Cập nhật nội dung chi tiết về Công Nghệ Nhận Diện Và Xử Lí Hình Ảnh mới nhất trên website Photomarathonasia.com. Hy vọng thông tin trong bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu ngoài mong đợi của bạn, chúng tôi sẽ làm việc thường xuyên để cập nhật nội dung mới nhằm giúp bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.
Công nghệ nhận diện hình ảnh là gì?
Nhận diện hình ảnh hoặc thị giác máy tính là một kỹ thuật tìm kiếm các cách để tự động hóa tất cả công việc mà một hệ thống thị giác của con người có thể làm. Hãy nhắc đến những cái tên như TensorFlow của Google, DeepFace của Facebook, Dự án Oxford của Microsoft. Chúng đều là những ví dụ tuyệt vời về hệ thống nhận diện hình ảnh học sâu. Mặt khác, các API được lưu trữ cho phép các doanh nghiệp tiết kiệm một số tiền lớn cho các nhóm phát triển. Ví dụ như Google Cloud Vision, Clarifai, Imagga…
Công nghệ nhận diện hình ảnh là một kĩnh vực ngày càng rộng mở
Các công ty lớn như Tesla, Google, Uber, Adobe Systems… cũng sử dụng công nghệ nhận diện hình ảnh. Để chứng minh rằng công nghệ này đang tồn tại khắp thế giới, hãy xem xét các số liệu thống kê gần đây. Các nhà nghiên cứu dự đoán rằng thị trường toàn cầu của công nhận diện hình ảnh sẽ đạt 38,92 tỷ USD vào năm 2021. Đó là một con số rất lớn. Vì vậy, không ngạc nhiên khi ngày càng nhiều thứ được gọi là ứng dụng imagetech đang tận dụng nhận diện hình ảnh cho các mục đích khác nhau. Thậm chí là trong cả kinh doanh.
Điều gì giúp mở rộng công nghệ nhận diện hình ảnh ngày nay? Đó là các công cụ mã nguồn mở giúp lập trình dễ dàng hơn. Trong khi đó giá cả thì ngày càng rẻ hơn. Các khung công tác và thư viện nguồn mở giúp các công ty có thể hưởng lợi từ công nghệ nhận diện hình ảnh theo cấp số nhân.
Ví dụ, các cơ sở dữ liệu mở lớn như Pascal VOC và ImageNet cung cấp quyền truy cập vào hàng triệu hình ảnh được gắn thẻ. Họ giúp các công ty công nghệ hình ảnh phát triển và cải tiến các thuật toán học máy (Machine learning) của riêng họ. Đối với một nhà phát triển chuyên nghiệp, nhận diện hình ảnh thời gian thực cũng sử dụng một thư viện đa nền tảng nguồn mở. Nó được gọi là OpenCV. Đây được xem là điểm giải quyết đầu tiên. Đồng thời nó là nguồn tài nguyên có thẩm quyền nhất cho các chuyên gia nhận diện hình ảnh. Một bộ thư viện tuyệt vời khác cho tầm nhìn máy tính bao gồm OpenNN, VXL… và nhiều loại khác.
Mục đích sử dụng của hình ảnh rất đa dạng
Trước khi đi chi tiết hơn về nhận diện hình ảnh và cách xử lý nó, chúng ta nên hiểu rằng hình ảnh có thể được sử dụng theo những cách khác nhau.Trong các hình ảnh phát triển phần mềm di động, web và phần mềm phục vụ cho vô số lý do, bao gồm:
Nhận diện đối tượng
Nhận diện mẫu
Định vị các bản sao (chính xác hoặc một phần)
Tìm kiếm hình ảnh theo phân đoạn
Xử lý hình ảnh (Retouch,…)
Cải thiện ứng dụng di động UX…
Một trong những mục đích sử dụng của hình ảnh là để nhận diện con người
Tính ứng dụng của chúng là không giới hạn. Những tiến bộ trong công nghệ mở ra nhiều cơ hội mới cho các doanh nghiệp. Do đó, phân tích hình ảnh được đưa đến một cấp độ hoàn toàn mới. Điều này nhờ vào các giải pháp nguồn mở và các công cụ học sâu (deep learning).
Ưu điểm của các dịch vụ mã nguồn mở được đề cập rất nhiều. Các tính toán nhận diện hình ảnh trong đám mây có một ưu điểm lớn. Đó là nó khiến hoạt động kinh doanh trở nên hiệu quả và rẻ hơn rất nhiều. Ngoài ra, các nhà phát triển nội bộ của doanh nghiệp có thể tích hợp API của họ vào ứng dụng mà không gặp sự cố.
Kỹ thuật xử lý hình ảnh
Nhìn chung, xử lý ảnh có nhiều giai đoạn. Chúng bao gồm nhập ảnh, phân tích, thao tác và tạo ảnh. Có hai phương pháp xử lý hình ảnh: kỹ thuật số (Digital) và analog. Xử lý hình ảnh kỹ thuật số và các kỹ thuật của nó là những gì bài viết này đề cập đến.
Thuật toán máy tính đóng một vai trò quan trọng trong xử lý hình ảnh kỹ thuật số. Nhà phát triển sử dụng nhiều thuật toán để giải quyết các tác vụ khác nhau. Chúng bao gồm phát hiện hình ảnh kỹ thuật số, phân tích, xây dựng lại, khôi phục, nén dữ liệu hình ảnh. Ngoài ra còn có tăng cường hình ảnh, ước tính hình ảnh và ước tính quang phổ hình ảnh.
