Xem 12,276
Cập nhật nội dung chi tiết về Chức Năng Xã Hội Của Nhà Nước Việt Nam Hiện Nay mới nhất ngày 25/05/2022 trên website Photomarathonasia.com. Hy vọng thông tin trong bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu ngoài mong đợi của bạn, chúng tôi sẽ làm việc thường xuyên để cập nhật nội dung mới nhằm giúp bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Cho đến nay, bài viết này đã thu hút được 12,276 lượt xem.
--- Bài mới hơn ---
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
LÊ THỊ THỦY
CHỨC NĂNG XÃ HỘI
CỦA NHÀ NƯỚC VIỆT NAM HIỆN NAY
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI – 2011
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
LÊ THỊ THỦY CHỨC NĂNG XÃ HỘI
CỦA NHÀ NƯỚC VIỆT NAM HIỆN NAY
Chuyên ngành : Lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật
Mã số : 60 38 01 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: TS. Lê Quốc Hùng
HÀ NỘI – 2011
MỤC LỤC
Trang
Chương 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ CHỨC NĂNG XÃ HỘI CỦA
NHÀ NƯỚC VIỆT NAM
3
1.1.
Khái niệm và đặc điểm chức năng xã hội của Nhà nước Việt Nam
3
1.2.
Quá trình phát triển của chức năng xã hội của Nhà nước Việt Nam
12
1.3.
Vai trò và mối liên hệ giữa chức năng xã hội với các chức
năng khác của nhà nước
18
Chương 2: NỘI DUNG CHỨC NĂNG XÃ HỘI CỦA NHÀ NƯỚC
VIỆT NAM HIỆN NAY
24
2.1.
Tình hình kinh tế, chính trị – xã hội của Việt Nam trong giai
đoạn hiện nay
24
2.2.
Nhiệm vụ, chiến lược của nhà nước Việt Nam hiện nay
25
2.2.1.
Nhiệm vụ chiến lược chung
25
2.2.2.
Nhiệm vụ, chiến lược cụ thể
26
2.3.
Nội dung cơ bản của chức năng xã hội của Nhà nước Việt
Nam hiện nay
33
2.3.1.
Xây dựng môi trường pháp lý thuận lợi cho các hoạt động của
đời sống xã hội
33
2.3.2
Xây dựng và đảm bảo thực hiện các chính sách xã hội
34
2.3.3.
Đảm bảo cung cấp các dịch vụ công cho xã hội
37
2.3.4.
Giải quyết các vấn đề xã hội
43
2.3.5.
Bảo trợ và phúc lợi xã hội
63
2.4.
Những yếu tố tác động đến chức năng xã hội của Nhà nước
Việt Nam hiện nay
69
2.4.1.
Yếu tố chính trị
69
2.4.2.
Yếu tố kinh tế
70
2.4.3.
Yếu tố hội nhập quốc tế
72
Chương 3: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ CÁCH THỨC THỰC HIỆN CHỨC
NĂNG XÃ HỘI HIỆU QUẢ TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
73
3.1.
Phương hướng thực hiện chức năng xã hội của Nhà nước Việt
Nam hiện nay
73
3.1.1.
Đổi mới nhận thức về chức năng xã hội của nhà nước
73
3.1.2
Đổi mới nội dung và cách thức thực hiện chức năng xã hội
74
3.1.3.
Đổi mới nhận thức về chức năng xã hội của nhà nước là sự kết
hợp hài hòa giữa “nhà nước hóa” và “xã hội hóa”
75
3.1.4.
Đổi mới chức năng xã hội phải được đặt trong mới quan hệ tổng
thể đối mới các chức năng khác của nhà nước
76
3.1.5.
Những hạn chế nhất định trong việc thực hiện chức năng xã
hội của nhà nước
77
3.2.
Những cách thức thực hiện chức năng xã hội của Nhà nước
trong giai đoạn hiện nay 79
3.2.1.
Tổ chức và kiện toàn bộ máy nhà nước
79
3.2.2.
Hoàn thiện hệ thống pháp luật
82
Danh môc tµi liÖu tham kh¶o
94 1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Chức năng xã hội là một trong những chức năng quan trong, thể hiện
rõ nét bản chất “nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân” của nhà
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Cùng với chức năng chính trị,
chức năng kinh tế, chức năng xã hội của nhà nước là một chuỗi các phương
diện hoạt động chính của nhà nước nhằm thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ
của nhà nước, là các hoạt động có quá trình hình thành và phát triển và được
thể hiện rõ rệt theo từng giai đoạn phát triển của nhà nước Việt Nam.
