Đề Xuất 3/2023 # Các Xét Nghiệm Giúp Đánh Giá Khả Năng Đông Máu, Cầm Máu # Top 5 Like | Photomarathonasia.com

Đề Xuất 3/2023 # Các Xét Nghiệm Giúp Đánh Giá Khả Năng Đông Máu, Cầm Máu # Top 5 Like

Cập nhật nội dung chi tiết về Các Xét Nghiệm Giúp Đánh Giá Khả Năng Đông Máu, Cầm Máu mới nhất trên website Photomarathonasia.com. Hy vọng thông tin trong bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu ngoài mong đợi của bạn, chúng tôi sẽ làm việc thường xuyên để cập nhật nội dung mới nhằm giúp bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.

Xét nghiệm chức năng đông – cầm máu thường được chỉ định trong trường hợp bệnh nhân nhập viện cần tiến hành phẫu thuật hoặc cần phải cầm máu khẩn cấp khi bị chấn thương. Việc đọc kết quả xét nghiệm đông máu sẽ cho biết chính xác quá trình đông máu của người bệnh có đang hoạt động tốt hay không.

Bên cạnh thông tin thăm khám trên lâm sàng, tiền sử bệnh của bản thân và gia đình, thì kết quả từ các xét nghiệm đông – cầm máu cũng rất quan trọng trong việc chẩn đoán phát hiện những vấn đề bất thường về đông máu.

Nguyên lý của các xét nghiệm đông – cầm máu cơ bản dựa trên cơ chế của các giai đoạn trong quá trình đông – cầm máu, bao gồm: cầm máu kỳ đầu, đông máu huyết tương và tiêu sợi huyết. Hiện nay, việc thực hiện các xét nghiệm đông máu đều có sự hỗ trợ của các thiết bị tự động với sự giám sát của bác sĩ chuyên môn.

Xét nghiệm đông – cầm máu giúp bác sĩ chẩn đoán nhanh, chính xác sự tiến triển, mức độ và loại rối loạn đông máu mà bệnh nhân đang mắc phải. Qua đó, bác sĩ nhanh chóng có đầy đủ cơ sở để tiến hành điều trị kịp thời, với phác đồ phù hợp nhất.

Xét nghiệm chức năng đông máu thường được chỉ định đối với các trường hợp:

Những đối tượng không dùng thuốc chống đông nhưng lại có triệu chứng của rối loạn chảy máu, tình trạng này có thể biểu hiện qua chảy máu cam, chảy máu nướu răng, xuất hiện vết bầm tím bất thường, xuất huyết kinh nguyệt nặng, thậm chí có máu trong phân hoặc trong nước tiểu, bị viêm khớp triệu chứng (chảy máu trong khớp) và giảm thị lực.

Bệnh nhân trước khi tiến hành phẫu thuật, nhằm đánh giá tình trạng đông máu, tránh biến chứng nguy hiểm trong quá trình can thiệp.

2. Những xét nghiệm thăm dò giai đoạn cầm máu ban đầu

2.1. Đếm số lượng tiểu cầu

Số lượng tiểu cầu trong máu tuần hoàn ở người bình thường trong khoảng 140 – 400 g/L.

2.2. Thời gian chảy máu

Thời gian chảy máu có thể được xác định theo hai phương pháp:

Phương pháp Duke: Với phương pháp này, thời gian chảy máu bình thường là từ 2 – 4 phút. Khi thời gian này vượt trên 6 phút thì được coi là kéo dài.

Phương pháp Ivy: nhạy hơn, với thời gian chảy máu tiêu chuẩn là 3 – 8 phút.

Thời gian chảy máu kéo dài xảy ra trong trường hợp giảm số lượng tiểu cầu hoặc rối loạn chức năng tiểu cầu, giảm yếu tố vWF, giảm fibrinogen hoặc trong bệnh lý thành mạch.

2.3. Nghiệm pháp co cục máu

Nghiệm pháp co cục máu là kỹ thuật được ứng dụng trong theo dõi hiện tượng co cục máu trong ống nghiệm ở 37oC. Thông thường, cục máu sẽ co hoàn toàn và tách khỏi thành ống nghiệm sau khoảng thời gian là 3 giờ.

Hiện tượng co cục máu không bình thường (không co hoặc co không hoàn toàn) xảy ra trong trường hợp bệnh nhân giảm số lượng hoặc có bất thường nào đó trong chức năng của tiểu cầu, bệnh nhân bị tăng fibrinogen máu, bệnh lý đa hồng cầu.

