Cập nhật nội dung chi tiết về Chuyên Mục: Tìm Hiểu Luật Trẻ Em (Phần 4) .Công An Tra Vinh mới nhất trên website Photomarathonasia.com. Hy vọng thông tin trong bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu ngoài mong đợi của bạn, chúng tôi sẽ làm việc thường xuyên để cập nhật nội dung mới nhằm giúp bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.
…(tiếp theo)…
Chương IV BẢO VỆ TRẺ EM
Mục 1. CẤP ĐỘ BẢO VỆ TRẺ EM VÀ TRÁCH NHIỆM THỰC HIỆN Điều 47. Các yêu cầu bảo vệ trẻ em 1. Bảo vệ trẻ em được thực hiện theo ba cấp độ sau đây: a) Phòng ngừa; b) Hỗ trợ; c) Can thiệp. 2. Bảo vệ trẻ em phải bảo đảm tính hệ thống, tính liên tục, có sự phối hợp chặt chẽ, hiệu quả giữa các cấp, các ngành trong việc xây dựng, tổ chức thực hiện chính sách, pháp luật và cung cấp dịch vụ bảo vệ trẻ em. 3. Cơ quan, tổ chức, cơ sở giáo dục, gia đình, cá nhân có trách nhiệm bảo vệ trẻ em. Việc bảo vệ trẻ em phải tuân thủ các quy định của pháp luật, quy trình, tiêu chuẩn do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành. 4. Trẻ em được ưu tiên bảo vệ tại gia đình, gia đình nhận chăm sóc thay thế. Việc đưa trẻ em vào cơ sở trợ giúp xã hội là biện pháp tạm thời khi các hình thức chăm sóc tại gia đình, gia đình nhận chăm sóc thay thế không thực hiện được hoặc vì lợi ích tốt nhất của trẻ em. 5. Cha mẹ, người chăm sóc trẻ em và trẻ em phải được cung cấp thông tin, được tham gia ý kiến với cơ quan, cá nhân có thẩm quyền trong việc ra quyết định can thiệp, hỗ trợ để bảo vệ trẻ em. 6. Coi trọng phòng ngừa, ngăn chặn nguy cơ gây tổn hại cho trẻ em; kịp thời can thiệp, giải quyết để giảm thiểu hậu quả; tích cực hỗ trợ để phục hồi, tái hòa nhập cộng đồng cho trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt. Điều 48. Cấp độ phòng ngừa 1. Cấp độ phòng ngừa gồm các biện pháp bảo vệ được áp dụng đối với cộng đồng, gia đình và mọi trẻ em nhằm nâng cao nhận thức, trang bị kiến thức về bảo vệ trẻ em, xây dựng môi trường sống an toàn, lành mạnh cho trẻ em, giảm thiểu nguy cơ trẻ em bị xâm hại hoặc rơi vào hoàn cảnh đặc biệt. 2. Các biện pháp bảo vệ trẻ em cấp độ phòng ngừa bao gồm: a) Tuyên truyền, phổ biến cho cộng đồng, gia đình, trẻ em về mối nguy hiểm và hậu quả của các yếu tố, hành vi gây tổn hại, xâm hại trẻ em; về trách nhiệm phát hiện, thông báo trường hợp trẻ em bị xâm hại hoặc có nguy cơ bị bạo lực, bóc lột, bỏ rơi; b) Cung cấp thông tin, trang bị kiến thức cho cha, mẹ, giáo viên, người chăm sóc trẻ em, người làm việc trong cơ sở cung cấp dịch vụ bảo vệ trẻ em về trách nhiệm bảo vệ trẻ em, kỹ năng phòng ngừa, phát hiện các yếu tố, hành vi gây tổn hại, xâm hại trẻ em; c) Trang bị kiến thức, kỹ năng làm cha mẹ để bảo đảm trẻ em được an toàn; d) Giáo dục, tư vấn kiến thức, kỹ năng tự bảo vệ cho trẻ em; đ) Xây dựng môi trường sống an toàn và phù hợp với trẻ em. Điều 49. Cấp độ hỗ trợ 1. Cấp độ hỗ trợ bao gồm các biện pháp bảo vệ được áp dụng đối với trẻ em có nguy cơ bị bạo lực, bóc lột, bỏ rơi hoặc trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt nhằm kịp thời phát hiện, giảm thiểu hoặc loại bỏ nguy cơ gây tổn hại cho trẻ em. 2. Các biện pháp bảo vệ trẻ em cấp độ hỗ trợ bao gồm: a) Cảnh báo về nguy cơ trẻ em bị xâm hại; tư vấn kiến thức, kỹ năng, biện pháp can thiệp nhằm loại bỏ hoặc giảm thiểu nguy cơ xâm hại trẻ em cho cha, mẹ, giáo viên, người chăm sóc trẻ em, người làm việc trong cơ sở cung cấp dịch vụ bảo vệ trẻ em và trẻ em nhằm tạo lập lại môi trường sống an toàn cho trẻ em có nguy cơ bị xâm hại; b) Tiếp nhận thông tin, đánh giá mức độ nguy hại, áp dụng các biện pháp cần thiết để hỗ trợ trẻ em có nguy cơ bị bạo lực, bóc lột, bỏ rơi nhằm loại bỏ hoặc giảm thiểu