Các kỹ thuật chính về xử lý ảnh kỹ thuật số
Chỉnh sửa hình ảnh: về cơ bản có nghĩa là thay đổi hình ảnh kỹ thuật số bằng các công cụ phần mềm đồ họa. Ví dụ như Photoshop, Lightroom, Gimp,…
Photoshop là một trong những công cụ chỉnh sửa hình ảnh mạnh mẽ nhất hiện nay
Phân tích thành phần độc lập: phân tách tín hiệu đa biến, tính toán thành các thành phần phụ cộng.
Nhiễu xạ không đẳng hướng: thường được gọi là khuếch tán Perona-Malik. Phương pháp này giúp giảm nhiễu hình ảnh mà không cần loại bỏ các phần quan trọng của hình ảnh.
Lọc tuyến tính: là một kỹ thuật xử lý hình ảnh kỹ thuật số khác. Nó dùng để chỉ các tín hiệu đầu vào biến đổi theo thời gian. Việc này tạo tạo ra các tín hiệu đầu ra phụ thuộc vào ràng buộc của tuyến tính.
Mạng nơron: là các mô hình tính toán được sử dụng rộng rãi trong học máy. Chúng dược dùng để giải quyết các nhiệm vụ khác nhau.
Pixelation: là việc chuyển hình ảnh đã in thành những hình ảnh được số hóa (chẳng hạn như GIF).
Phân tích thành phần chính: một kỹ thuật xử lý hình ảnh kỹ thuật số. Nó được sử dụng để trích xuất tính năng.
Một phần phương trình vi phân, giúp khử nhiễu hình ảnh.
Các mô hình Markov ẩn: một kỹ thuật được sử dụng để phân tích hình ảnh theo hai chiều (2D).
Wavelets: viết tắt của một hàm toán học được sử dụng trong nén hình ảnh.
Bản đồ tự tổ chức: kỹ thuật xử lý hình ảnh kỹ thuật số để phân loại hình ảnh thành một số layer (lớp).
Có nhiều kĩ thuật xử lí ảnh khác nhau
Tạm kết
Theo designervn.net
Hạo Phương là nhà nhập khẩu và phân phối các thiết bị điện công nghiệp của các thương hiệu lớn trên thế giới. Đồng thời Hạo Phương cũng là nhà thầu xây dựng công trình và tích hợp hệ thống công nghiệp hàng đầu Việt Nam.
Quý khách hàng có nhu cầu vui lòng liên hệ qua Hotline: 1800 6547 Hoặc để lại thông tin, chúng tôi sẽ liên hệ trong thời gian sớm nhất!
Giải Pháp Chấm Công Nhận Diện Khuôn Mặt – Công Ty Tnhh Công Nghệ An Ninh Việt
Giải pháp chấm công, kiểm soát vào ra nhận diện khuôn mặt (Facial recognition system) sử dụng công nghệ trí tuệ nhân tạo AI, giúp giải quyết được các công việc:
Chấm công khuôn mặt
Điểm danh khuôn mặt
Kiểm soát vào/ra
Người dùng không cần chạm vào máy chấm công khuôn mặt khi chấm công.
Điểm đặc biệt về cấu tạo của giải pháp chấm công khuôn mặt là được tích hợp hệ thống camera để chụp lại khuôn mặt của người chấm công. Cơ chế hoạt động của máy là đối chiếu ảnh chụp khuôn mặt thu được từ mỗi lần chấm công với hình ảnh khuôn mặt có sẵn trong cơ sở dữ liệu để xác định có đúng nhân viên đó đến làm việc hay không và nhân viên đó đến khi nào, về khi nào.
Các thông tin về nhân viên, thời gian chấm công cũng được lưu vào bộ nhớ máy, sau đó bộ phận nhân sự có thể chuyển những dữ liệu này về máy tính để tổng hợp, xử lý bằng phần mềm, từ đó có căn cứ để tính lương, thưởng phạt đối với người lao động.
Chấm công bằng khuôn mặt là phương pháp tiên tiến, hiện đại
Tổng quan về giải pháp
Đây là một phương pháp xác minh độc đáo khi thiết bị sẽ dựa vào những điểm khác nhau tiêu biểu nhất trên khuôn mặt của một người để tiến hành phân biệt giữa người này với người khác. Do vậy đối với các trường hợp như song sinh thì người dùng có thể yên tâm rằng máy vẫn sẽ phát hiện ra.
Chính vì đặc điểm này thì ngoài được ứng dụng trong việc quản lý nhân sự ra thì nó còn là sự lựa chọn của rất nhiều đơn vị hoạt động trong lĩnh vực an ninh, bảo mật.
Về quy trình hoạt động của các máy chấm công sử dụng phương pháp này cũng giống với quá trình hoạt động của máy chấm công bằng xác thực vân tay hay thẻ từ. Điều đặc biệt hơn đó là giải pháp này có khả năng khắc phục được những nhược điểm của hai dòng còn lại đó là việc chấm công hộ hay việc ảnh hưởng bởi yếu tố thời tiết.
Sơ đồ nguyên lý của hệ thống
Với ưu điểm người dùng không phải xác nhận bằng vân tay hay sử dụng thẻ từ để nhận diện do vậy tương ứng nó cũng có khá nhiều lợi ích khác nhau như:
Luôn đảm bảo một sự bảo mật tuyệt đối do vậy mà nhân viên khi đến chấm công sẽ phải tuân thủ những nội quy và quy định mà doanh nghiệp đã đề ra.
Quý khách cũng không còn phải lo lắng khi lúc nào cũng phải khư khư giữ thẻ bên mình hay việc trời lạnh vân tay bị co lại gây ảnh hưởng đến kết quả chấm công.