2.4. Nghiệm pháp dây thắt

Để thực hiện Nghiệm pháp dây thắt, bác sĩ sẽ dùng huyết áp kế để duy trì áp lực 90 – 100 mmHg ở một bên cánh tay trong 5 phút, sau đó đếm số nốt xuất huyết trên tay người bệnh.

Nghiệm pháp dây thắt dương tính khi có trên 5 nốt xuất huyết xuất hiện, thường xảy ra trong những trường hợp bệnh nhân giảm số lượng tiểu cầu, chức năng tiểu cầu bất thường, hoặc cấu trúc mạch máu bị thay đổi.

2.5. Ngưng tập tiểu cầu

Ngưng tập tiểu cầu là một kỹ thuật nhằm đánh giá chức năng tiểu cầu, được thực hiện trên máy đo ngưng kết tiểu cầu, với mẫu đo là huyết tương giàu tiểu cầu (sử dụng phương pháp đo quang hay đo trở kháng) hoặc máu toàn bộ (dùng phương pháp đo trở kháng). Kỹ thuật viên sẽ cho thêm vào mẫu xét nghiệm các chất kích thích kết tập tiểu cầu như ADP, collagen, thrombin, epinephrine, arachidonic acid, ristocetin… khiến cho tiểu cầu được hoạt hoá và ngưng tập với nhau.

Hiện tượng ngưng tập tiểu cầu bị thay đổi trong các bệnh lý rối loạn chức năng tiểu cầu bẩm sinh và mắc phải, chẳng hạn như ở những bệnh nhân mắc hội chứng Bernard Soulier hoặc von Willebrand, những bệnh nhân dùng aspirin…

2.6. Định lượng yếu tố vWF

3. Các xét nghiệm đông máu cơ bản

3.1. Xét nghiệm đo thời gian Prothrombin (PT – Prothrombin Time)

Khi xuất hiện vết thương, máu sẽ thoát ra khỏi lòng mạch và bị đông lại theo con đường đông máu ngoại sinh. Khi cho thừa một lượng thromboplastin và canxi vào máu được chống đông bằng citrat thì quá trình đông máu ngoại sinh được tăng cường. Đo thời gian từ khi bổ sung canxi và thromboplastin đến lúc máu đông lại hoàn toàn để đánh giá hoạt tính của các yếu tố đông máu tạo nên Prothrombin (bao gồm yếu tố II, V, VII, X, là các yếu tố đông máu theo con đường ngoại sinh).

Thời gian Prothrombin kéo dài cho thấy sự thiếu hụt các yếu tố đông máu hoạt động theo con đường ngoại sinh. Trong 4 yếu tố đã liệt kê thì 3 yếu tố II, VII, X được sản xuất tại gan và phụ thuộc vào hàm lượng vitamin K. Vì vậy bệnh nhân suy gan hoặc đang sử dụng thuốc kháng vitamin K thì thời gian Prothrombin sẽ kéo dài. Mức độ kéo dài bao nhiêu tùy thuộc vào nồng độ giảm đi của yếu tố đông máu và liều vitamin K đã dùng.

Do vậy, ngoài vai trò là xét nghiệm chức năng đông máu, PT còn được dùng để theo dõi bệnh nhân bị kháng vitamin K. Chỉ số điều trị có hiệu quả là khi PT đạt trong khoảng 25 – 30%.

3.2. Xét nghiệm thời gian Thromboplastin từng phần được hoạt hoá (aPTT – Activated Partial Thromboplastin Time)

Xét nghiệm aPTT đo chức năng hoạt tính đông máu của các yếu tố tham gia trong con đường đông máu nội sinh (yếu tố VIII, IX, XI, XII, II, X, fibrinogen…). Xét nghiệm aPTT được chỉ định trong các trường hợp:

Làm bilan đông máu trước khi phẫu thuật.

Theo dõi tình trạng bệnh nhân khi điều trị bằng heparin.

Đánh giá mức độ nặng của bệnh lý về gan hay đông máu nội mạch lan tỏa.

3.3. Thời gian Thrombin (TT – Thrombin Time)

Thời gian Thrombin là xét nghiệm đông máu cơ bản đo thời gian đông máu khi cho thrombin vào huyết tương, nhằm đánh giá con đường đông máu chung và thăm dò tốc độ tạo thành fibrin. Thời gian Thrombin được chỉ định khi cần khảo sát con đường đông máu chung (cả nội sinh và ngoại sinh) hoặc để đánh giá số lượng và chất lượng của fibrinogen.