Mặc dù chức năng xã hội là một trong những chức năng nguyên thủy
của Nhà nước, xuất hiện ngay từ khi xuất hiện nhà nước. Song đây lại là một
vấn đề lý luận tương đối mới mẻ so với các nội dung khác trong lý luận về
Nhà nước và pháp luật. Ở nước ta, chức năng này mới được đề cập rộng rãi
trong những năm gần đây của thời kỳ đổi mới. Và trên phương diện lý luận và
thực tiễn, đã xuất hiện nhiều quan điểm khác nhau về vai trò, phạm vi, nội
dung, phương thức thực hiện chức năng xã hội của Nhà nước. Điều này làm
ảnh hưởng không nhỏ đến việc đảm bảo thực hiện đúng chức năng xã hội của
nhà nước trong giai đoạn hiện nay, giai đoạn tiến tới xây dựng và hoàn thiện
nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam: “Nhà nước cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân,
so nhân dân và vì nhân dân. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà
nền tảng là liên minh giai cấp công nhân và giai cấp nông dân và đội ngũ trí
thức” .
4
Từ khi ra đời, nhà nước giữ một vị trí và vai trò quan trọng trong xã
hội có giai cấp thể hiện trong mối quan hệ giữa nhà nước và xã hội, giữa nhà
nước và các tổ chức chính trị xã hội. Xã hội là cơ sở cho sự phát sinh, phát
triển và diệt vong của nhà nước. Ngược lại, Nhà nước là một bộ phận quan
trọng không thể thiếu được của xã hội có giai cấp. Nhờ có nhà nước tác động
toàn diện, mạnh mẽ đến đời sống xã hội và giữ vai trò quan trọng trong việc
thực hiện những lợi ích cơ bản của giai cấp thống trị và duy trì những điều
kiện cho sự tồn tại và phát triển của xã hội. Các chức năng của nhà nước được
hình thành xuất phát từ nhiệm vụ duy trì sự thống trị giai cấp và duy trì sự tồn
tại, phát triển của toàn xã hội. Mỗi chức năng của nhà nước thể hiện sự thống
nhất về tổ chức, hình thức và biện pháp thực hiện quyền lực nhà nước trong
lĩnh vực hoạt động của nhà nước, gắn với việc thực hiện các nhiệm vụ của
nhà nước. Chức năng của nhà nước phản ánh bản chất, vai trò và vị trí của
nhà nước đối với xã hội. “Chức năng của nhà nước là những phương hướng
(hay phương diện, mặt hoạt động cơ bản của nhà nước nhằm thực hiện các
mục tiêu, nhiệm vụ của nhà nước trong các giai đoạn phát triển cụ thể”.
Chức năng xã hội là một trong những chức năng cơ bản của nhà nước.
Đây không phải là một khái niệm mới xuất hiện. Ph. Ăngghen không những
thừa nhận chức năng xã hội của nhà nước tồn tại từ ngay khi nhà nước mới ra
đời mà còn khẳng định chức năng xã hội trong nhiều trường hợp còn nổi bật
hơn chức năng chuyên chính giai cấp:
Nhà nước mà những nhóm tự nhiên gồm các công xã trong
cùng một bộ lạc đã đi đến chỗ thiết lập ra trong quá trình tiến triển
của họ (như việc tưới nước ở phương Đông)… Trên cơ sở phân hóa
xã hội, yêu cầu tổ chức công trình tưới nước và yêu cầu đấu tranh tự
vệ làm cho nhiều nhà nước phương Đông ban đầu vốn là chức năng
chung của xã hội, tiêu biểu cho lợi ích chung của cộng đồng rồi dần
dần chuyển sang địa vị đối lập với xã hội, trở thành chức năng của
nhà nước đối với xã hội , thể hiện
rõ bản chất nhà nước của dân, do dân và vì dân: Nhân dân là chủ thể tối cao
của quyền lực nhà nước, thực hiện quyền lực nhà nước dưới nhiều hình thức
khác nhau như thông qua bầu cử lập ra các cơ quan đại diện quyền lực của
mình, kiểm tra, giám sát các hoạt động của các cơ quan nhà nước… Nhà nước
Việt Nam là nhà nước của tất cả các dân tộc trên lãnh thổ Việt Nam, là biểu
hiện tập trung của khối đại đoàn kết dân tộc anh em, được tổ chức và hoạt
động trên cơ sở bình đẳng trong các mối quan hệ giữa nhà nước và công dân.