nguy cơ trẻ em bị bạo lực, bóc lột, bỏ rơi; c) Hỗ trợ trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt theo quy định của Luật này; d) Hỗ trợ trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt và gia đình của trẻ em được tiếp cận chính sách trợ giúp xã hội và các nguồn trợ giúp khác nhằm cải thiện Điều kiện sống cho trẻ em. Điều 50. Cấp độ can thiệp 1. Cấp độ can thiệp bao gồm các biện pháp bảo vệ được áp dụng đối với trẻ em và gia đình trẻ em bị xâm hại nhằm ngăn chặn hành vi xâm hại; hỗ trợ chăm sóc phục hồi, tái hòa nhập cộng đồng cho trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt. 2. Các biện pháp bảo vệ trẻ em cấp độ can thiệp bao gồm: a) Chăm sóc y tế, trị liệu tâm lý, phục hồi thể chất và tinh thần cho trẻ em bị xâm hại, trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt cần can thiệp; b) Bố trí nơi tạm trú an toàn, cách ly trẻ em khỏi môi trường, đối tượng đe dọa hoặc đang có hành vi bạo lực, bóc lột trẻ em; c) Bố trí chăm sóc thay thế tạm thời hoặc lâu dài cho trẻ em thuộc đối tượng quy định tại Khoản 2 Điều 62 của Luật này; d) Đoàn tụ gia đình, hòa nhập trường học, cộng đồng cho trẻ em bị bạo lực, bóc lột, bỏ rơi; đ) Tư vấn, cung cấp kiến thức cho cha, mẹ, người chăm sóc trẻ em, các thành viên gia đình trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt về trách nhiệm và kỹ năng bảo vệ, chăm sóc, giáo dục hòa nhập cho trẻ em thuộc nhóm đối tượng này; e) Tư vấn, cung cấp kiến thức pháp luật, hỗ trợ pháp lý cho cha, mẹ, người chăm sóc trẻ em và trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt; g) Các biện pháp hỗ trợ trẻ em bị xâm hại và gia đình của trẻ em quy định tại Khoản 1 Điều 43, Khoản 1 Điều 44 và Điểm d Khoản 2 Điều 49 của Luật này; h) Theo dõi, đánh giá sự an toàn của trẻ em bị xâm hại hoặc có nguy cơ bị xâm hại. Điều 51. Trách nhiệm cung cấp, xử lý thông tin, thông báo, tố giác hành vi xâm hại trẻ em 1. Cơ quan, tổ chức, cơ sở giáo dục, gia đình, cá nhân có trách nhiệm thông tin, thông báo, tố giác hành vi xâm hại trẻ em, trường hợp trẻ em bị xâm hại hoặc có nguy cơ bị bạo lực, bóc lột, bỏ rơi đến cơ quan có thẩm quyền. 2. Cơ quan lao động – thương binh và xã hội, cơ quan công an các cấp và Ủy ban nhân dân cấp xã có trách nhiệm tiếp nhận, xử lý thông tin, thông báo, tố giác; phối hợp xác minh, đánh giá, Điều tra về hành vi xâm hại, tình trạng mất an toàn hoặc gây tổn hại, mức độ nguy cơ gây tổn hại đối với trẻ em. 3. Chính phủ thiết lập tổng đài điện thoại quốc gia thường trực để tiếp nhận, xử lý thông tin, thông báo, tố giác nguy cơ, hành vi xâm hại trẻ em; quy định quy trình tiếp nhận và xử lý thông tin, thông báo, tố giác hành vi xâm hại trẻ em. Điều 52. Kế hoạch hỗ trợ, can thiệp 1. Kế hoạch hỗ trợ, can thiệp được xây dựng để tổ chức thực hiện một hoặc nhiều biện pháp ở cấp độ hỗ trợ, cấp độ can thiệp quy định tại Điều 49 và Điều 50 của Luật này áp dụng với từng trường hợp trẻ em bị xâm hại hoặc có nguy cơ bị bạo lực, bóc lột, bỏ rơi và trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt. 2. Ủy ban nhân dân cấp xã nơi trẻ em cư trú chủ trì, phối hợp với cơ quan, tổ chức, cá nhân có trách nhiệm bảo vệ trẻ em để tổ chức xây dựng, phê duyệt, triển khai kế hoạch hỗ trợ, can thiệp; bố trí nguồn lực, phân công cá nhân, tổ chức thực hiện, phối hợp thực hiện và kiểm tra việc thực hiện kế hoạch. 