Thời gian Thrombin (TT) kéo dài là dấu hiệu bị thiếu fibrinogen, phân tử fibrinogen bất thường, do sự có mặt của heparin hay một số chất trung gian hóa học. TT còn kéo dài đối với các bệnh lý như xơ gan, vô niệu cấp tính, suy tủy, thiếu máu tan huyết, đa hồng cầu. Ngược lại, TT ngắn cho thấy tình trạng tăng đông do giảm hoặc không có các chất kháng thrombin.

3.4. Xét nghiệm định lượng Fibrinogen

Trong xét nghiệm này, huyết tương bệnh nhân được pha loãng ở các nồng độ khác nhau rồi cho thrombin vào, sau đó đối chiếu với đường cong chuẩn để xác định nồng độ fibrinogen. Định lượng Fibrinogen là xét nghiệm chức năng đông máu cơ bản được chỉ định trong trường hợp:

Cần xác định sự có mặt của viêm nhiễm;

Để thăm dò rối loạn đông máu khi bệnh nhân có biểu hiện chảy máu bất thường;

Làm bilan đông máu trước mổ;

Cần theo dõi tình trạng bệnh nhân trong quá trình điều trị tiêu fibrin;

Có thể ứng dụng để theo dõi bệnh gan tiến triển;

Xét nghiệm đông máu nhanh ROTEM cũng là một xét nghiệm quan trọng trong đánh giá khả năng đông máu của người bệnh, nhằm xác định nhu cầu thực sự của bệnh nhân với các chế phẩm máu, giúp điều trị đúng và đủ; giảm nhu cầu truyền máu và các tác hại do truyền máu. Ngoài ra nếu áp dụng xét nghiệm này sớm còn giúp giảm tỷ lệ bệnh nhân phải truyền máu khối lượng lớn, đảm bảo an toàn cho bệnh nhân và giảm chi phí điều trị.

Xét nghiệm này đang được áp dụng tại Bệnh viện Đa khoa Quốc tế Vinmec Times City, được chỉ định đối với các bệnh nhân cần truyền máu khi lượng máu mất độ III trở lên (mất máu khối lượng lớn 1500 – 2000ml).

Xét nghiệm ROTEM tại Vinmec Times City sử dụng những trang thiết bị hiện đại, đạt chuẩn quốc tế, trong đó có máy phân tích đàn hồi cục máu ROTEM® delta, hỗ trợ kết quả xét nghiệm đạt độ chính xác cao. Đặc biệt, xét nghiệm được thực hiện bởi Tiến sĩ, Bác sĩ Trương Công Duẩn, người có kinh nghiệm dày dặn trong lĩnh vực xét nghiệm với hơn 30 năm công tác trong lĩnh vực này. Hiện bác sĩ là trưởng khoa Xét nghiệm – Bệnh viện Đa khoa Quốc tế Vinmec Times City.

Để được tư vấn trực tiếp, Quý Khách vui lòng bấm số 02439743556 hoặc đăng ký trực tuyến TẠI ĐÂY.

Xét Nghiệm Chức Năng Đông Cầm Máu.

Xét nghiệm đông, cầm máu có vai trò quan trọng trong việc phát hiện, chuẩn đoán và xử lý các rối loạn đông, cầm máu. Các xét nghiệm này thường được chỉ định cho những bệnh nhân cần tiến hành phẫu thuật, bệnh nhân có triệu chứng rối loạn chảy máu..

Cơ chế đông, cầm máu của cơ thể:

Cơ chế đông, cầm máu:

Bản chất của quá trình đông máu là sự thay đổi tính chất của máu, máu từ thể lỏng ( trong lòng mạch) chuyển thành thể rắn (khi ra khỏi lòng mạch) để ngăn chặn sự chảy máu ra khỏi bên ngoài cơ thể. Nó gồm các chu kì: cầm máu kỳ đầu, đông máu huyết tương và tiêu sợi huyết.

Quá trình đông máu huyết tương được phát động bằng hai con đường: nội sinh và ngoại sinh. Kết quả khởi động hai con đường này đều tạo ra phức hệ prothrombinase làm nhiệm vụ chuyển prothrombin thành thrombin.

Fibrinogen dưới tác động của thrombin sẽ tạo ra lưới fibrin giam giữ tiểu cầu và các thành phần khác của máu tạo nên cục máu ổn định vững chắc có đủ khả năng cầm máu.

Ý nghĩa của quá trình đông cầm máu:

Ngăn không cho máu thoát ra khỏi mạch máu đi vào khoảng gian bào.