10
Nhà nước thể hiện tính dân chủ rộng rãi, một mặt tạo điều kiện thuận lợi về
chính trị, pháp lý, kinh tế để đảm bảo sự tăng trưởng kinh tế của nền kinh tế
quốc dân, mặt khác quan tâm mạnh mẽ đến việc giải quyết các vấn đề xã hội,
quan tâm phát triển văn hóa giáo dục, bảo vệ sức khỏe của nhân dân, tôn
trọng các giá trị con người. Bên cạnh đó, bản chất của nhà nước còn được thể
hiện ở chính sách đối ngoại thể hiện khát vọng hòa bình, mong muốn hợp tác
trên tinh thần hữu nghị, cùng có lợi với tất cả các quốc gia trên thế giới.
Chức năng xã hội của nhà nước thể hiện tính quyền lực và tính dân
chủ của nhà nước. Chức năng xã hội là một trong những chức năng cơ bản
của nhà nước, là phương diện hoạt động chủ yếu trong lĩnh vực xã hội, là một
trong những hình thức thể hiện quyền lực nhà nước, luôn gắn liền với cơ cấu
quyền lực nhà nước. Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, trong bất kì
xã hội có giai cấp nào, quyền lực nhà nước cũng vẫn là quyền lực của giai cấp
thống trị, là công cụ chuyên chính của một giai cấp, thể hiện trên ba phương
diện: thống trị về chính trị, về kinh tế và về tư tưởng đồng thời duy trì những
điều kiện cần thiết cho sự tồn tại của xã hội. Việc thực hiện chức năng xã hội
của nhà nước cũng là một trong những hình thức thể hiện tính quyền lực của
nhà nước. Bản chất của nhà nước xã hội chủ nghĩa là Nhà nước dân chủ, tức
là quyền lực thuộc về nhân dân, nhân dân thực hiện quyền lực thông qua các
cơ quan đại diện, thông qua các hình thức khác để tham gia vào hoạt động
quản lý của nhà nước, tác động mạnh mẽ đến quá trình hoạch định chính sách
đường lối của Đảng và nhà nước, cũng như vào các hoạt động quản lý điều
hành. Bên cạnh đó nhân dân tham gia công việc của nhà nước và xã hội ở cơ
sở trong các hoạt động đa dạng nhằm bảo vệ của công, bảo vệ quyền và lợi
ích của công dân và trật tự an toàn xã hội, tổ chức đời sống công cộng.
Nhân dân ta, người chủ của quyền lực, không chỉ tạo lập nên nhà nước
của mình, trực tiếp và thông qua các cơ quan đại diện cho mình thực thi
quyền lực, mà còn thông qua các hình thức khác để tham gia vào hoạt động
quản lý của nhà nước, tác động mạnh mẽ đến quá trình hoạch định chính sách
11
đường lối của Đảng và nhà nước, cũng như các hoạt động lập pháp, hoạt động
quản lý điều hành, công tác xét xử và các hoạt động bảo vệ pháp luật. Điều 53
của Hiến pháp đã ghi nhận: “Công dân có quyền tham gia quản lý Nhà nước
và xã hội…”. Ở những mức độ khác nhau, nhân dân có thể tác động một cách
tích cực vào quá trình thực hiện quyền lực của nhà nước. Hiến pháp và pháp
luật của nhà nước ta đã có nhiều quy định cụ thể để hiện thực hóa khả năng
đó. Nhà nước phát triển công tác thông tin, báo chí, phát thanh, truyền hình,
điện ảnh, xuất bản, thư viện và các phương tiện thông tin đại chúng khác,
khuyến khích phát triển các hình thức hoạt động văn học, nghệ thuật. Đó là
kênh cực kỳ quan trọng để qua đó nhân dân góp tiếng nói của mình vào quá