3. Đối với trường hợp trẻ em bị xâm hại, có nguy cơ bị bạo lực, bóc lột, bỏ rơi bởi cha, mẹ, người chăm sóc trẻ em; trẻ em bị xâm hại nhưng cha, mẹ, người chăm sóc trẻ em từ chối thực hiện kế hoạch hỗ trợ, can thiệp thì Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã, cơ quan lao động – thương binh và xã hội cấp huyện đề nghị Tòa án có thẩm quyền ra quyết định hạn chế quyền của cha, mẹ, người chăm sóc trẻ em hoặc tạm thời cách ly trẻ em khỏi cha, mẹ, người chăm sóc trẻ em và áp dụng biện pháp chăm sóc thay thế. 4. Chính phủ quy định chi Tiết Điều này. Điều 53. Trách nhiệm của người làm công tác bảo vệ trẻ em cấp xã 1. Đánh giá nguy cơ và xác định các nhu cầu của trẻ em cần được bảo vệ. 2. Tham gia quá trình xây dựng và thực hiện kế hoạch hỗ trợ, can thiệp đối với trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt, trẻ em bị xâm hại hoặc có nguy cơ bị bạo lực, bóc lột, bỏ rơi. 3. Tư vấn, cung cấp thông tin, hướng dẫn trẻ em và cha, mẹ, người chăm sóc trẻ em tiếp cận dịch vụ bảo vệ trẻ em, trợ giúp xã hội, y tế, giáo dục, pháp lý và các nguồn trợ giúp khác. 4. Tư vấn kiến thức, kỹ năng bảo vệ trẻ em cho trẻ em, cha, mẹ, người chăm sóc trẻ em và các thành viên trong gia đình, cộng đồng. 5. Kiến nghị biện pháp chăm sóc thay thế và theo dõi quá trình thực hiện. 6. Hỗ trợ trẻ em vi phạm pháp luật, trẻ em là người bị hại, người làm chứng trong quá trình tố tụng, xử lý vi phạm hành chính, phục hồi và tái hòa nhập cộng đồng theo quy định tại Điều 72 của Luật này. Điều 54. Trách nhiệm bảo vệ trẻ em trên môi trường mạng 2. Cơ quan, tổ chức, cá nhân quản lý, cung cấp sản phẩm, dịch vụ thông tin, truyền thông và tổ chức các hoạt động trên môi trường mạng phải thực hiện các biện pháp bảo đảm an toàn và bí mật đời sống riêng tư cho trẻ em theo quy định của pháp luật. 3. Chính phủ quy định chi Tiết Điều này. Mục 2. CƠ SỞ CUNG CẤP DỊCH VỤ BẢO VỆ TRẺ EM Điều 55. Các loại hình cơ sở cung cấp dịch vụ bảo vệ trẻ em 1. Cơ sở cung cấp dịch vụ bảo vệ trẻ em là cơ sở do cơ quan, tổ chức, cá nhân thành lập theo quy định của pháp luật; có chức năng, nhiệm vụ thực hiện hoặc phối hợp, hỗ trợ thực hiện một hoặc một số biện pháp bảo vệ trẻ em theo cấp độ phòng ngừa, hỗ trợ và can thiệp được quy định tại các Điều 48, 49 và 50 của Luật này. 2. Cơ sở cung cấp dịch vụ bảo vệ trẻ em được tổ chức theo loại hình cơ sở công lập và cơ sở ngoài công lập. 3. Cơ sở cung cấp dịch vụ bảo vệ trẻ em bao gồm: a) Cơ sở có chức năng, nhiệm vụ chuyên biệt cung cấp dịch vụ bảo vệ trẻ em; b) Cơ sở có một phần chức năng, nhiệm vụ cung cấp dịch vụ bảo vệ trẻ em. …(còn tiếp)…
VT
Những Nội Dung Cơ Bản Của Luật An Ninh Mạng .Công An Tra Vinh
Thứ nhất, quy định các khái niệm cơ bản và chính sách của Nhà nước về an ninh mạng; nguyên tắc và biện pháp bảo vệ an ninh mạng, bảo vệ không gian mạng quốc gia; hợp tác quốc tế về an ninh mạng; các hành vi bị nghiêm cấm về an ninh mạng; xử lý vi phạm pháp luật về an ninh mạng. Đây là cơ sở để xác định phạm vi đấu tranh, biện pháp áp dụng, các hành vi vi phạm và cách thức phòng ngừa, xử lý các hành vi này cũng như triển khai công tác nghiên cứu, hoàn thiện lý luận về an ninh mạng. Thứ hai, quy định đầy đủ các hoạt động bảo vệ an ninh mạng đối với hệ thống thông tin quan trọng về an ninh quốc gia. Với các quy định về thẩm định, kiểm tra, đánh giá điều kiện, ứng phó, khắc phục sự cố an ninh mạng được quy định tại Chương II, hệ thống thông tin quan trọng về an ninh quốc gia được bảo vệ chặt chẽ từ bên trong. Với các biện pháp bảo vệ an ninh mạng, xử lý các hành vi tấn công mạng, khủng bố mạng, gián điệp mạng, chiếm đoạt thông tin thuộc bí mật nhà nước, các hành vi chống, phá Nhà nước được quy định tại Chương I, Chương III, hệ thống thông tin quan trọng về an ninh quốc gia được bảo vệ từ bên ngoài. Đây là cơ sở pháp lý quan trọng, thể hiện sự bảo vệ tương xứng với vai trò của hệ thống thông tin an ninh quốc gia. Thứ ba, đưa ra các quy định nhằm tạo nền tảng pháp lý trong phòng ngừa, phát