Vừa không phải lo lắng việc nhân viên chấm công hộ vừa không phải mất chi phí trong việc làm thẻ nhân viên.
Chúng có khả năng áp dụng rộng rãi với nhiều mô hình khác nhau như: kiểm soát nhân viên tại các khu văn phòng, công trường, nhà máy hay quản lý học sinh, sinh viên.
Kết hợp với những thiết bị an ninh để quản lý và kiểm soát tốt từng người khi ra vào.
Với máy chấm công khuôn mặt thì hiệu quả và tính an toàn khi sử dụng mà chúng đem đến cực kỳ cao.
Độ chính xác: Chấm công khuôn mặt ngăn chặn được tình trạng chấm công hộ.
Tính bảo mật: Chấm công khuôn mặt ngăn chặn được tình trạng người lạ làm giả thẻ, giả danh để xâm nhập vào doanh nghiệp, tăng cường tính an ninh, an toàn cho khu vực làm việc, nhất là tại các doanh nghiệp, văn phòng yêu cầu độ bảo mật cao.
Tính thuận tiện: Chấm công khuôn mặt giúp người lao động không còn lo lắng về tình trạng quên thẻ, thẻ bị hư hỏng (bị nhăn, bị rách, bị mờ, hỏng phần chip, hỏng dải từ…).
Khả năng hoạt động linh hoạt: Chấm công khuôn mặt có thể thực hiện dễ dàng, chỉ cần bạn không đeo khẩu trang, mặt nạ bảo hộ lao động trong khi chấm công vân tay có thể không thực hiện được nếu vân tay bị mờ, bị ướt, bị dính bụi bẩn hay dầu mỡ…
Khả năng hoạt động ổn định: Chấm công khuôn mặt không yêu cầu nhân viên phải chạm vào máy, giúp máy tránh được nhiều tác động trong khi thao tác chấm vân tay liên tục của nhiều người có thể khiến phần đầu quét vân tay bị mờ, hỏng hóc.
Chip xử lý hiện đại: Nhận diện khuôn mặt là phương pháp tiên tiến hơn so với quét vân tay nên máy chấm công khuôn mặt cũng có bộ xử lý hiện đại và mạnh mẽ hơn.
Việc ứng dụng giải pháp chấm công bằng nhận diện khuôn mặt khi ứng dụng vào các doanh nghiệp sẽ mang đến những hiệu quả vô cùng thiết thực sẽ khắc phục được hoàn toàn những nhược điểm mà những giải pháp khác đang gặp phải. Do vậy việc đưa thiết bị này vào sử dụng sẽ cực kỳ hiệu quả và đem lại lợi ích cao cho người dùng.
Công Nghệ Plasma Ion Là Gì, Và Cách Nhận Biết
Plasma ion là hệ thống lọc không khí được trang bị trong các dòng máy lạnh Nhật, vận hành bằng cách tạo ra các ion mang điện tích âm có tác dụng hút các phần tử gây hại, phá hủy các chất gây hại mang điện tích dương. Màng lọc có thể lọc được 99% phân tử gây dị ứng, 95% vi khuẩn độc hại và 85% khỏi các loại vi rút khác, cùng các mùi hôi như khói thuốc lá, mùi thức ăn. Sau khi hút chúng vào các ion mang điện tích, chúng sẽ bị hút trở lại màng lọc và sẽ được loại bỏ ra ngoài bằng đường nước xả.
Trên máy lạnh Daikin, hệ thống plasma được phát triển ở một mức độ cao hơn nữa với tên gọi Streamer
Công nghệ Streamer bản chất là quá trình phóng điện plasma trong đó các electron tốc độ cao va chạm với các phân tử oxy và nitơ trở thành thành phân tử mới và có khả năng oxy hóa phân hủy, tiêu diệt vi khuẩn gây hại. Đây là công nghệ có khả năng loại bỏ vi khuẩn và nấm mốc cũng như các chất hóa học độc hại và chất gây dị ứng, vv độc quyền của hãng điều hòa Daikin
Công nghệ Streamer phạm vị phóng điện xả rộng hơn Plasma, nhờ vậy các electron dễ dàng va chạm với các phân tử oxy và nitơ trong không khí. Điều này cho phép các phân tử được tạo ra ba chiều trên một diện tích rộng. Kết quả là tốc độ phân hủy và oxy hóa là hơn 1.000 lần lớn hơn với sức mạnh điện tương tự. Công nghệ Streamer của Daikin đã chứng minh thành công trong việc ổn định tạo ra các điện tử tốc độ cao, một công nghệ gây đột phá.
Lợi ích của plasma ion:
Đối với không khí: Làm cho tinh khiết và tiệt trùng loại bỏ bụi mịn và các chất vi khuẩn có hại.
Đối với máu huyết: Giúp khí huyết tinh khiết, tăng khả năng vận chuyển oxy trong máu, lưu lượng máu được tưng cường huyết áp được điều hòa.
Đối với hô hấp: Giúp điều hòa và ổn định nhịp thở của chúng ta.
Đối với cơ thể: Tăng khả năng trao đổi chất trong cơ thể. Sức sống và hệ miễn dịch được tăng cường, giúp xương được thúc đẩy tăng trưởng mạnh mẽ.
Với tình trạng ô nhiễm môi trường ngày càng gia tăng như hiện nay, thì việc sắm một chiếc điều hòa Nhật được trang bị hệ thống tinh lọc không khí Ion Plasma là vô cùng cần thiết cho việc bảo vệ sức khỏe cho gia đình bạn.