trình hoạch định đường lối của Đảng, xây dựng chính sách và pháp luật của
nhà nước. Đảng và Nhà nước đã tạo ra mọi điều kiện để công dân có thể sử
dụng quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, quyền được thông tin, quyền khiếu
nại, quyền tố cáo vơi các cơ quan nhà nước có thẩm quyền về những việc làm
trái pháp luật của cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ
trang nhân dân hoặc bất cứ cá nhân nào. Việc khiếu nại. tố cáo được cơ quan
nhà nước xem xét và giải quyết trong thời hạn pháp luật quy định, Chính phủ
thực hiện chế độ báo cáo trước nhân dân thông qua các phương tiện thông tin
đại chúng về những vấn đề quan trọng mà Chính phủ phải giải quyết. Hiến
pháp cũng quy định trách nhiệm của Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân các
cấp thực hiện chế độ thông báo tình hình mọi mặt của địa phương…
Bản chất của nhà nước xã hội chủ nghĩa là nhà nước dân chủ, quyền
lực thuộc về nhân dân nhưng để thực hiện được dân chủ thực sự, phải thu hút
được các tầng lớp lao động tham gia một cách rộng rãi và thật sự bình đẳng
vào quản lý công việc nhà nước và xã hội. Trên phương diện pháp lý, trình độ
dân chủ thể hiện ở chỗ pháp luật ghi nhận và bảo đảm các quyền dân chủ cho
công dân được thực hiện như thế nào, là sự thể hiện của việc giải quyết mối
quan hệ giữa nhà nước và công dân. Trong xã hội dân chủ, hoạt động của nhà
nước chỉ thể hiện trong những “khoảng hợp pháp” chứ không phải bao trùm
12
lên toàn bộ đời sống xã hội. Chủ trương xã hội hóa trong việc thực hiện các
chức năng cua nhà nước trong đó có chức năng xã hội hiện nay là một biểu
hiện rõ nét của chế độ dân chủ.
Chức năng xã hội của nhà nước tồn tại một cách tất yếu khách quan,
bắt nguồn từ bản chất và thể hiện bản chất chung của nhà nước, trong đó chức
năng giai cấp giữ vai trò định hướng, chi phối chức năng xã hội và chức năng
xã hội là điều kiện, cơ sở xã hội để thực hiện chức năng giai cấp. Chức năng
xã hội của nhà nước có nội dung khác nhau ở mỗi giai đoạn phát triển của xã
hội. Ngay từ khi xuất hiện, nhà nước thể hiện vai trò trên hai phương diện cơ
bản là công cụ bảo vệ giai cấp và quản lý những công việc chung của xã hội,
tức là thực hiện hai chức năng: chức năng thống trị giai cấp và chức năng xã hội.
Cuộc sống xã hội bao gồm rất nhiều lĩnh vực vận động. Các lĩnh vực
đều cần có sự tác động của nhà nước – sự tác động được thực hiện dưới những
hình thức và mức độ khác nhau. Mỗi lĩnh vực ấy có những quy luật vận động
đặc thù, do vậy đòi hỏi ở nhà nước một sự tác động cũng đặc thù, phù hợp với
từng đặc điểm của từng lĩnh vực.
1.2. QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN CỦA CHỨC NĂNG XÃ HỘI CỦA NHÀ
NƢỚC VIỆT NAM
Chức năng xã hội của nước ta là một trong những chức năng cơ bản
và nhất quán trong toàn bộ lịch sử phát triển của nhà nước Việt Nam.
Ở Việt Nam, con đường hình thành nhà nước diễn ra có sự khác biệt.
