũng cố và duy trì kết quả phổ cập giáo dục tiểu học, phổ cập giáo dục trung học cơ sở, nâng cao dân trí và phát triển nguồn nhân lực vùng DTTS ở Tây Nguyên.

Giáo dục chuyên nghiệp, dạy nghề và đại học cũng được phát triển mạnh. Đến nay, Tây Nguyên có 05 trường đại học, 04 phân hiệu/cơ sở của các trường đại học và 9 trường cao đẳng. Với quy mô sinh viên chính quy tại các trường trên địa bàn của vùng năm học 2016-2017 là 31.386 sinh viên, chiếm 1,77 tổng số sinh viên cả nước (trong đó sinh viên đại học là 19.980 và cao đẳng là 11.406), tỷ lệ sinh viên người DTTS đạt từ 18% -20% trở lên trong tổng số sinh viên của các trường đại học, cao đẳng trong vùng[4].

Một trong những chính sách phát triển giáo dục dân tộc là thực hiện chế độ cử tuyển học sinh dân tộc tốt nghiệp trung học phổ thông vào theo học tại các trường đại học, cao đẳng nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho học sinh dân tộc được tiếp cận giáo dục trình độ cao và tạo nguồn cán bộ DTTS tương lai. Trong những năm qua, đã có hàng nghìn con em đồng bào dân tộc Tây Nguyên được cử tuyển vào học tại các trường đại học, cao đẳng và trung cấp chuyên nghiệp trong vùng và trên cả nước.

Các tỉnh Tây Nguyên thực hiện đầy đủ các chế độ, chính sách đối với học sinh DTTS như cấp miễn phí sách, vở, đồ dùng học tập, bảo hiểm y tế, cấp học bổng, tín dụng cho học sinh, sinh viên, ưu tiên trong tuyển sinh, đào tạo theo địa chỉ sử dụng… Nhờ có các chính sách hỗ này, nhiều con em đồng bào DTTS được học tập, đào tạo, góp phần tăng tỷ lệ các em đến trường. Con em các dân tộc đều có người học đại học, cao đẳng và các trường dạy nghề. Nhiều em đã có những nỗ lực và đạt thành tích cao trong học tập, qua đó đã bổ sung thêm một nguồn lực được đào tạo cơ bản phục vụ cho các vùng đồng bào DTTS.

Thực tế cho thấy, các chính sách của Nhà nước đã đi vào cuộc sống và đạt được nhiều kết quả tích cực, tạo điều kiện thuận lợi cho công tác giáo dục, đào tạo vùng DTTS Tây Nguyên phát triển. Tuy nhiên, chính sách giáo dục dân tộc hiện nay vẫn đang đối diện với nhiều thách thức, vẫn chưa thể giải quyết được hết những khó khăn của địa phương, cụ thể như:

Nhìn chung chất lượng học tập của học sinh DTTS trên địa bàn Tây Nguyên còn thấp, còn có sự chênh lệch lớn về chất lượng giáo dục giữa học sinh người DTTS và học sinh người Kinh. Ở nhiều vùng sâu, vùng xa, khoảng cách từ nhà ở đến trường học còn lớn, nhiều hộ đồng bào dân tộc nghèo còn thói quen đưa con đi rẫy, chưa quan tâm, chăm lo đến việc học tập của con cái.

Cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy học đối với giáo dục mầm non còn thiếu và chưa đồng bộ. Tỷ lệ phòng bán kiên cố còn chiếm quá nửa tổng số phòng học, còn nhiều điểm trường nhỏ lẻ, phân tán. Tỷ lệ nhập học ở bậc mẫu giáo thấp, chỉ đạt 33%, bằng 2/3 mức trung bình của cả nước (khoảng 46,4%)[5]. Tỷ lệ đi học mẫu giáo của các em DTTS thấp dẫn đến việc các cháu chưa được chuẩn bị tốt về kỹ năng nói tiếng Việt trước khi vào lớp 1, khiến các cháu gặp rất nhiều khó khăn khi đi học, làm hạn chế khả năng tiếp thu kiến thức và học tập hòa nhập, là một trong những nguyên nhân dẫn đến tỷ lệ bỏ học cao và ảnh hưởng tiêu cực đến chất lượng học tập của những năm học tiếp theo.