Hình thành nút bịt kín vết thương lớn, giúp cầm máu tránh nguy cơ mất máu cấp tính, tránh được sự nguy hiểm của tính mạng.

Trong y học, quá trình này được ứng dụng để tách huyết thanh làm nguyên liệu xét nghiệm.

Các xét nghiệm chức năng đông, cầm máu thường làm:

Xét nghiệm đo thời gian Prothrombin (PT)

Máu ra khỏi lòng mạch sẽ bị đông theo đường ngoại sinh. Khi cho thừa thromboplastin và calci vào máu chống đông bằng citrat thì con đường đông máu ngoại sinh được thực hiện ồ ạt. Đo thời gian từ khi bổ sung calci và nhiều thromboplastin đến lúc huyết tương đông lại để phản ánh hoạt tính các yếu tố đông máu tạo nên Prothrombin là yếu tố II, V, VII, X còn gọi là yếu tố đông máu theo con đường ngoại sinh.

Ý nghĩa: 

Thời gian Prothrombin kéo dài có thể do thiếu hụt yếu tố đông máu hoạt động theo con đường ngoại sinh. Trong 4 yếu tố đó thì 3 yếu tố II, VII, X được sản xuất tại gan và phụ thuộc vitamin K, vì vậy khi gan bị suy hay dùng thuốc kháng vitamin K thì PT héo dài. Mức độ kéo dài phụ thuộc vào mức độ giảm yếu tố và liều vitamin K đã dùng. Do vậy có thể dùng xét nghiệm này để theo dõi kháng vitamin K.

Đọc kết quả:

PT% : tỷ lệ của phức hệ Prothrombin trong mẫu xét nghiệm so với mẫu chuẩn. Bình thường, giá trị này nằm trong khoảng 70% – 140%. Nếu PT% < 70% thì quá trình đông máu có vấn đề.

PT(s): thời gian hình thành cục máu đông. Trị số bình thường rơi vào khoảng 10 – 14 giây tùy phòng xét nghiệm.

INR (chỉ số bình thường hóa quốc tế): ngoài chỉ định thường quy, chỉ số này còn có vai trò trong theo dõi để chỉnh liều ở các bệnh nhân sử dụng thuốc chống đông kháng vitamin K. Chỉ số này nằm trong khoảng 0,8 – 1,2. Một số trường hợp đặc biệt có thể lên tới 2 – 3 nhưng vẫn được đánh giá là bình thường.

Xét nghiệm Thromboplastin từng phần được hoạt hoá (aPTT – Activated Partial Thromboplastin Time)

Xét nghiệm aPTT đo chức năng hoạt tính đông máu của các yếu tố tham gia trong con đường đông máu nội sinh (yếu tố VIII, IX, XI, XII, II, X, fibrinogen…). Xét nghiệm aPTT được chỉ định trong các trường hợp:

Làm bilan đông máu trước khi phẫu thuật.

Theo dõi tình trạng bệnh nhân khi điều trị bằng heparin.

Đánh giá mức độ nặng của bệnh lý về gan hay đông máu nội mạch lan tỏa.

Ý nghĩa:

Đọc kết quả:

Xét nghiệm này nhằm khảo sát con đường đông máu nội sinh. Kết quả xét nghiệm được biểu thị như sau:

APTT: thời gian đông máu từng phần. Bình thường giá trị này nằm trong khoảng 30 – 35 giây.

rAPTT: tỷ lệ giữa APTT của mẫu xét nghiệm so với APTT mẫu chuẩn. Giá trị này nằm trong khoảng 0,85 – 1,25 là bình thường.

Xét nghiệm định lượng Fibrinogen:

Huyết tương của bệnh nhân trong xét nghiệm này được pha loãng ở các nồng độ khác nhau rồi cho thrombin vào. Đối chiếu các kết quả với đường cong chuẩn để xác định nồng độ fibrinogen.

Ý nghĩa:

Dùng trong trường hợp xác định sự có mặt của viêm nhiễm.

Thăm dò rối loạn đông máu khi người bệnh có biểu hiện chảy máu bất thườn.

Làm bilan đông máu trước mổ.

Theo dõi tình trạng bệnh nhân trong quá trình điều trị fibrin.

Dùng trong ứng dụng theo dõi bệnh gan tiến triển như thế nào.

Đọc kết quả:

Định lượng Fibrinogen: lượng Fibrinogen huyết tương người bình thường nằm trong khoảng 2 – 4g/l.