Phân biệt máy Inverter + Plasma ion và máy Inverter thường 1 cách nhanh nhất là quan sát đầu lạnh
Remote plasma ion/streamer: Xem hướng dẫn sử dụng tại https://dienlanhs2.com/remote-plasma/
Công Bằng Xã Hội Ở Việt Nam: Nhận Diện Và Giải Pháp Thực Hiện
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là cuộc giải phóng vĩ đại đối với mọi bất công và đặt cơ sở cho một tiến trình thực hiện mục tiêu công bằng xã hội kiểu mới. Trước hết, Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là cuộc cách mạng giải phóng dân tộc. Cuộc cách mạng này mang lại độc lập, tự do cho dân tộc Việt Nam. Nước Việt Nam phải được độc lập, nhân dân Việt Nam phải được tự do. Đó là công bằng xã hội lớn nhất trong quan hệ Việt Nam với cộng đồng quốc tế. Đó là công bằng về quyền lợi và nghĩa vụ của nhân dân Việt Nam trong cộng đồng nhân loại. Như tất cả các dân tộc khác, nhân dân Việt Nam phải có quyền quyết định vận mệnh của mình.
Cuộc cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam không chỉ xác lập quyền bình đẳng của dân tộc Việt Nam với các dân tộc khác trong cộng đồng nhân loại; nó còn thống nhất quyền lợi của các dân tộc đa số và dân tộc thiểu số ở Việt Nam. Cuộc cách mạng ấy đã đem lại cơ hội để đồng bào miền ngược, đồng bào ở vùng sâu, vùng xa phát triển mọi khả năng của mình.
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 cũng đã chấm dứt chế độ chia để trị của chủ nghĩa thực dân, thống nhất ba vùng lãnh thổ Việt Nam thành một nước độc lập và thống nhất, mang lại công bằng mới về sự hưởng thụ, quyền lợi và nghĩa vụ của mọi vùng dân cư trên đất nước Việt Nam.
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 còn là một cuộc giải phóng giai cấp. Thắng lợi của cuộc Cách mạng này đã làm thay đổi địa vị của tuyệt đại bộ phận nhân dân lao động. Từ địa vị người làm thuê, người bị áp bức, bóc lột, Cách mạng đã trả lại sự công bằng cho họ bằng cách làm cho họ trở thành chủ nhân thực sự của bản thân mình và của xã hội. Cách mạng cũng mang lại cơ hội ngàn năm có một cho những giai cấp áp bức, bóc lột trở thành người công dân chân chính của xã hội, khi họ tham gia lao động để tự cải tạo bản thân mình và góp công sức xây dựng công bằng xã hội mới.
Công cuộc giải phóng giai cấp ở Việt Nam đã mang một giá trị nhân đạo cao cả và xác lập các chuẩn mực công bằng mới. Đó là các chuẩn mực xác lập lại vấn đề quyền lực vốn là chìa khóa của mọi sự công bằng trong xã hội. Sự độc quyền chân lý của giai cấp thống trị – nguyên nhân chính của mọi sự bất công – đã bị xóa bỏ. Khi quyền lực thuộc về nhân dân lao động thì công bằng xã hội được xác lập từ hệ chuẩn của lao động. Lao động cho mình, lao động cho đất nước là cơ sở để hình thành những chuẩn mực pháp lý cũng như những chuẩn mực đạo đức để đánh giá sự cống hiến và hưởng thụ một cách công bằng.
Cách mạng giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp ở Việt Nam là một cuộc giải phóng xã hội sâu sắc. Cách mạng đã xóa bỏ những thành kiến xã hội bất công. Cách mạng đã cải tạo lại những phong tục, tập quán lạc hậu kìm trói sự phát triển của con người. Cách mạng đã giải phóng và nâng cao vị thế xã hội của người phụ nữ. Các băng đảng, các thế lực “xã hội đen” từng gây nhức nhối trong đời sống xã hội đã bị cách mạng trừng trị. Có thể nói, về phương diện xã hội, cách mạng đã tạo ra bộ mặt công bằng mới.
Cách mạng thành công không được bao lâu, nhân dân Việt Nam lại phải cầm súng bảo vệ Tổ quốc. Hàng triệu thanh niên trai tráng đã từ bỏ đồng ruộng, nhà máy, công sở, trường học để ra mặt trận chống quân xâm lược. Công bằng xã hội lúc này là các chuẩn mực về sự cống hiến cho Tổ quốc. Ở hậu phương, mọi người đều phải tham gia sản xuất. Ở tiền tuyến, mọi người đều phải thi đua giết giặc. Công bằng xã hội trong thời chiến lấy chuẩn mực cống hiến làm nền gốc chính. Chuẩn mực này đã góp phần to lớn vào những thành công của cách mạng Việt Nam. Trong thời chiến, mọi người không nghĩ đến hưởng thụ. Ai ai cũng nghĩ đến việc làm sao cống hiến được nhiều cho Tổ quốc để mau chóng đuổi được quân xâm lược, giành lại độc lập, tự do cho dân tộc.