Theo tư liệu lịch sử, đặc biệt là về mức độ chênh lệch tài sản trong mộ táng,
thì sự phân hóa giai cấp trong xã hội chưa sâu sắc, chưa dẫn đến mâu thuẫn
giai cấp không thể điều hòa được. Nhưng sở dĩ nhà nước vẫn được hình thành
vì có hai yếu tố đặc biệt và quan trọng thúc đẩy, đó là: công cuộc chống ngoại
xâm và công cuộc trị thủy – thủy lợi. Trải qua thời kỳ phát triển lâu dài, sự
phát triển của sức sản xuất tạo ra sản phẩm dư thừa. Mặt khác, do nhu cầu bức
thiết và sống còn của công cuộc trị thủy thủy lợi và chống giặc ngoại xâm,
13
Hùng Vương vốn là tù trưởng một bộ lạc đã đứng ra thống nhất các bộ lạc
khác và trở thành thủ lĩnh của liên minh bộ lạc, trở thành người chỉ huy quân
sự tối cao và người điều hành cao nhất trong công cuộc trị thủy – thủy lợi. Lợi
dụng uy tín và địa vị đó, Hùng Vương và các con cháu của mình, dần dần
theo cách nói của Ph Angghen, từ việc đảm nhận “chức năng xã hội” tiêu biểu
cho lợi ích chung đã chuyển sang “địa vị độc lập với xã hội” và vươn lên
thống trị xã hội, biến thành ông vua cùng bộ máy cai trị giúp việc của mình.
Trải qua các giai đoạn chính quyền đô hộ nghìn năm của phong kiến
Trung Quốc, thế kỷ thứ X đánh dấu một bước ngoặt lớn trong lịch sử dựng
nước và giữ nước của dân tộc, kết thúc thời kì thống trị hà khắc và nguy hiểm
của phong kiến nước ngoài, giành độc lập dân tộc. Nhà nước đầu tiên, và nhà
nước hầu hết qua các triều đại, chính quyền nhà nước đều phải đứng ra đảm
nhận vai trò tổ chức toàn thể dân tộc chống giặc ngoại xâm và vai trò trị thủy
và thủy lợi. Chức năng xã hội của nhà nước được hình thành từ khi xuất hiện
nhà nước và duy trì trong suốt quá trình phát triển của mình.
Trong suốt thời kỳ bị thực dân Pháp thống trị, dân tộc ta đã liên tục
đấu tranh quật khởi giành độc lập dân tộc. Và ngay từ những ngày đầu mới
thành lập, nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa non trẻ đã tập trung giải
quyết ba nhiệm vụ lớn: diệt giặc đói, diệt giặc dốt, diệt giặc ngoại xâm. Mặc
dù, đất nước trong hoàn cảnh chiến tranh với bao khó khăn chồng chất, nhưng
ở các địa phương, chính quyền cách mạng đã từng bước mang lại quyền lợi
cho nhân dân như giảm tô, giảm tức, bảo vệ an ninh trật tự xã hội. Đặc biệt là
việc kịp thời tiến hành cải cách ruộng đất để “người cày có ruộng”, thủ tiêu
quyền chiếm hữu ruộng đất của thực dân pháp, đế quốc xâm lược khác và của
địa chủ Việt Nam. Nhà nước chú trọng việc xây dựng các văn bản pháp luật
quy định và đảm bảo các quyền tư do dân chủ của công dân Việt Nam như:
Sắc lệnh ngày 8/9/1945 về quyền bầu cử; Sắc lệnh số 51 ngày 17/10/1945 về
tổng tuyển cử; Sắc lệnh ngày 29/03/46 về quyền tự do báo chí; Sắc lệnh ngày
22/4/1946 về quyền tự do hội họp. Và đặc biệt là Hiến pháp 1946 được Quốc
14
hội thông qua ngày 9/11/1946 với 1 chương ghi nhận và đảm bảo những
quyền cơ bản của công dân.
Trong giai đoạn này bên cạnh việc ghi nhận các quyền tự do cơ bản
của công dân, Đảng và Nhà nước ta còn ý thức tầm quan trọng của giáo dục
đào tạo, xác định con người luôn vừa là động lực vừa là mục đích của sự
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: Một dân tộc
dốt là một dân tộc yếu và khẳng định ba nhiệm vụ lớn của chính quyền: là diệt
giặc đói, diệt giặc dốt và diệt giặc ngoại xâm. Và người đã ký 3 sắc lệnh: Sắc
lệnh số 17 thành lập bình dân học vụ, Sắc lệnh số 19 cho phép lập lớp bình
dân học vụ vào buổi tối cho người nông dân và thợ thuyền, Sắc lệnh số 20
quy định việc học chữ quốc ngữ là bắt buộc và không mất tiền. Nhiều lớp học,
trường học ở các cấp học đã được mở ra, hệ thống giáo dục mới của nước ta
được bắt đầu hình thành. Để tránh giặc đói, nhà nước đã thủ tiêu những luật lệ
hạn chế việc chuyên chở thóc gạo cho Pháp, Nhật đặt ra trước đây và thay
bằng một loạt quyết định mới, tìm mọi biện khôi phục và phát triển sản xuất
bằng việc bãi bỏ những thể lệ kìm hãm sản xuất công thương và lưu thông
hàng hóa, cải cách chế độ thuế thóc, bãi bỏ các thứ thuế nô dịch, bất công
giảm gánh nặng cho dân chúng.