Những lưu ý trước khi xét nghiệm chức năng đông, cầm máu:

Tương tự các loại xét nghiệm khác, bạn cần lưu ý những điều sau đây:

Không sử dụng rượu, bia, các chất kích thích trước khi đi xét nghiệm chức năng đông máu bởi vì các chất này làm thay đổi thành phần, tính chất của máu gây ảnh hưởng đến kết quả xét nghiệm.

Nếu đang sử dụng thuốc phải dưới sự theo dõi và khuyến cáo của bác sĩ.

Một số thực phẩm như thịt bò, bông cải xanh có thể gây ảnh hưởng đến kết quả xét nghiệm. Do đó, bạn nên hạn chế ăn các thực phẩm này 2 – 3 ngày trước khi đi xét nghiệm.

Nên xét nghiệm vào sáng sớm để cho kết quả chính xác.

Xét nghiệm đông, cầm máu tại Đà Nẵng

.

Các Xét Nghiệm Đông Máu

Các xét nghiệm đông máu được sử dụng để chẩn đoán và đánh giá các vấn đề về chảy máu. Ngoài ra còn để theo dõi trên những người sử dụng warfarin hay các thuốc chống đông máu khác.

Các xét nghiệm đông máu (Nguồn ảnh: chúng tôi

Thành phần cấu tạo của máu

Phần dịch lỏng trong máu, chiếm khoảng 60% thể tích máu. Huyết tương được cấu tạo chủ yếu từ nước, nhưng có chứa nhiều loại protein khác nhau và các hợp chất khác như các hormone, các kháng thể, các enzyme, đường, các hạt chất béo, muối,…

Có thể quan sát được dưới kính hiển vi, chiếm khoảng 40% thể tích máu còn lại. Các tế bào máu được sản xuất trong tủy xương từ các tế bào ‘gốc’ máu. Có 3 loại tế bào máu chính:

Hồng cầu: Các tế bào hồng cầu là thành phần tạo ra màu đỏ của máu. Mỗi giọt máu chứa khoảng 5 triệu tế bào hồng cầu. Các tế bào này được thay mới thường xuyên khi chúng già đi và bị phân hủy. Có hàng triệu tế bào hồng cầu mới được tạo ra từ tủy xương và đưa vào dòng máu mỗi ngày. Các tế bào hồng cầu đều chứa hợp chất hóa học đặc biệt gọi là haemoglobin (huyết sắc tố) – có khả năng hấp dẫn và gắn kết với phân tử ô xi. Nhờ sự kết hợp này mà các tế bào hồng cầu có khả năng vận chuyển ô xi tới phổi và tất cả các bộ phận cơ thể.

Bạch cầu: bao gồm nhiều loại như neutrophils (bạch cầu đa nhân trung tính), bạch cầu đơn nhân, các tế bào lympho, eosinophils (bạch cầu ưa axit), basophils (bạch cầu ưa kiềm). Các tế bào này là một bộ phận trong hệ thống miễn dịch của cơ thể và có nhiệm vụ chủ yếu là chống lại sự nhiễm khuẩn.

Tiểu cầu: là những tế bào có kích thước nhỏ, giúp máu đông lại khi chúng ta bị thương.

Cơ chế đông máu

Chỉ trong vài giây sau khi một mạch máu bị cắt, phần mô bị tổn thương này sẽ khiến cho các tiểu cầu trong máu kết dính và vón lại với nhau xung quanh vết cắt. Những tiểu cầu “được kích hoạt” này và phần mô bị tổn thương giải phóng ra các chất hóa học – được gọi là các yếu tố đông máu – có khả năng phản ứng với các hợp chất và một số loại protein khác trong huyết tương, tạo ra một chuỗi các phản ứng hóa học phức tạp và diễn ra nhanh chóng xung quanh vết cắt. Có tất cả 13 yếu tố đông máu được biết đến và được gọi bằng số La Mã – từ yếu tố I đến yếu tố XIII.

Bước cuối cùng của chuỗi phản ứng hóa học này là sự hình thành các sợi mỏng (là tập hợp của một loại protein bền vững tên là fibrin) từ sự biến đổi yếu tố I (còn gọi là fibrinogen – một loại protein hòa tan). Các sợi fibrin này tạo thành một chiếc lưới, bẫy các tế bào máu và tiểu cầu, tạo thành cục máu đông.