Khi kháng chiến chống thực dân Pháp thắng lợi, người ta mới nghĩ tới cống hiến và hưởng thụ. Để tạo lập sự công bằng xã hội, công cuộc cải tạo xã hội và cải cách ruộng đất ở Việt Nam đã chia lại ruộng đất cho người không có hoặc thiếu ruộng cầy; cải tạo lại các giai cấp nắm giữ tư liệu sản xuất, cải tạo lại chỗ ở; tập thể hóa, công hữu hóa tư liệu lao động. Công cuộc cải tạo xã hội, tập thể hóa và công hữu hóa đã tạo ra sự phấn khởi mới trong xã hội. Công bằng xã hội về lao động, giáo dục và y tế đã được xác lập trên cơ sở chế độ sở hữu tập thể và công hữu hóa. Mọi người đến tuổi đi học đã được hưởng chế độ giáo dục như nhau; ai có khả năng phát triển trí lực đều được xã hội tạo điều kiện để nâng cao trình độ. Chế độ học tập không mất tiền đã đưa hàng triệu con em nhân dân lao động đến các trường đại học. Từ chế độ sở hữu tập thể và quốc hữu hóa, sự chăm sóc y tế cũng đồng đều cho mọi người. Hệ thống các cơ sở chữa bệnh, từ cơ quan, xí nghiệp đến làng xã, huyện, tỉnh, thành phố, đều chăm sóc nhân đạo cho người già yếu, người có bệnh. Trong xã hội, mọi thành viên đến tuổi lao động đều có việc làm ở hợp tác xã hay trong cơ quan, xí nghiệp nhà nước. Tất cả các cơ sở đào tạo đều bố trí việc làm cho những người đã được đào tạo.
Trên cơ sở chế độ hợp tác và quốc doanh, sự phân phối theo lao động đã được tiến hành. Tuy nhiên, do cơ sở hạ tầng của Việt Nam lúc này còn yếu kém, năng suất lao động rất thấp, nhiều cơ sở lao động không có việc làm, nên mặc dù phân phối theo lao động, nhưng giữa Chủ tịch nước và người phục vụ, giữa giám đốc xí nghiệp và công nhân bình thường, giữa người làm nhiều và làm ít… hưởng thụ không chênh lệch là bao.
Sau cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, nhân dân Việt Nam lại phải tiếp tục đấu tranh để thống nhất Tổ quốc do âm mưu chia cắt lâu dài của các thế lực phản động tiến hành. Vừa chiến đấu, vừa sản xuất, Việt Nam đã thực hiện chế độ phân phối bao cấp. Chế độ phân phối bao cấp tuy đã huy động được sức người, sức của để thực hiện mục tiêu thống nhất đất nước, nhưng trong xã hội đã tạo ra những bất công mới. Người làm nhiều, người có năng lực không có điều kiện để phát huy khả năng của mình. Sự dựa dẫm trong lao động, làm việc cầm chừng, chủ nghĩa trung bình xuất hiện làm cho năng suất lao động đã thấp, với sự phân phối bình quân, lại càng giảm sút thảm hại.
Năm 1975, đất nước được thống nhất, việc phân phối bình quân đã tạo ra sự bất công to lớn trên một diện rộng. Nhiều người có khả năng lao động tiềm tàng không được phát huy; nhiều người có cống hiến to lớn cho Tổ quốc không được đền đáp thích đáng. Nhiều gia đình vì chiến tranh đã mất nhà, mất ruộng, mất cả người thân. Nhiều gia đình không còn sức lao động; nhiều thanh niên trai tráng đã ngã xuống ngoài mặt trận; nhiều làng mạc bị tàn phá, bệnh tật hoành hành; thương binh, tử sĩ cần phải có chế độ chăm sóc… Tất cả những vấn đề xã hội dồn tụ lại đã đưa Việt Nam đến đổi mới, xác lập cơ chế thị trường nhằm thực hiện nguyên tắc công bằng mới: xóa bỏ chế độ bao cấp, xây dựng những hệ chuẩn mới để thực hiện phân phối theo lao động.
Sau năm 1986, ở Việt Nam bắt đầu thực hiện công bằng xã hội theo cơ chế thị trường. “Cơ chế xin cho”, chủ nghĩa bình quân dần được xóa bỏ. Cơ chế phân phối theo lao động dần được xác lập. Trên cơ sở thị trường, người nào đáp ứng được thị trường, người nào có cống hiến nhiều cho xã hội thì người ấy được xã hội đền đáp công bằng. Tự do cạnh tranh xuất hiện.
Tuy nhiên, vấn đề phân phối theo lao động ở Việt Nam cũng gặp không ít khó khăn. Trước hết, do cơ chế thị trường mới hình thành, nên không phải ai có năng lực, có tài, có đức đều đáp ứng được yêu cầu của thị trường. Có trường hợp, những người không có tài, không có đức lại giàu lên nhanh chóng; còn những người có tài, có đức lại bị thị trường cuốn trôi mất tăm. Sự phân tầng xã hội diễn ra nhanh và sâu đã tạo ra khá nhiều bất công mới trong xã hội.
Sau chiến tranh, nhiều gia đình đã mất sức lao động không thể tham gia vào thị trường lao động được. Những di hại của chiến tranh cũng gây nên khá nhiều bệnh tật cần được khắc phục. Do vậy, muốn có công bằng xã hội, không thể phân phối theo cơ chế thị trường thông thường, mà phải thực hiện phân phối theo lao động trên cơ sở thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đang tạo nên những chuẩn mực mới để thực hiện công bằng xã hội. Các chuẩn mực này bắt nguồn từ đạo lý “uống nước nhớ nguồn” truyền thống. Trước hết là việc phân phối theo lao động phải gắn với lòng yêu Tổ quốc. Những người buôn gian, bán lậu, trốn tránh nghĩa vụ lao động không thể hưởng thụ như những người đã từng cống hiến sức người, sức của cho Tổ quốc. Trong xã hội Việt Nam truyền thống, nhiều triều đại đã từng gắn công bằng xã hội với sự cống hiến cho Tổ quốc. Vào mùa xuân năm 1429, sau khi nhân dân Việt Nam chiến thắng quân Minh, Vua Lê Thái Tổ đã viết rằng: Hiện nay, “người đi đánh giặc thì nghèo, kẻ rong chơi thì giàu, người đi chiến đấu thì không có một thước, một tất đất mà ở, còn những kẻ du thủ, du thực không có ích gì cho nước thì lại có quá thừa ruộng đất, hoặc đi làm nghề trộm cướp. Thành ra không có ai chịu hết lòng với nước chỉ ham nghĩ phú quý mà thôi. Các đại thần cần bàn định số ruộng cấp cho quan lại, quân nhân và dân chúng, trong từ đại thần trở xuống, dưới đến người già yếu, mồ côi, góa chồng, đàn ông, đàn bà trở lên, loại nào được cấp bao nhiêu thì tâu”(1).
Thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã tiếp thu những giá trị văn hóa truyền thống, chấp nhận mọi sự cạnh tranh lành mạnh, nhưng không chấp nhận những kẻ trốn tránh nghĩa vụ xã hội, những thủ đoạn phá hoại lợi ích của người khác. Nhà nước Việt Nam là Nhà nước của dân, do dân và vì dân. Nhà nước ấy sẽ can thiệp vào mọi sự tăng trưởng kinh tế, nếu nó đe doạ đến quyền lợi của đại đa số nhân dân. Phát triển kinh tế phải đi đôi với công bằng xã hội.
Để thực hiện công bằng xã hội theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Nhà nước Việt Nam đã đề ra rất nhiều chính sách nhằm giúp đỡ những người tàn tật, già yếu, cô đơn, các gia đình thương binh, liệt sĩ, những dân tộc ở vùng cao, vùng xa, vùng sâu, những gia đình có công với cách mạng. Các chính sách xóa đói, giảm nghèo; các làn sóng từ thiện; các tổ chức giúp đỡ nhân đạo nhằm tạo sự công bằng mới cho xã hội đã ra đời.
Những bất công trong xã hội Việt Nam một phần là do một số nước đã tham chiến ở Việt Nam gây nên. Các nước ấy phải góp phần tái thiết Việt Nam, phải giúp đỡ Việt Nam phát triển nhanh hơn do chiến tranh đã làm thụt lùi xã hội Việt Nam hàng nhiều thập kỷ. Đó cũng là một sự công bằng xã hội.
Vấn đề công bằng xã hội ở Việt Nam, tuy đã được thực hiện trên cơ sở kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với nguyên tắc phân phối theo lao động gắn liền với cống hiến cho Tổ quốc, nhưng hiện nay, trong xã hội còn tồn tại nhiều bất công chưa giải quyết được.
Trước hết là sự phân phối theo lao động. Ở Việt Nam, nhiều vùng ruộng đất còn manh mún chưa thể sản xuất lớn được; một số nhà máy, xí nghiệp do người nước ngoài đầu tư, vốn liếng trong nước còn ít ỏi. Điều đó hạn chế rất lớn năng lực sáng tạo của nhiều người Việt Nam.
Để phân phối một cách công bằng, trong tất cả các lĩnh vực xã hội cần có một hệ chuẩn mực đủ sức điều chỉnh nhanh nhạy và đúng hướng các bất công xảy ra trong lao động. Điều này chưa được thực hiện tốt ở Việt Nam. Trong xã hội, tuy là phân phối theo lao động, nhưng đang xảy ra những bất công bất khả kháng. Nhiều nghề lao động đơn giản lại có thu nhập lớn hơn nhiều lần lao động phức tạp. Nhiều lĩnh vực lao động trí óc lại hưởng thụ thấp hơn lao động chân tay. Nhiều sản phẩm lao động trí óc phức tạp vẫn chưa có thị trường. Nhiều người ở vùng xa, vùng sâu chưa được hưởng phúc lợi xã hội như ở các thành phố; mức sống, chế độ giáo dục, chăm sóc y tế ở nông thôn còn cách biệt với thành phố.
Việt Nam đang trong quá trình công nghiệp hóa, đô thị hóa, hiện đại hóa. Nhiều vấn đề công bằng xã hội đã được đặt ra. Có những nơi lấy đất của dân làm nhà máy thủy điện, nhưng nhân dân ở chính nơi ấy lại chưa được hưởng thành quả của công nghiệp hóa. Nhiều người bị mất đất vì đô thị hóa mà vẫn chưa có công ăn, việc làm. Vấn đề công bằng trong giáo dục và y tế vẫn còn là một nỗi nhức nhối chung của xã hội. Tuy giáo dục và y tế đã được xã hội hóa, nhưng những cơ hội để hưởng các thành quả ấy còn phụ thuộc vào thu nhập của nhân dân. Một bộ phận nhân dân còn thu nhập thấp, cơ hội được hưởng chế độ giáo dục và y tế cao là rất hiếm hoi. Chế độ lương của nhà nước còn bất hợp lý so với thu nhập ngoài nhà nước và sự tăng giá của thị trường. Người hưởng lương hưu, người già yếu, bệnh tật còn gặp rất nhiều khó khăn.