hiện, đấu tranh và xử lý các hành vi vi phạm pháp luật, ảnh hưởng tới an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của các tổ chức cá nhân trên không gian mạng, như soạn thảo, đăng tải thông tin trên không gian mạng có nội dung tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; kích động gây bạo loạn, phá rối an ninh, gây rối trật tự công cộng, làm nhục, vu khống; xâm phạm trật tự quản lý kinh tế; sử dụng không gian mạng để tấn công mạng, khủng bố mạng, gián điệp mạng, chiếm đoạt bí mật nhà nước, bí mật công tác, thông tin cá nhân trên không gian mạng; sử dụng không gian mạng, công nghệ thông tin, phương tiện điện tử để thực hiện các hành vi vi phạm pháp luật về an ninh, trật tự; tấn công mạng… Đây là hành lang pháp lý vững chắc để người dân có thể yên tâm kết bạn, trao đổi, buôn bán, kinh doanh hay hoạt động trên không gian mạng. Thứ tư, tập trung quy định về triển khai hoạt động bảo vệ an ninh mạng một cách đồng bộ, thống nhất từ Trung ương tới địa phương, trọng tâm là các cơ quan nhà nước và các tổ chức chính trị, quy định rõ các nội dung triển khai, hoạt động kiểm tra an ninh mạng đối với hệ thống thông tin của các cơ quan, tổ chức này. Kết cấu hạ tầng không gian mạng quốc gia, cổng kết nối mạng quốc tế cũng là một trong những đối tượng được bảo vệ trọng điểm. Với các quy định chặt chẽ cùng sự tham gia đồng bộ của cơ quan nhà nước, doanh nghiệp và tổ chức, cá nhân, việc sử dụng thông tin để vu khống, làm nhục, xâm phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín của người khác sẽ bị xử lý nghiêm minh; hành vi xâm phạm an ninh mạng sẽ được phát hiện, cảnh báo kịp thời. Các hoạt động nghiên cứu, phát triển an ninh mạng, phát triển công nghệ, sản phẩm, dịch vụ, ứng dụng nhằm bảo vệ an ninh mạng, nâng cao năng lực tự chủ về an ninh mạng và bảo vệ trẻ em trên không gian mạng cũng được quy định chi tiết, là nền tảng pháp lý quan trọng triển khai công tác an ninh mạng hiện tại và tương lai. Thứ năm, tạo cơ sở pháp lý quan trọng thực thi chính sách của Nhà nước về bảo vệ dữ liệu cá nhân, dữ liệu quốc gia trên không gian mạng. Để quản lý chặt chẽ, bảo vệ nghiêm ngặt dữ liệu của nước ta trên không gian mạng, Luật An ninh mạng đã quy định các doanh nghiệp trong và ngoài nước cung cấp dịch vụ trên mạng viễn thông, mạng internet và các dịch vụ gia tăng trên không gian mạng tại Việt Nam có hoạt động thu thập, khai thác, phân tích, xử lý dữ liệu về thông tin cá nhân, dữ liệu về mối quan hệ của người sử dụng dịch vụ, dữ liệu do người sử dụng dịch vụ tại Việt Nam tạo ra phải lưu trữ dữ liệu này tại Việt Nam trong thời gian theo quy định của Chính phủ Việt Nam. Đây là cơ sở pháp lý quan trọng để nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước, đấu tranh phòng, chống tội phạm trước các diễn biến phức tạp của hoạt động cung cấp dịch vụ xuyên biên giới, thương mại điện tử, kinh doanh tiền ảo, tiền điện tử thời gian qua. Thứ sáu, tạo cơ sở pháp lý cho công tác bảo đảm triển khai hoạt động bảo vệ an ninh mạng, xây dựng và hình thành lực lượng chuyên trách bảo vệ an ninh mạng đủ khả năng đáp ứng yêu cầu của tình hình thực tế, ưu tiên đào tạo nguồn nhân lực an ninh mạng chất lượng cao. Chú trọng giáo dục, bồi dưỡng, phổ biến kiến thức về an ninh mạng cho cơ quan, tổ chức, cá nhân với mục tiêu tham gia không gian mạng an toàn, lành mạnh, hạn chế tối đa nguy cơ, tác động tiêu cực, phát huy tối đa hiệu quả. Thứ bảy, quy định rõ trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân khi tham gia hoạt động trên không gian mạng, tập trung vào việc xác định trách nhiệm của lực lượng chuyên trách bảo vệ an ninh mạng được bố trí tại Bộ Công an, Bộ Quốc phòng.