Trong giai đoạn 1954 – 1975, mặc dù đất nước tồn tại song song hai
chính quyền cách mạng với hai nhiệm vụ chiến lược khác nhau: miền Nam
đấu tranh giành và xây dựng chính quyền cách mạng, bên cạnh đó Mặt trận
dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam còn đề ra và thực hiện những nhiệm
vụ cụ thể, trong đó có nhiệm vụ: xây dựng nền văn hóa giáo dục dân tộc và
tiến bộ, xóa nạn mù chữ, mở rộng trường học, cải cách chế độ học tập và thi
cử, thực hiện nam nữ bình quyền, bảo vệ quyền bình đẳng giữa các dân tộc,
thực hiện chế độ dân chủ rộng rãi và tiến bộ… còn miền Bắc xây dựng Nhà
nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, khôi phục kinh tế, cải cách xã hội chủ nghĩa,
đấu tranh thi hành Hiệp định Gienevơ, thực hiện thắng lợi kế hoạch 5 năm,
vừa xây dựng kinh tế vừa đánh thắng hai cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc
15
bằng không quân của đế quốc Mỹ, đấu tranh ngoại giao và ký kết Hiệp định
Pari về Việt Nam, chi viện kịp thời và to lớn cho cách mạng miền Nam.
Nhìn chung trong giai đoạn 1954 – 1975, chức năng xã hội của nhà
nước đều được thực hiện trên cơ sở nền kinh tế lạc hậu, phụ thuộc vào sự viện
trợ từ bên ngoài. Đất nước trong giai đoạn chiến tranh bị chia cắt thành hai
miền với hai chế độ chính trị khác nhau, song Nhà nước ta vẫn xây dựng một
hậu phương vững chắc, động viên cao độ sức người, sức của cho tiền tuyến,
quyết tâm giành độc lập dân tộc, thống nhất đất nước. Chức năng xã hội của
nhà nước trong giai đoạn này chưa được bộc lộ rõ so với chức năng chuyên
chính giai cấp và chức năng kinh tế, và việc thực hiện chức năng xã hội trong
giai đoạn này phần lớn nhờ vào việc thực hiện chức năng khác của nhà nước
và chủ yếu là chức năng kinh tế.
Trong giai đoạn 1976 – 1986, đất nước hòa bình, thống nhất và bước
vào giai đoạn xây dựng chủ nghĩa xã hội trên phạm vi cả nước, nhưng do mắc
phải những sai lầm chủ quan duy ý chí, ấu trĩ tả khuynh, duy trì quá lâu cơ
chế quản lý cũ dẫn đến nước ta lâm vào tình trạng khủng hoảng kinh tế xã hội
trầm trọng. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (1986) là mốc quan trọng dẫn
đến sự chuyển đổi trong nhận thức và tư duy của Đảng: Xác định đổi mới
kinh tế là trọng tâm, là cơ sở cho việc đổi mới từng bước hệ thống chính trị.
Chuyển đổi từ cơ chế tập trung, quan liêu, bao cấp sang cơ chế thị trường và
theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Hệ thống chính trị phải được đổi mới từng
bước vững chắc, giữ vững ổn định chính trị tạo điều kiện thuận lợi cho việc
đổi mới kinh tế. Cơ sở lý luận của công cuộc xây dựng nhà nước xã hội chủ
nghĩa là chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
Trong nền kinh tế tập trung, quan liêu, bao cấp, chức năng xã hội của
nhà nước được thực hiện phiến diện. Các đối tượng được hưởng các chế độ
bảo đảm và dịch vụ công chủ yếu là người lao động trong khu vực hành chính
sự nghiệp, trong các cơ quan và đơn vị kinh tế nhà nước. Với nguyên tắc thực
16
hiện phân phối công bằng, trực tiếp, trên cơ sở các chỉ tiêu kế hoạch cụ thể
thậm chí nhà nước xác định cụ thể tới những nhu cầu tối thiểu của từng cá
nhân về ăn, ở, mặc, chăm sóc sức khỏe… Tất cả được thực hiện với nguồn
kinh phí của nhà nước, tất cả đều dựa vào nhà nước.