Nguồn lực đầu tư cho giáo dục dân tộc nội trú chưa đáp ứng yêu cầu. Đa số các trường phổ thông DTNT cấp huyện được đầu tư xây dựng từ những năm 80, 90 của thế kỷ trước, nên hầu hết các hạng mục công trình đã xuống cấp trầm trọng; nhiều hạng mục phục vụ cho hoạt động giáo dục và nuôi dưỡng học sinh chưa được đầu tư như: phòng học bộ môn, thư viện, nhà tập đa năng, phòng y tế, công trình vệ sinh, nước sạch… Vì vậy, nhu cầu xây mới, bổ sung, nâng cấp, cải tạo cơ sở vật chất trường phổ thông DTNT của các tỉnh Tây Nguyên rất lớn, trong khi nguồn vốn chủ yếu bố trí từ Chương trình mục tiêu quốc gia giáo dục đào tạo hàng năm rất hạn hẹp. Điều này ảnh hưởng đến chất lượng dạy học và các hoạt động giáo dục của nhà trường.

Việc thực hiện một số chính sách đặc thù về giáo dục, đào tạo ở vùng đồng bào DTTS chưa tốt. Đặc biệt là các chính sách như: cử tuyển, đào tạo theo địa chỉ mặc dù rất thiết thực nhưng triển khai kém, chất lượng đào tạo và sử dụng chưa cao[6]. Nhận thức về chính sách này còn khác nhau nên một số địa phương không mặn mà khi triển khai thực hiện các chính sách này.

Một là, đẩy mạnh công tác tuyên truyền về vai trò của giáo dục dân tộc, nâng cao ý thức tự học của mọi tầng lớp nhân dân Hai là, rà soát các chính sách phát triển giáo dục dân tộc; điều chỉnh, bổ sung cho phù hợp với yêu cầu thực tiễn Bốn là, xây dựng đNăm là, đổi mới chương trình giáo dục các cấp học và nâng cao chất lượng giáo dục đào tạo ộiSáu là, nâng cao chất lượng đời sống mọi mặt cho đồng bào DTTS ngũ giáo viên, giảng viên và cán bộ quản lý giáo dục đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục, đào tạo

Việc triển khai một số chính sách có lúc, có nơi còn chậm trễ, thiếu đồng bộ, thực hiện chưa tốt; một số chính sách đối với giáo viên, nhân viên, học sinh vùng DTTS khó khăn vẫn còn hạn chế, bất cập về đối tượng được hưởng, định mức, thời gian hưởng, phương thức hỗ trợ[7] … hầu hết các địa phương vùng DTTS tỷ lệ hộ nghèo cao, điều kiện kinh tế – xã hội đặc biệt khó khăn, nên mặc dù đã được ưu tiên, nhưng do nguồn lực ngân sách có hạn nên chưa đáp ứng được nhu cầu kinh phí đầu tư thực hiện các mục tiêu giáo dục và đào tạo; vẫn còn thiếu cơ chế, chính sách đặc thù để phát triển giáo dục dân tộc Tây Nguyên.

Triển khai và nâng cao các hoạt động tuyên truyền, vận động đổi mới trong toàn xã hội về vai trò của giáo dục dân tộc đối với công tác xóa đói, giảm nghèo, nâng cao tri thức, nâng cao chất lượng cuộc sống trong vùng đồng bào dân tộc, thúc đẩy sự phát triển bền vững Tây Nguyên. Theo đó, phát triển bền vững phải trên cơ sở nền giáo dục – đào tạo toàn diện, tiên tiến luôn luôn được đổi mới. Cần tăng cường phối hợp với các cơ quan thông tấn báo chí của trung ương và địa phương thực hiện tốt công tác tuyên truyền về các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước đối với phát triển giáo dục dân tộc để có được sự thống nhất từ nhận thức đến hành động của lãnh đạo các cấp và người dân quan tâm, nâng cao ý thức học tập, thúc đẩy sự phát triển giáo dục dân tộc.

Tập trung đầu tư nguồn lực sớm kiên cố hóa, chuẩn hóa cơ sở vật chất trường lớp ở tất cả các cấp học đáp ứng yêu cầu nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện. Các địa phương trong vùng cần rà soát lại mạng lưới các cơ sở giáo dục. Trước mắt cần ưu tiên đầu tư xây dựng trường học mới cho các xã chưa có trường mầm non, khắc phục tình trạng trường học xuống cấp, chú trọng đầu tư cơ sở vật chất các điểm trường lẻ để tăng quy mô huy động trẻ đến lớp, cần phát triển hệ thống trường lớp mầm non đến tận cụm điểm dân cư để tăng tỷ lệ các cháu được đi học mẫu giáo trước khi được vào học lớp 1; ưu tiên nguồn vốn để từng bước hoàn thiện mạng lưới các trường học phổ thông, bảo đảm đáp ứng nhu cầu đi học của học sinh trong độ tuổi. Quy hoạch giáo dục mầm non, phổ thông, giáo dục nghề nghiệp và giáo dục đại học phải đảm bảo tính liên thông, gắn chặt với các chỉ số phân luồng giáo dục, đáp ứng nhu cầu học tập của học sinh DTTS và yêu cầu đào tạo nguồn nhân lực cho phát triển kinh tế – xã hội của địa phương.