Một cục máu đông tự nhiên hình thành trong mạch máu khỏe mạnh có thể gây ra các vấn đề nghiêm trọng. Vì vậy, trong máu cũng tồn tại những hợp chất hóa học ngăn ngừa sự hình thành các cục máu đông và các hợp chất hóa học “hòa tan” các cục máu đông này. Sự cân bằng giữa việc hình thành các cục máu đông và ngăn ngừa đông máu luôn được đảm bảo. Thông thường, trừ khi một mạch máu bị cắt hoặc bị phá hủy, sự cân bằng này nghiêng về phía ngăn ngừa hình thành các cục máu đông trong mạch máu.

Các rối loạn về chảy máu

Có một số điều kiện dẫn đến tình trạng bị chảy máu quá nhiều khi mạch máu bị tổn thương hoặc bị cắt, như trong các trường hợp sau:

Có quá ít tiểu cầu trong máu (bệnh giảm tiểu cầu) do một số nguyên nhân khác nhau.

Do đặc điểm di truyền, cơ thể bạn không tạo ra được một hoặc một vài yếu tố đông máu. Trường hợp được biết đến nhiều nhất là bệnh haemophilia A (bệnh máu khó đông A); xảy ra ở những người không có khả năng tạo ra yếu tố đông máu số VIII.

Thiếu vitamin K. Loại protein có vai trò trong việc tạo ra một số yếu tố đông máu, có thể gây ra các vấn đề về chảy máu.

Rối loạn trong gan. Bởi vì gan là nơi hình thành hầu hết các yếu tố đông máu – cũng có thể gây ra các vấn đề về chảy máu.

Các rối loạn về đông máu

Đôi khi một cục máu đông hình trong mạch máu kể cả khi không có vết thương hoặc vết cắt, chẳng hạn như các trường hợp sau:

Nguyên nhân phổ biến của các cơn đau tim và đột quỵ là do sự hình thành cục máu đông trong động mạch đưa máu đến tim hay não. Đó là do các tiểu cầu trở nên kết dính và vón cục ở gần các mảng xơ vữa (các khối chất béo) trong mạch máu và kích hoạt cơ chế đông máu.

Lưu lượng máu chảy chậm có thể khiến sự đông máu dễ dàng hơn so với bình thường. Đây là một yếu tố dẫn đến sự hình thành các cục máu đông ở các tĩnh mạch sâu dẫn đến chứng nghẽn mạch máu (huyết khối tĩnh mạch sâu – DVT), điều này thỉnh thoảng xảy ra ở các tĩnh mạch chân.

Do một số đặc điểm di truyền có thể khiến máu đông dễ dàng hơn bình thường.

Một số loại thuốc có thể ảnh hưởng đến cơ chế đông máu, hoặc làm tăng số lượng một số yếu tố đông máu, dẫn đến hiện tượng đông máu dễ dàng xảy ra hơn.

Bạn có thể được tư vấn thực hiện các xét nghiệm đông máu trong những trường hợp sau:

Nghi ngờ có rối loạn chảy máu. Ví dụ: bạn bị chảy máu rất nhiều từ các vết cắt, hoặc dễ bị bầm tím.

Mắc phải một số bệnh gan mà có thể ảnh hưởng đến việc tạo ra các yếu tố đông máu.

Trước khi phẫu thuật, trong những hoàn cảnh nhất định, để đánh giá nguy cơ chảy máu trong quá trình phẫu thuật.

Nếu có những cục máu đông xuất hiện trong mạch máu mà không có lý do rõ ràng.

Nếu bạn uống thuốc chống đông máu như warfarin (để kiểm tra xem liều dùng có đạt mục tiêu đích hay không).

Có nhiều xét nghiệm đông máu khác nhau, việc xét nghiệm nào được chọn phụ thuộc vào hoàn cảnh và các vấn đề nghi ngờ. Các xét nghiệm đông máu bao gồm:

Xét nghiệm công thức máu

Là xét nghiệm thường quy, được sử dụng để đếm số lượng tế bào hồng cầu, bạch cầu và tiểu cầu trong mỗi ml máu. Xét nghiệm này sẽ phát hiện được số lượng tiểu cầu trong máu thấp nếu có.

Xét nghiệm thời gian chảy máu

Xét nghiệm này được thực hiện bằng cách tạo một vết cắt nhỏ trên dái tai hoặc cánh tay và đo thời gian máu ngừng chảy. Khoảng thời gian bình thường là 3 đến 8 phút.