Hiện nay, ở Việt Nam đang có một nguy cơ làm mất cân bằng xã hội là nạn tham nhũng và sự can thiệp của một số thế lực phản động. Chúng đã biến trắng thành đen, phá hoại sự ổn định xã hội, đảo lộn sự phân phối theo lao động…
Có thể nói, công bằng xã hội ở Việt Nam được diễn ra trong bốn thời kỳ khác nhau. Thời kỳ mất công bằng toàn diện là thời kỳ nhân dân Việt Nam sống dưới chế độ thuộc địa nửa phong kiến. Thời kỳ thứ hai là thời kỳ sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945. Đây là thời kỳ hình thành những chuẩn mực công bằng mới cho xã hội sau gần một thế kỷ bị áp bức, bóc lột. Thời kỳ này là “thời kỳ lãng mạn” trong lịch sử phát triển Việt Nam, thời kỳ mà người ta chỉ nghĩ đến cống hiến, ít nghĩ đến hưởng thụ; nghĩ đến lao động cho Tổ quốc mà không nghĩ đến thu vén cá nhân. Thời kỳ thứ ba là thời kỳ hợp tác hóa, quốc doanh hóa và phân phối theo cơ chế bao cấp. Thời kỳ này đã tạo ra được nhiều giá trị công bằng về giáo dục, y tế, nhưng nó đã làm cho xã hội Việt Nam phát triển rất chậm và tạo ra sự mất công bằng ở những lĩnh vực lao động chủ yếu. Thời kỳ thứ tư là thời kỳ từ năm 1986 đến nay. Đây là thời kỳ thực hiện công bằng xã hội theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã tạo ra các chuẩn mực công bằng trong việc phân phối theo lao động. Cùng với sự điều tiết của hàng loạt những chính sách xã hội tích cực, công bằng trong việc phân phối theo lao động đã kiềm chế khá nhiều bất công xảy ra, khi cơ chế thị trường làm phân tầng xã hội nhanh và sâu.
Nhìn chung, vấn đề công bằng xã hội tuy gắn với sự phân phối theo lao động, gắn với các chuẩn mực pháp luật và đạo đức, gắn với hàng loạt chế độ, chính sách, nhưng điểm tập trung của nó là vấn đề quyền lực, vấn đề chế độ xã hội. Cách đây 30 năm, ông Frank Scarpatti – một nhà xã hội học Mỹ, trong tác phẩm Những vấn đề xã hội ( Social Problems) đã nhận xét rằng, “mục tiêu của công bằng xã hội chỉ có thể thực hiện thông qua một chính sách làm giảm sự tập trung quyền lực và những nguồn tài nguyên kinh tế trong tay một tầng lớp nhỏ đặc quyền của xã hội”(2).
Ở Việt Nam hiện nay, nhiều người đã nhận thức được rằng, cơ chế thị trường, dù là cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, cũng chỉ giải quyết được một phần, một bộ phận của công bằng xã hội. Sức mạnh của cạnh tranh trong cơ chế thị trường, dù đã có sự can thiệp của nhà nước, nhưng hiệu quả kinh doanh vẫn là chủ yếu. Các vòng quay lợi nhuận không tạo ra sự công bằng tuyệt đối. Lợi nhuận là một nguyên tắc cứng trong cơ chế thị trường. Do lợi nhuận, có thể các lực lượng ngang nhau trên sân chơi phải tạo được thế quân bình để duy trì được sự vận động của các lợi ích. Tuy nhiên, cuối cùng, vẫn có người được, người mất. Và, trong cơ chế thị trường, người ta mong được lớn, được tối đa, do đó không dễ xác lập sự công bằng toàn diện.
Vẫn biết rằng, dù cơ chế thị trường nào thì cũng không thể có tự do vô hạn độ, song chiều sâu nhất của cơ chế thị trường vẫn phải chấp nhận sự bất bình đẳng, sự bất công, chấp nhận kẻ mạnh thì được, kẻ yếu thì thua.
Nhiều nhà triết học có tâm huyết hiện nay thừa nhận rằng, quy luật thị trường không phải là phương thức tốt nhất để giải quyết công bằng xã hội. Thị trường tài chính, thị trường ngân hàng, thị trường chứng khoán, thị trường lao động, vay nợ nước ngoài, sự phát triển không đều về khoa học, kỹ thuật, các làn sóng xuất khẩu, đầu tư, tin học…, trong bối cảnh toàn cầu hóa, dẫu mang lại cơ hội cho việc giải quyết một số vấn đề về lợi ích cá nhân, tập thể, dân tộc và quốc tế; song cái thị trường ấy cũng chứa đầy những hiểm nguy, khi nó tạo ra sự mất mát, nô dịch, đói nghèo, tha hóa, vô nhân đạo dưới hình thức mới.
Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội (năm 1991), Đảng Cộng sản Việt Nam đã đưa ra nhận thức sâu sắc rằng, ở Việt Nam, muốn thực hiện được công bằng xã hội toàn diện thì phải gắn độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội. Độc lập dân tộc là điều kiện đầu tiên để thực hiện công bằng xã hội và chủ nghĩa xã hội là cái nôi quan trọng để thực hiện các mục tiêu công bằng xã hội toàn diện. Để thực hiện được công bằng xã hội toàn diện, trước hết phải xây dựng Nhà nước của dân, do dân và vì dân. Trên cơ sở xây dựng chính quyền nhân dân, muốn có công bằng xã hội phải phát triển mạnh lực lượng sản xuất theo hướng hiện đại, từng bước thiết lập quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa với sự đa dạng hóa về các hình thức sở hữu, trong đó kinh tế tập thể, kinh tế quốc doanh ngày càng trở thành nền tảng của nền kinh tế quốc dân, đồng thời đa dạng hóa các hình thức phân phối.
Để thực hiện công bằng xã hội, Việt Nam phải xây dựng nền văn hóa mới. Đó là nền văn hóa gắn các giá trị tốt đẹp của truyền thống với tinh hoa của nhân loại, tạo nên một xã hội văn minh, dân chủ, vì lợi ích chân chính và nhân phẩm con người, làm cho mọi người đều có cơ hội như nhau trong quá trình phát triển tri thức, đạo đức, thể lực và thẩm mỹ.