Với nên kinh tế thị trường, ngoài việc thực hiện các chế độ đối với
những đối tượng trên, Nhà nước đã thực sự quan tâm đến tầng lớp nhân dân
khác, đặc biệt là nông dân, nông thôn và những vùng đặc biệt khó khăn. Đảm
bảo đời sống tối thiểu cho mọi thành phần dân cư trong xã hội bằng cách tạo
mọi điều kiện, cơ hội để mọi thành viên trong xã hội cùng phát triển theo khả
năng của mình, bảo đảm cho mọi người sống trong môi trường xã hội an toàn,
lành mạnh, mọi người đều được quan tâm chăm sóc, thụ hưởng các phúc lợi
về giáo dục, y tế, văn hóa…
Trong công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay, việc xây dựng một nhà
nước thực sự là nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân (theo
Hiến pháp năm 1992) là một trong những nhiệm vụ quan trọng. Điều này lại
một lần nữa khẳng định bản chất giai cấp và chức năng giai cấp của nhà nước
mang bản chất giai cấp công nhân vẫn được giữ vững, đồng thời chức năng xã
hội, bản chất xã hội của nhà nước được xác định một cách rõ ràng hơn. Chức
năng xã hội của nhà nước trong giai đoạn này có sự thay đổi về nội dung và
phương thức thực hiện, xuất hiện từ yêu cầu đòi hỏi khách quan của xã hội
nhằm đáp ứng đòi hỏi của chính sự vận động và phát triển của xã hội. Từ sự
thay đổi cơ chế kinh tế, hàng loạt các vấn đề xã hội nảy sinh trong quá trình
kinh tế như: việc làm, thu nhập, văn hóa, giáo dục, y tế, bảo trợ xã hội… đòi
hỏi phải có sự kiểm soát từ phía nhà nước. Dân chủ trong kinh tế đòi hỏi dân
chủ trong lĩnh vực xã hội phải được phát huy, nhân dân ngày càng tham gia
tích cực vào việc giải quyết các công việc nhà nước, công việc xã hội. Vị trí
và vai trò của nhà nước chuyển dần từ vai trò “một người bảo trợ” chung cho
toàn xã hội chuyển sang thành “người cầm lái”, khởi xướng và tổ chức các
hoạt động xã hội, là chủ thể hoạch định và thực thi các chính sách xã hội. Một
18
có công, người được hưởng chính sách xã hội, phân phối thu nhập xã hội
công bằng, hợp lý, tạo động lực phát triển mạnh, góp phần phòng, chống tiêu
cực, tệ nạn xã hội. Nhà nước xây dựng và hoàn chỉnh hệ thống chính sách bảo
đảm cung ứng dịch vụ công thiết yếu, bình đẳng cho mọi người dân về giáo
dục và đào tạo, giải quyết việc làm, chăm sóc sức khỏe, văn hóa, thông tin,
thể thao…
Những tiền đề cơ bản của công cuộc đổi mới và những chuyển biến
tích cực của Nhà nước trong việc thực hiện chức năng công quyền và chức
năng xã hội theo cơ chế mới, ngày càng thích ứng với điều kiện phát triển nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và mở cửa, hội nhập kinh tế
quốc tế trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay không thể tách rời vai trò lãnh
đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước đã làm cho công việc thực hiện chức
năng xã hội của Nhà nước tiến những bước quan trọng.