Xây dựng quy hoạch, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ quản lý, nhà giáo phù hợp với yêu cầu đổi mới giáo dục. Nâng dần đội ngũ, cán bộ, giáo viên là người DTTS ở các cấp quản lý giáo dục và trong các cơ sở giáo dục; làm tốt công tác cử tuyển; gắn đào tạo với sử dụng, đảm bảo đúng số lượng, cơ cấu, ngành nghề, trình độ, chức danh theo địa chỉ, đảm bảo yêu cầu công tác, xây dựng đội ngũ giáo viên là người DTTS đạt chuẩn. Ở cấp học mầm non, tiểu học có số lượng lớn học sinh DTTS theo học nên bố trí giáo viên đứng lớp là người DTTS, điều này là cần thiết và hợp lý khi nhiều học sinh dân tộc vào lớp Một còn chưa nói thạo hoặc thậm chí chưa biết nói tiếng Việt. Bố trí một phần kinh phí phù hợp từ nguồn ngân sách chi cho đào tạo, bồi dưỡng của địa phương để ưu tiên bồi dưỡng tiếng DTTS cho giáo viên bậc học mầm non và tiểu học công tác tại các vùng đồng bào DTTS. Thực hiện đúng, đầy đủ, kịp thời các chế độ, chính sách cho giáo viên và cán bộ quản lý, đặc biệt phải ưu tiên tối đa cho các nhà giáo đang công tác tại vùng sâu, vùng đặc biệt khó khăn.

Tập trung nghiên cứu cải tiến phương pháp, nội dung, chương trình học và các bộ sách giáo khoa phù hợp với học sinh DTTS. Cả chương trình học cũng như nội dung kiến thức trong sách giáo khoa cần được điều chỉnh theo hướng phù hợp với khả năng của học sinh DTTS, nhất là cấp tiểu học, tạo điều kiện cho các em được tiếp cận ngay với tiếng Việt từ cấp học mầm non và tiểu học nhằm nâng khả năng tiếp thu của các em, góp phần giải quyết tình trạng học sinh bỏ học và không nắm được kiến thức cơ bản. Từng bước đổi mới phương pháp, nâng cao chất lượng dạy học theo hướng phát triển năng lực, phẩm chất người học, tăng cường các hoạt động xã hội, phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh DTTS.

Trong thời gian tới, các tỉnh Tây Nguyên đề nghị Chính phủ tiếp tục chỉ đạo các bộ, ngành xây dựng chính sách về dân tộc, miền núi nói chung, Tây Nguyên nói riêng mang tính tập trung, có nhiều nội dung, giải quyết nhiều mục tiêu với nguồn lực đủ mạnh cho từng vùng. Nhất là ưu tiên giải quyết đất sản xuất, đất ở, nước sinh hoạt, đào tạo nguồn nhân lực, giải quyết việc làm, xuất khẩu lao động; thực hiện chính sách giao đất, giao rừng cho cộng đồng DTTS quản lý để phát triển trồng, chăm sóc, bảo vệ và khai thác rừng hiệu quả; hỗ trợ phát triển sản xuất các sản phẩm nông nghiệp, kết nối thị trường tiêu thụ; hỗ trợ đầu tư, nâng cấp và xây dựng mới hồ chứa, công trình thủy lợi, hỗ trợ khai hoang mở rộng diện tích đất sản xuất… để góp phần nâng cao chất lượng đời sống đồng bào DTTS Tây Nguyên./.

Giáo Viên Vùng Cao Chia Sẻ Thực Trạng Công Tác Giáo Dục Vùng Dân Tộc Thiểu Số

Chủ trì Tọa đàm “Thực trạng và giải pháp công tác phát triển giáo dục ở vùng dân tộc thiểu số” có Phó Chủ tịch T.Ư Hội LHTN Việt Nam Nguyễn Kim Quy; Phó Vụ trưởng Chính sách Dân tộc Ban Dân tộc Bế Thị Hồng Vân; Phó Vụ trưởng Vụ Giáo dục Dân tộc Bộ GD&ĐT Lê Như Xuyên.