Phan Minh Thuận
Tìm Giải Pháp Ngăn Chặn Xâm Hại Trẻ Em
Tội phạm XHTD trẻ em đang diễn biến rất phức tạp, đối tượng phạm tội không chỉ là những người học vấn thấp, người lạ, mà còn có cả người có hiểu biết pháp luật (giáo viên, sinh viên, kỹ thuật viên).
Đáng chú ý hơn, trong số các đối tượng phạm tội XHTD, có nhiều trường hợp là người vị thành niên và người 70, 80 tuổi. Thống kê cho thấy, phần lớn đối tượng phạm tội XHTD trẻ em là người thân của nạn nhân (chiếm 60% – 70%, có giai đoạn chiếm 80%)…
Thực tế đánh giá về công tác bảo vệ trẻ em, báo cáo của Bộ LĐTB&XH cũng thừa nhận, mặc dù 87% trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt đã được trợ giúp, song các vụ việc xâm hại trẻ em, đặc biệt là xâm hại tình dục trẻ em, bạo lực trẻ em có xu hướng ngày càng phức tạp, nghiêm trọng.
Cụ thể thống kê 5 tháng đầu năm 2018, toàn quốc phát hiện 682 vụ xâm hại 735 em, trong đó xâm hại tình dục là 572 vụ và 562 em bị xâm hại. Có điều rất đau lòng là tỷ lệ trẻ em bị xâm hại tình dục bởi người thân trong gia đình (bố đẻ, bố dượng, anh, em họ…) khá cao, lên tới 21,3%.
Tỷ lệ bị xâm hại tình dục bởi thầy giáo, nhân viên nhà trường là 6,2%; bởi người quen, hàng xóm là 59,9%, người lạ là 12,6% ( theo số liệu được Tổng đài điện thoại quốc gia Bảo vệ trẻ em (111) ghi nhận).
Theo các chuyên gia, để xảy ra thực trạng trên là do công tác đấu tranh, phòng ngừa tội phạm XHTD còn nhiều bất cập, trong đó có những khó khăn trong quá trình điều tra, truy tố.
Cụ thể, nhiều trường hợp, cha mẹ làm đơn tố giác hành vi phạm tội đối tượng XHTD con mình, nhưng chính đứa con (nạn nhân) lại không hợp tác, không chịu giám định vì ngại, hoặc vì sợ bạn trai vào tù. Ngoài ra, trong nhiều vụ việc, nạn nhân, người thân để sự việc trôi qua một thời gian dài, có khi hơn 3 tháng mới trình báo cơ quan chức năng. Lúc này, công tác giám định, thu thập chứng cứ, dấu vết gặp khó khăn.
Cụ thể, nhiều trường hợp trẻ em về kể với cha mẹ như người này đụng chạm con, quấy rối con thì đôi khi bị cha mẹ mắng con do ăn mặc, hay cách hành xử như thế nào mới dẫn đến tình trạng đó. Ngoài ra, nhiều khi trẻ em chia sẻ với giáo viên thì họ chưa có kĩ năng xử lý. Như vậy vô hình trung đang quy lỗi cho trẻ em khi các em bị quấy rối, xâm hại.
Dự kiến ngày 6/8 tới đây sẽ diễn ra Hội nghị trực tuyến toàn quốc về chống xâm hại trẻ em. Hội nghị sẽ đánh giá, phân tích đúng thực trạng xâm hại trẻ em, để từ đó đưa ra những đề xuất, giải pháp hiệu quả để phòng, chống tình trạng xâm hại trẻ em.