1.3. VAI TRÒ VÀ MỐI LIÊN HỆ GIỮA CHỨC NĂNG XÃ HỘI VỚI CÁC
CHỨC NĂNG KHÁC CỦA NHÀ NƢỚC
Chức năng xã hội là chức năng cơ bản của nhà nước, mọi nhà nước
đều phải thực hiện việc quản lý những hoạt động chung đồng thời phải chăm
lo một số việc chung của toàn xã hội. Ph. Ăngghen đã viết: “Ở khắp nơi, chức
năng xã hội là cơ sở của sự thống trị chính trị, và sự thống trị chính trị cũng
chí kéo dài chừng nào nó còn thực hiện chức năng xã hội của nó”. Cũng như
mọi nhà nước khác đã từng tồn tại trong lịch sử, nhà nước xã hội chủ nghĩa
muốn thực hiện chức năng giai cấp của mình trước hết phải làm tốt chức năng
xã hội, đặc biệt là việc không ngừng mở rộng dân chủ cho nhân dân, sử dụng
sức mạnh, lực lượng của mình để bảo vệ và bảo đảm tuyệt đối các quyền tự
do dân chủ của nhân dân. Thực hiện tốt chức năng xã hội là cơ sở, điều kiện
tiên quyết để nhà nước đảm bảo và giữ vững địa vị xã hội về mặt chính trị,
nghĩa là có đầy đủ khả năng để trấn áp sự phản kháng của các giai cấp bóc lột
và các thế lực thù địch.
19
Chức năng xã hội thể hiện bản chất của nhà nước, là cơ sở để xác định
và đánh giá bản chất nhà nước: “Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam là nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Tất cả quyền lực
nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giai cấp công nhân, giai
cấp nông dân và tầng lớp trí thức” .
21
Về sở hữu, tồn tại sở hữu toàn dân, tập thể và sở hữu tư nhân. Nhà
nước xây dựng cơ chế, chính sách tạo điều kiện thuận lợi cho người lao động
trực tiếp hay thông qua khâu trung gian nhất định tham gia vào quá trình
hoạch định, tổ chức, giám sát, kiểm tra việc thực hiện kế hoạch phát triển của
đất nước. Và trên lĩnh vực phân phối nhà nước ưu tiên phân phối theo lao
động và phúc lợi xã hội, kết hợp tăng trưởng kinh té với việc thực hiện công
bằng xã hội, hoạch định các chính sách xóa đói, giảm nghèo, đền ơn đáp nghĩa…
Chức năng xã hội của nhà nước mang lại sự ổn định về mặt xã hội.
Việc đảm bảo phúc lợi xã hội ngày một gia tăng nhờ hiệu quả tác động của
chính sách kinh tế tiến bộ, nhà nước đảm bảo sự công bằng trong xã hội (địa
vị pháp lý ngang nhau thụ hưởng ngang nhau, lao động ngang nhau thì hưởng
thụ ngang nhau, đóng góp, cống hiến cả về vật chất và tinh thần cả trong quá
khứ và hiện tại ngang nhau cho sự phát triển của đất nước thì được hưởng
ngang nhau… Với việc thực hiện chức năng xã hội của nhà nước, đảm bảo cho
mọi người dân được sống trong một xã hội công bằng, bình đẳng và bác ái sẽ
tạo ra sự đồng thuận lớn trong mọi tầng lớp nhân dân. Và thông qua việc thực
hiện các chức năng xã hội của nhà nước, đặc biệt trong lĩnh vực giáo dục và
đào tạo, nhà nước lại cung cấp cho thị trường một nguồn lao động chất lượng,
là nguồn lao động chính tạo ra năng suất lao động cao và lực lượng các cán bộ
quản lý doanh nghiệp cho mọi thành phần kinh tế, mọi loại hình kinh tế.
Chức năng xã hội mang lại sự ổn định về mặt xã hội, là tiền đề cho
việc thực hiện các chức năng nhà nước khác như chức năng chính trị và chức
năng kinh tế, và ngược lại các chức năng này là điều kiện đảm bảo để thực
hiện chức năng xã hội của nhà nước.
Trong giai đoạn hiện nay, nội dung cơ bản đồng thời cũng là mục tiêu
của chức năng chính trị của nhà nước ta là bảo vệ vững chắc chế độ chính trị,
chế độ nhà nước xã hội chủ nghĩa, khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng
sản Việt Nam, củng cố khối đại đoàn kết các dân tộc anh em trên đất nước
Việt Nam và kiều bào ở nước ngoài, trấn áp sự chống phá của các thế lực thù
--- Bài cũ hơn ---
Bạn đang đọc nội dung bài viết Chức Năng Xã Hội Của Nhà Nước Việt Nam Hiện Nay trên website Photomarathonasia.com. Hy vọng một phần nào đó những thông tin mà chúng tôi đã cung cấp là rất hữu ích với bạn. Nếu nội dung bài viết hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!