Tham dự chương trình có 63 giáo viên đang trực tiếp giảng dạy cho các học sinh là người dân tộc thiểu số tại các lớp học thuộc các trường Mầm non, Tiểu học và Trung học cơ sở ở vùng sâu, vùng xa, vùng có điều kiện kinh tế – xã hội khó khăn

Tọa đàm đã có 15 ý kiến chia sẻ về những khó khăn, hạn chế trong công tác giáo dục tại vùng dân tộc thiểu số; đề xuất Bộ Giáo dục và Đào tạo, Ủy ban Dân tộc một số kiến nghị nhằm giảm tải áp lực cho giáo viên trong các cuộc thi sáng kiến sáng tạo, giáo viên dạy giỏi; có cơ chế luân chuyển cán bộ công tác tại vùng đặc biệt khó khăn; có chính sách đảm bảo chế độ cho giáo viên và học sinh vùng cao…

Cô giáo Mùa Thị A (Trường mầm non Hoa Đào xã Háng Đồng, huyện Bắc Yên, tỉnh Sơn La) chia sẻ: Học sinh mỗi vùng dân tộc thiểu số bên cạnh những khó khăn chung thì có những hạn chế riêng. Việc áp dụng chương trình dạy kiến thức chung gặp nhiều khó khăn, đòi hỏi cần có những kiến thức phù hợp với từng vùng miền. Ngoài ra, học sinh vùng dân tộc thiểu số có điều kiện kinh tế khó khăn. Nhiều em không có đủ tiền để mua sách vở đi học. Mong các cấp các ngành có chính sách hỗ trợ, phát sách cho học sinh vùng dân tộc thiểu số.

Cô giáo Hà Thị Hiền (Trường Tiểu học và THCS Phú Cường, Tân Lạc, tỉnh Hòa Bình) cho biết: Hiện nay theo quy định mỗi lớp bậc THCS không 45 học sinh, ở trường Phú Cường trung bình 40 học sinh/lớp. Tuy nhiên học sinh ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số gặp nhiều khó khăn ảnh hưởng đến khả năng nhận thức, tiếp nhận kiến thức hơn so với những học sinh ở vùng thuận lợi. “Có những em học sinh lớp 7 do tôi phụ trách, khả năng đọc còn chậm hơn so với con tôi đang học cấp 1 ở thị trấn. Tôi đề nghị giảm sĩ số học sinh trong một lớp để giáo viên có điều kiện quan tâm, kèm cặp các em học sinh được tốt hơn”, cô Hiền nói.

Thầy giáo Nguyễn Quang Trung (THCS Quảng Hòa, Đắk Nông) thẳng thắn bày tỏ thực trạng: Thực hiện việc tinh giản biên chế, số lượng giáo viên phụ trách lớp đã theo quy định. Tuy nhiên, có nhiều cuộc thi dành cho giáo viên đã ảnh hưởng đến việc đảm bảo thời gian giảng dạy cho học sinh trên lớp. Tuy có sắp xếp lịch dạy bù, nhưng vẫn không đảm bảo chất lượng bằng việc dạy như đúng quy định. Thầy Trung đề nghị, ngành giáo dục cần giảm số lượng cuộc thi dành cho giáo viên. Thầy Trung cũng đề nghị cần giảm số lượng hồ sơ sổ sách mang tính hình thức để giảm gánh nặng cho giáo viên chủ nhiệm. Bởi vì giáo viên chủ nhiệm không chỉ dạy, quản lý học sinh mà còn phải đảm nhiệm việc điều tra các chế độ dành cho học sinh.

Phát biểu tại Tọa đàm, Phó Vụ trưởng Chính sách Dân tộc Ban Dân tộc Bế Thị Hồng Vân; Phó Vụ trưởng Vụ Giáo dục Dân tộc Bộ GD&ĐT Lê Như Xuyên ghi nhận và tiếp thu các ý kiến, đề xuất của các giáo viên. Đồng thời, chia sẻ các chủ trương, chính sách đầu tư, nâng cao chất lượng giáo dục ở vùng dân tộc thiểu số trong thời gian tới.

Bạn đang đọc nội dung bài viết Công Tác Xây Dựng, Thực Thi Pháp Luật Về Dân Tộc Thiểu Số, Miền Núi Tại Tây Nguyên trên website Photomarathonasia.com. Hy vọng một phần nào đó những thông tin mà chúng tôi đã cung cấp là rất hữu ích với bạn. Nếu nội dung bài viết hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!