Nâng Cao Vai Trò Của Công An Xã Ở Địa Bàn Nông Thôn .Công An Tra Vinh
Ngày 27-11-2008, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã ban hành Pháp lệnh Công an xã, quy định Công an xã là lực lượng vũ trang bán chuyên trách, thuộc hệ thống tổ chức của Công an nhân dân, làm nòng cốt trong phong trào Toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc, bảo đảm an ninh, trật tự, an toàn xã hội ở địa bàn cơ sở. Đây là cơ sở pháp lý quan trọng để nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của Công an xã; trong đó xác định rõ vai trò, trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, cá nhân tham gia xây dựng lực lượng, giám sát hoạt động và phối hợp với Công an xã trong công tác bảo đảm an ninh, trật tự cơ sở. Trong những năm qua, lực lượng Công an xã đã làm tốt công tác tham mưu với cấp ủy, chính quyền cùng cấp các chủ trương, kế hoạch và biện pháp về công tác bảo đảm an ninh, trật tự, phát huy vai trò nòng cốt trong phong trào Toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc, thực hiện tốt chức năng quản lý nhà nước về an ninh, trật tự, phòng ngừa, đấu tranh có hiệu quả với các loại tội phạm, tệ nạn xã hội, và các vi phạm pháp luật; trực tiếp giải quyết 80% những vấn đề về an ninh, trật tự xảy ra trên địa bàn xã. Từ năm 2011 đến nay, lực lượng Công an xã đã phát hiện hơn 17.000 vụ, bắt giữ hơn 26.000 đối tượng phạm tội quả tang, 1.452 đối tượng có quyết định truy nã, trong đó có nhiều đối tượng nguy hiểm và đặc biệt nguy hiểm; lập hồ sơ, quản lý 2.908 đối tượng thuộc diện quản chế, cải tạo không giam giữ, án treo, hoãn thi hành án; lập 79.389 hồ sơ xử lý vi phạm hành chính đối với 116.659 người; lập hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã 8.320 đối tượng; lập hồ sơ đề nghị đưa đi cai nghiện bắt buộc 3.793 đối tượng. Lực lượng Công an xã đã cấp hàng chục nghìn sổ hộ khẩu thường trú, sổ tạm trú và duy trì thường xuyên việc khai báo tạm trú, tạm vắng. Lực lượng Công an xã đã phối hợp tham gia giải quyết các mâu thuẫn, tranh chấp trong nội bộ nhân dân, góp phần kiềm chế gia tăng tội phạm, tệ nạn xã hội, bảo đảm an ninh, trật tự, phục vụ thắng lợi nhiệm vụ phát triển kinh tế, văn hóa xã hội ở địa phương. Công an xã và tổ an ninh xã hội xã Hạnh Phúc, huyện Thọ Xuân, Thanh Hóa nhắc nhở người dân nâng cao cảnh giác với tội phạm trộm cắp tài sản. Hiện nay, trên toàn quốc có 9.327 đơn vị Công an xã, thị trấn (nơi không bố trí Công an chính quy), với quân số trên 136 nghìn đồng chí (kể cả số sĩ quan, hạ sĩ quan Công an nhân dân đảm nhiệm các chức danh Công an xã ở các xã trọng điểm, phức tạp về an ninh, trật tự), trong đó có 9.075 Trưởng Công an xã, 13.947 Phó trưởng Công an xã và 112.986 Công an viên. Hầu hết lực lượng này đã được đào tạo, bồi dưỡng, huấn luyện theo quy định của Bộ Công an, có phẩm chất chính trị và trình độ nghiệp vụ, hăng hái, nhiệt tình, trách nhiệm với công việc. Trong thực hiện nhiệm vụ, đã xuất hiện nhiều tấm gương Công an xã dũng cảm, không quản ngại nguy hiểm, sẵn sàng hy sinh tính mạng vì sự nghiệp bảo vệ an ninh Tổ quốc, vì bình yên cuộc sống, hạnh phúc của nhân dân. Chỉ tính từ khi thực hiện Pháp lệnh Công an xã đến nay, trên toàn quốc có 52 đồng chí Công an xã đã anh dũng hy sinh; 491 đồng chí bị thương trong khi thi hành nhiệm vụ. Đây là những tấm gương Công an xã tiêu biểu, xuất sắc trong công tác phòng, chống tội phạm, giữ gìn an ninh, trật tự ở cơ sở, được quần chúng nhân dân ghi nhận, được Đảng, Nhà nước, Bộ Công an và cấp ủy, chính quyền các cấp biểu dương khen thưởng. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đã đạt được, thực trạng chất lượng, hiệu quả hoạt động của lực lượng Công an xã vẫn còn một số hạn chế, bất cập. Đó là còn thiếu về số lượng (thiếu 8.976 đồng chí Công an xã theo Nghị định số 73/2009/NĐ-CP, ngày 7-9-2009 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Pháp lệnh Công an xã), năng lực, trình độ chuyên môn nghiệp vụ của một số Công an xã còn hạn chế, chất lượng không đồng đều, thiếu tính ổn định, nhất là lực lượng Công an viên còn chênh lệch giữa các vùng, miền. Công tác quy hoạch, tuyển chọn, bố trí sử dụng lực lượng Công an xã chưa mang tính ổn định lâu dài; việc trang bị vũ khí, công cụ hỗ trợ và phương tiện phục vụ cho hoạt động của lực lượng Công an xã chưa đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ được giao; các chế độ chính sách đối với Công an xã còn thấp, chưa tương xứng với khối lượng, tính chất công việc, yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ an ninh, trật tự của Công an xã. Hầu hết Phó trưởng Công an xã và Công an viên chưa được hỗ trợ bảo hiểm y tế; việc giải quyết chế độ, chính sách thương binh, liệt sĩ đối với Công an xã bị thương, hy sinh trong khi làm nhiệm vụ còn gặp nhiều khó khăn. Các văn bản quy phạm pháp luật về Công an xã đã bộc lộ những hạn chế, bất cập, chưa đáp ứng được yêu cầu bảo đảm an ninh, trật tự ở cơ sở trong tình hình mới, nhất là những quy định về tổ chức, hoạt động của Công an xã. Việc quy định: “mỗi thôn, xóm, làng, ấp, bản, buôn, phum, sóc và đơn vị dân cư tương đương được bố trí 1 Công an viên. Đối với thôn, xóm, làng, ấp, bản, buôn, phum, sóc và đơn vị dân cư tương đương thuộc xã trọng điểm phức tạp về an ninh, trật tự, xã loại 1 và xã loại 2 được bố trí không quá 2 Công an viên” như hiện nay là không phù hợp, vì dân số ở các thôn, xóm, làng, ấp, bản là không đồng đều, có những xóm, thôn, bản, đơn vị dân cư tương đương chỉ có từ 2.000 đến 3.000 nhân khẩu, trong khi đó có những xóm, thôn, bản được bố trí từ 12.000 đến 13.000 nhân khẩu, hoặc đối với những xã giáp ranh giữa nông thôn và thành phố, thị xã; giáp ranh giữa nông thôn với các địa bàn tập trung các khu, cụm công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, làng nghề, có tình hình an ninh, trật tự diễn biến phức tạp không kém các phường thuộc thành phố, thị xã, nhưng cũng chỉ được bố trí lực lượng Công an xã như những xã có tình hình an ninh, trật tự ít phức tạp khác, trong khi đó ở các phường thuộc thành phố, thị xã được bố trí lực lượng Công an chính quy. Bên cạnh đó, công tác chỉ đạo, hướng dẫn nghiệp vụ hoạt động của Công an xã có nơi, có lúc chưa sâu sát, kịp thời, dẫn đến trong thực hiện nhiệm vụ công tác của Công an xã còn bộc lộ một số hạn chế, tồn tại như công tác nắm tình hình còn yếu, chưa có phương án giải quyết các vụ việc xảy ra trên địa bàn; chưa chủ động tham mưu cho cấp ủy, chính quyền chỉ đạo thực hiện công tác bảo đảm an ninh, trật tự; một số ít trường hợp Công an xã có sai phạm trong khi thi hành nhiệm vụ phải xử lý kỷ luật. Những hạn chế, bất cập trên đã ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng, hiệu quả công tác bảo đảm an ninh, trật tự, an toàn xã hội của Công an xã. Trong thời gian tới, cùng với quá trình phát triển kinh tế – xã hội của đất nước và xu hướng đô thị hóa ngày càng nhanh chóng, tình hình hoạt động của các loại tội phạm, vi phạm pháp luật trên cả nước nói chung và ở địa bàn nông thôn nói riêng tiếp tục diễn biến phức tạp. Để phát huy hơn nữa vai trò của Công an xã trong công tác bảo đảm an ninh, trật tự, an toàn xã hội ở địa bàn nông thôn cần có sự nỗ lực, quan tâm của cấp ủy, chính quyền, Công an các cấp. Cấp ủy, chính quyền các cấp cần nâng cao trách nhiệm và nhận thức về vị trí, vai trò quan trọng của Công an xã trong công tác bảo đảm an ninh, trật tự ở cơ sở để tăng cường công tác chỉ đạo xây dựng, củng cố tổ chức và hoạt động của lực lượng Công an xã. Cần nghiên cứu xây dựng Luật Công an xã trở thành cơ sở pháp lý vững chắc để xây dựng Công an xã thực sự là lực lượng nòng cốt trong công tác bảo đảm an ninh, trật tự ở cơ sở và xây dựng phong trào Toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc. Công an các địa phương cần thường xuyên tham mưu với cấp ủy, chính quyền các cấp tập trung lãnh đạo, chỉ đạo tiếp tục thực hiện nghiêm túc, có hiệu quả các chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, các quy định của Bộ Công an và của cấp ủy, chính quyền các cấp về Công an xã, trọng tâm là thực hiện Pháp lệnh Công an xã, Nghị định số 73/2009/NĐ-CP của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Pháp lệnh Công an xã và các thông tư hướng dẫn thi hành