Công bằng xã hội trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam gắn với chính sách đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế, đoàn kết con người vì hòa bình, vì tình hữu nghị, hợp tác và tiến bộ xã hội.
Có thể nói, để thực hiện mục tiêu công bằng xã hội toàn diện trong thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội, chúng ta cần phải thực hiện các giải pháp chủ yếu sau đây:
1- Xây dựng Nhà nước của dân, do dân và vì dân.
2- Hiện đại hóa lực lượng sản xuất.
3- Từng bước tập thể hóa, quốc doanh hóa trong quá trình thiết lập quan hệ sản xuất mới.
4- Xây dựng hệ tư tưởng chính thống trên nền tảng chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
5- Thực hiện đại đoàn kết: dân tộc, quốc tế, con người.
6- Tăng cường sức mạnh bảo vệ Tổ quốc.
7- Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh.
Đây cũng là các giải pháp lâu dài để thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Giải pháp hiện nay là, thông qua đổi mới toàn diện, làm cho xã hội Việt Nam đạt tới trạng thái ổn định vững chắc để tạo thế cho sự phát triển ở các chặng sau.
Như vậy, để thực hiện công bằng xã hội ở Việt Nam hiện nay, vấn đề không chỉ là phân phối theo lao động gắn với cống hiến và hưởng thụ, mà là phải phát triển xã hội toàn diện. Các giải pháp kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa phải có sự dính kết như các mắt xích trong hệ thống xã hội lấy con người làm trung tâm.
Để thực hiện công bằng xã hội, các vấn đề về lợi ích xã hội, lợi ích cá nhân, cũng như lợi ích dân tộc và lợi ích quốc tế chiếm một vị trí quan trọng. Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Đảng Cộng sản Việt Nam đã coi mục tiêu giải phóng các năng lực của con người, trong đó có năng lực cá nhân và việc thiết lập khối đại đoàn kết dân tộc và quốc tế là những cái tạo ra sự phát triển công bằng bền vững.
Để thực hiện công bằng xã hội, trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Đảng Cộng sản Việt Nam còn khẳng định việc chú ý đến lao động, đến sự phân phối theo lao động, sự tương quan giữa lao động giản đơn và lao động phức tạp, giữa thời gian lao động tất yếu và lao động tự do, giữa lao động và nhu cầu, giữa sở hữu lao động và thành quả lao động nhằm tạo cho các cá nhân sự hứng thú trong lao động và làm cho lao động trở thành nhu cầu bên trong của cá nhân. Đến lượt mình, chính quá trình này sẽ tạo nên mối quan hệ mới giữa cống hiến và hưởng thụ – cơ sở quan trọng để tạo ra sự phân phối công bằng.
Hiện nay, để thực hiện sự công bằng xã hội, chúng ta đang chú ý đến giải pháp dân chủ hóa. Chúng ta chấp nhận những luật chơi chung khi tham gia APEC và vào Tổ chức Thương mại thế giới nhằm tăng trưởng mạnh mẽ hơn nữa nền kinh tế ở Việt Nam, nhưng chúng ta không chấp nhận sự tăng trưởng kinh tế bằng mọi giá. Tăng trưởng kinh tế gắn với công bằng xã hội là sự tăng trưởng bền vững mà chúng ta đã và đang lựa chọn. Để thực hiện công bằng xã hội trong quá trình tăng trưởng kinh tế, chúng ta đang xây dựng cơ chế và thiết chế dân chủ theo di huấn của Chủ tịch Hồ Chí Minh:
“Bao nhiêu lợi ích đều vì dân.
Bao nhiêu quyền hạn đều của dân.
Công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân.
Sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc là công việc của dân.
Chính quyền từ xã đến Chính phủ trung ương do dân cử ra.
Đoàn thể từ Trung ương đến xã do dân tổ chức nên“(3).
Dân chủ trên cơ sở sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật có một ý nghĩa rất quan trọng đối với việc thiết lập công bằng xã hội ở Việt Nam hiện nay. Hiến pháp và pháp luật Việt Nam tạo điều kiện để những ai có khả năng cống hiến sẽ cống hiến hết sức mình và hưởng thụ theo lao động; những ai làm ăn phi pháp, buôn gian, bán lậu đều bị trừng trị.
Để từng bước thiết lập công bằng xã hội toàn diện trong cơ chế thị trường hiện nay, chúng ta đang thực hiện nhiều giải pháp về ngân hàng, tài chính, thuế, các chính sách xã hội, giáo dục đạo đức và lý tưởng xã hội… nhằm phát triển tối đa năng lực sáng tạo của con người, duy trì và bảo đảm cho mọi sự cạnh tranh lành mạnh được phát triển. Để đảm bảo một phần công bằng xã hội, chúng ta cũng đang thực hiện Luật chống tham nhũng, thực hành tiết kiệm, chống độc quyền và bảo vệ mọi quyền lợi chính đáng của nhân dân trong quá trình xây dựng một nền hành chính trong sạch.
Công bằng xã hội ở Việt Nam tuy đã trải những chặng đường dài, nhưng còn tồn tại không ít bất công. Việt Nam đang phấn đấu xây dựng chủ nghĩa xã hội – đó là con đường duy nhất đúng để đảm bảo công bằng xã hội theo nội dung mà nhân dân mong mỏi: mọi người đều có công ăn việc làm; mọi người đều sống no đủ và hạnh phúc; dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Bạn đang đọc nội dung bài viết Công Nghệ Nhận Diện Và Xử Lí Hình Ảnh trên website Photomarathonasia.com. Hy vọng một phần nào đó những thông tin mà chúng tôi đã cung cấp là rất hữu ích với bạn. Nếu nội dung bài viết hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!