Các xét nghiệm đông máu thông thường

Mẫu máu sau khi lấy được cho vào ống nghiệm có chứa chất chống đông, sau đó được đem đi phân tích trong phòng thí nghiệm. Có thể thực hiện nhiều xét nghiệm, chẳng hạn như các xét nghiệm phổ biến là xét nghiệm PT hay xét nghiệm APTT để kiểm tra hoạt động của các yếu tố đông máu. Các xét nghiệm này được thực hiện bằng cách đo thời gian hình thành cục máu đông sau khi bổ sung một số chất đã kích hoạt vào mẫu máu. Nếu thời gian hình thành cục máu đông dài hơn so với mẫu máu bình thường thì có nghĩa là một hoặc nhiều yếu tố đông máu ở mức thấp hoặc không có trong mẫu xét nghiệm. Những xét nghiệm này có cơ chế tương tự, chỉ khác ở thành phần các chất hóa học được bổ sung vào mẫu máu, nhằm mục đích xác định yếu tố đông máu nào thấp hoặc không có.

Xét nghiệm để theo dõi sử dụng thuốc chống đông máu

Nếu đang dùng một số loại thuốc chống đông máu (thuốc làm giảm khả năng hình thành cục máu đông) bạn cần theo dõi cẩn thận phản ứng của cơ thể trong quá trình sử dụng. Dùng thuốc quá nhiều có thể gây ra các vấn đề về chảy máu, sử dụng thuốc với liều lượng quá ít có thể làm tăng nguy cơ hình thành các cục máu đông. Xét nghiệm INR là xét nghiệm được sử dụng để theo dõi liều lượng thuốc (thường là warfarin) cho người dùng. Chỉ số INR của bạn được tính toán trong phòng thí nghiệm bằng cách sử dụng xét nghiệm PT như đề cập ở trên. Bác sĩ hoặc y tá sẽ thiết lập một mức INR ‘đích’ cho bạn, tùy thuộc vào lý do bạn sử dụng thuốc. Bằng cách kiểm tra máu của bạn đều đặn, họ có thể tư vấn điều chỉnh liều thuốc để đạt được mức INR ‘đích’ này.

Xét nghiệm các yếu tố đông máu cụ thể

Số lượng của nhiều yếu tố đông máu (và các yếu tố chống đông máu) trong máu có thể được xác định bằng một số kỹ thuật khác nhau. Bạn có thể cần phải thực hiện một hoặc nhiều xét nghiệm loại này khi xét nghiệm đông máu thông thường của bạn cho thấy kết quả có vấn đề với tình trạng máu đông. Ví dụ: xác định số lượng yếu tố VIII trong mẫu máu để kiểm tra bạn có bị bệnh Haemophili A hay không (đối với những người bị bệnh Haemophili A thì yếu tố này ở mức rất thấp hoặc không có).

Xét nghiệm khả năng tiểu cầu ngưng kết

Xét nghiệm này được sử dụng để đo tốc độ và mức độ các tiểu cầu kết tủa lại (ngưng kết) sau khi bổ sung một chất hóa học thúc đẩy quá trình ngưng kết vào mẫu máu. Xét nghiệm này được sử dụng để kiểm tra chức năng của tiểu cầu.

Xét nghiệm kiểm tra tình trạng máu dễ đông

Nếu bạn có một cục máu đông bất thường hình thành trong một mạch máu bình thường, bạn có thể cần thực hiện một số xét nghiệm để xác định nguyên nhân. Ví dụ: xét nghiệm máu kiểm tra ‘yếu tố V Leiden’. Đây là một sự thay đổi bất thường của yếu tố V – khiến cho các cục máu đông dễ hình thành hơn.

Các xét nghiệm khác

Có nhiều tình trạng khác có thể ảnh hưởng đến sự đông máu như do thiếu vitamin, do bệnh bạch cầu, rối loạn trong gan, hoặc nhiễm trùng. Vì vậy, trong một số trường hợp, các xét nghiệm khác là cần thiết để tìm ra nguyên nhân dẫn đến số lượng bất thường của tiểu cầu hoặc của các yếu tố đông máu.

Xét Nghiệm Máu Đánh Giá Chức Năng Tuyến Giáp

Chức năng tuyến giáp là gì?

Tuyến giáp là một tuyến nhỏ nằm ở dưới thanh quản, khu vực cổ. Chức năng của tuyến giáp là sản xuất hormone. Các hormone là những hóa chất được phóng thích và vận chuyển trong máu để dẫn đến đến các cơ quan. Chúng hoạt động giống như chất dẫn truyền, điều hòa hoạt động của các tế bào và các mô cơ quan trong cơ thể của con người. Hormone tuyến giáp sản xuất ảnh hưởng lớn đến tốc độ trao đổi chất của cơ thể cũng như nồng độ của một số khoáng chất trong máu.