Pháp lệnh của Bộ Công an; Chỉ thị số 10/CT-BCA-V28, ngày 23-12-2015 của Bộ trưởng Bộ Công an về tăng cường công tác quản lý, nâng cao chất lượng hiệu quả hoạt động của Công an xã đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ bảo đảm an ninh, trật tự trong tình hình mới và Chỉ thị số 06/CT-BCA-C41, ngày 20-10-2016 của Bộ Công an về tăng cường công tác phòng, chống tội phạm, bảo đảm trật tự xã hội ở địa bàn nông thôn, góp phần phục vụ xây dựng nông thôn mới trong tình hình hiện nay. Cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức cho toàn thể cán bộ, đảng viên và nhân dân về vị trí, vai trò, tầm quan trọng và ý nghĩa chiến lược của việc xây dựng, củng cố lực lượng Công an xã trong sự nghiệp phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, bảo đảm an ninh, quốc phòng, đối ngoại, coi đây là nhiệm vụ trọng tâm, thường xuyên gắn với việc thực hiện nhiệm vụ chính trị của đơn vị, địa phương. Công tác tuyển chọn, bố trí, sử dụng Công an xã cần bảo đảm ổn định lâu dài, đáp ứng yêu cầu bảo đảm an ninh, trật tự ở cơ sở; ưu tiên tuyển chọn công dân phục vụ có thời hạn trong Công an nhân dân, Quân đội nhân dân đã hoàn thành nghĩa vụ trở về địa phương tham gia Công an xã. Thực hiện đầy đủ các quy định về lương, nâng mức phụ cấp cho Công an xã và các chế độ đãi ngộ khác, như trợ cấp ngày công lao động thêm giờ, ngày công lao động vào ban đêm… Kịp thời giải quyết các chính sách công nhận thương binh, liệt sĩ đối với những trường hợp Công an xã bị thương, hy sinh trong khi làm nhiệm vụ. Nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng, huấn luyện Công an xã và định kỳ tổ chức các lớp đào tạo, bồi dưỡng, huấn luyện, bảo đảm Công an xã có phẩm chất, đạo đức, ý thức trách nhiệm trong công tác, gắn bó gần gũi với nhân dân, nắm vững quy định của pháp luật về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Công an xã; biết tổ chức phòng ngừa, phát hiện, đấu tranh ngăn chặn các hoạt động phạm tội và các hành vi vi phạm pháp luật khác, giải quyết và xử lý những vụ việc xảy ra ở cơ sở theo đúng đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước và quy định của ngành Công an. Cần tiếp tục nâng cao vai trò nòng cốt của Công an xã trong phong trào Toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc, tham mưu cho cấp ủy, chính quyền xã và phối hợp với các ban, ngành, đoàn thể, tổ chức xã hội trong tuyên truyền, phổ biến đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước về an ninh, trật tự, thông tin kịp thời, thường xuyên về phương thức thủ đoạn hoạt động các loại tội phạm, tệ nạn xã hội nhằm nâng cao ý thức cảnh giác cho nhân dân; kịp thời phát hiện, biểu dương khen thưởng gương người tốt, việc tốt trong đấu tranh, phòng chống tội phạm, bảo vệ an ninh, trật tự; nhân rộng các mô hình, điển hình tiên tiến tự phòng, tự quản, tự bảo vệ, tự hòa giải ở cơ sở. Công an các đơn vị, địa phương cần tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo, hướng dẫn Công an xã thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ, chủ động nắm tình hình một cách đầy đủ nhiều lĩnh vực trên địa bàn xã để tham mưu với cấp ủy, chính quyền cùng cấp có các chủ trương, kế hoạch, biện pháp bảo đảm an ninh, trật tự. Tăng cường quản lý nhà nước về an ninh, trật tự; phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm, vi phạm pháp luật và tệ nạn xã hội; quản lý, giáo dục, cảm hóa, giúp đỡ số đối tượng cải tạo không giam giữ, người bị kết án tù được hưởng án treo, người chấp hành xong hình phạt tù, được đặc xá, tha tù trước thời hạn, người sau cai nghiện ma túy trở về địa phương tái hòa nhập cộng đồng. Kịp thời phát hiện, phối hợp giải quyết các mâu thuẫn, tranh chấp trong nội bộ nhân dân ngay từ đầu và tại cơ sở, không để kéo dài, hình thành “điểm nóng” về an ninh, trật tự.
Theo Cand.com.vn
Bạn đang đọc nội dung bài viết Chuyên Mục: Tìm Hiểu Luật Trẻ Em (Phần 4) .Công An Tra Vinh trên website Photomarathonasia.com. Hy vọng một phần nào đó những thông tin mà chúng tôi đã cung cấp là rất hữu ích với bạn. Nếu nội dung bài viết hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!