Tuyến giáp sản xuất 3 loại hormone và hai trong số chúng được gọi là thyroxine (T4) và triodothyronine (T3), có tác dụng tăng tốc độ trao đổi chất của cơ thể. Hormone còn lại có chức năng giúp cơ thể kiểm soát lượng canxi trong máu.

Trong quá trình lưu thông máu, hormone T3 và T4 được tồn tại ở hai dạng là dạng tự do và dạng gắn vào protein vận chuyển. Dạng T3, T4 tự do có tác dụng ức chế ngược lại hoạt động tuyến giáp. Do đó, để kiểm tra chức năng tuyến giáp, người ta thường định lượng hormone T3, T4 dạng tự do.

Tham khảo: các xét nghiệm ung thư tuyến giáp

Xét nghiệm máu đánh giá chức năng tuyến giáp là gì?

Xét nghiệm chức năng tuyến giáp là các xét nghiệm máu nhằm kiểm tra nồng độ của các hormon do tuyến giáp sản xuất (hormon thyroxine (T4) và triiodothyronine (T3)) và một loại hormon do tuyến yên sản xuất (TSH) có tác động tới tuyến giáp. Xét nghiệm này giúp tìm hiểu xem tuyến giáp có hoạt động tốt không.

Xét nghiệm máu đánh giá chức năng tuyến giáp là một xét nghiệm máu đơn giản. Theo đó, bạn không cần mất thời gian chuẩn bị hoặc thời gian thực hiện xét nghiệm. Bạn được lấy một lượng máu cần thiết, sau đó, mẫu máu này sẽ được gửi đến phòng xét nghiệm để phân tích, kết quả được trả về cho bác sĩ ra yêu cầu xét nghiệm.

Dựa vào các thông số trên kết quả xét nghiệm, bác sĩ dễ dàng xác định được người bệnh có đang gặp phải rối loạn chức năng tuyến giáp nào không.

Xét nghiệm máu đánh giá chức năng tuyến giáp được chỉ định khi nào?

Xét nghiệm chức năng tuyến giáp thường được thực hiện khi bệnh nhân có nghi ngờ bị cường giáp hoặc suy giáp. Ngoài ra, xét nghiệm này cũng được thực hiện để:

Theo dõi, từ đó điều chỉnh liều lượng thuốc ở bệnh nhân cường giáp hoặc suy giáp đang được điều trị bằng thuốc.

Kiểm tra xem bệnh nhân mắc các loại bệnh về tuyến giáp có đủ điều kiện để điều trị bằng iod phóng xạ.

Tầm soát ung thư tuyến giáp

Xét nghiệm chức năng tuyến giáp là một xét nghiệm đơn giản, được thực hiện tại nhiều cơ sở y tế, bệnh viện trên toàn quốc. Chỉ số của xét nghiệm máu giúp đánh giá vấn đề ở tuyến giáp. Trong trường hợp mắc bệnh lý ở tuyến giáp, bác sĩ sẽ tư vấn phương pháp điều trị phù hợp.

Hiện nay, xét nghiệm chức năng tuyến giáp là một trong những dịch vụ đang được thực hiện tại bệnh viện Đa khoa Quốc tế Thu Cúc.

Xét nghiệm máu đánh giá chức năng tuyến giáp bao nhiêu tiền?

Tại bệnh viện Thu Cúc, chi phí thực hiện xét nghiệm chức năng tuyến giáp tùy thuộc vào từng loại xét nghiệm:

Xét nghiệm TSH: 190.000 đồng

xét nghiệm T3: 200.000 đồng

Xét nghiệm T4: 200.000 đồng.

Chi phí xét nghiệm chức năng tuyến giáp nêu trên chưa áp dụng Bảo hiểm y tế. Mức giá này có thể thay đổi theo điều chỉnh của Bộ Y tế. Để biết giá chính xác tại thời điểm hiện tại, bạn vui lòng liên hệ với bệnh viện theo số 1900 55 88 96/ 0904 97 0909 để được tư vấn cụ thể.

Bạn đang đọc nội dung bài viết Các Xét Nghiệm Giúp Đánh Giá Khả Năng Đông Máu, Cầm Máu trên website Photomarathonasia.com. Hy vọng một phần nào đó những thông tin mà chúng tôi đã cung cấp là rất hữu ích với bạn. Nếu nội dung bài viết hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!