Đề Xuất 4/2023 # Các Nước Đang Phát Triển Gặp Khó Khăn Trong Năm 2022 Do Chi Phí Vốn Vay Tăng Và Giá Dầu Và Giá Hàng Hóa Giảm # Top 11 Like | Photomarathonasia.com

Đề Xuất 4/2023 # Các Nước Đang Phát Triển Gặp Khó Khăn Trong Năm 2022 Do Chi Phí Vốn Vay Tăng Và Giá Dầu Và Giá Hàng Hóa Giảm # Top 11 Like

Cập nhật nội dung chi tiết về Các Nước Đang Phát Triển Gặp Khó Khăn Trong Năm 2022 Do Chi Phí Vốn Vay Tăng Và Giá Dầu Và Giá Hàng Hóa Giảm mới nhất trên website Photomarathonasia.com. Hy vọng thông tin trong bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu ngoài mong đợi của bạn, chúng tôi sẽ làm việc thường xuyên để cập nhật nội dung mới nhằm giúp bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.

Lãi suất tại Hoa Kỳ có khả năng tăng sẽ đe dọa giảm dòng vốn và gây biến động thị trường tài chính tại các nước đang phát triển

WASHINGTON, Ngày 10/6/2015 – Các nước đang phát triển đang đối mặt với một loạt các thách thức nghiêm trọng trong năm 2015 như chi phí vốn vay đe dọa sẽ tăng trong khi giá dầu và giá hàng hóa sắp bước vào một đợt suy giảm mới và làm cho năm nay trở thành năm thứ 4 liên tiếp đáng thất vọng về tăng trưởng kinh tế, theo Báo cáo mới nhất của Ngân hàng Thế giới mang tên Triển vọng Kinh tế Toàn cầu vừa được công bố hôm nay.

Hệ quả là các nước đang phát triển dự báo sẽ tăng trưởng 4,4% năm nay, có khả năng tăng lên 5,2% năm 2016 và 5,4% năm 2017.

“Các nước đang phát triển từng là cỗ máy thúc đẩy tăng trưởng toàn cầu sau thời kỳ khủng hoảng, nhưng nay đang phải đối mặt với một môi trường kinh tế khó khăn hơn”, ông Jim Yong Kim, chủ tịch Ngân hàng Thế giới nói. “Chúng tôi sẽ làm mọi việc để giúp đỡ các nước thu nhập thấp và thu nhập trung bình, giúp họ có được sức đề kháng tốt hơn để có thể kiểm soát quá trình chuyển đổi một cách an toàn nhất có thể. Chúng tôi tin rằng những nước đầu tư vào giáo dục, y tế, cải thiện môi trường kinh doanh và tạo việc làm thông qua nâng cấp hạ tầng sẽ tăng trưởng mạnh trong các năm tới. Các khoản đầu tư đó sẽ giúp hàng trăm triệu người tự mình vượt qua đói nghèo”.

Lãi suất tại Hoa Kỳ dự đoán sẽ tăng làm cho vốn vay càng trở nên đắt đỏ hơn đối với các nước mới nổi và các nước đang phát triển trong vài tháng tới. Quá trình này dự đoán sẽ diễn ra tương đối suôn sẻ do kinh tế Hoa Kỳ tiếp tục phục hồi và lãi suất tại các nền kinh tế lớn khác cũng ở mức khá thấp.

Nhưng báo cáo cũng nêu các rủi ro đáng kể khác xung quanh vấn đề này. Cũng như năm 2013 khi thông báo đầu tiên về quá trình bình thường hóa chính sách tại Hoa Kỳ đã gây náo loạn trên thị trường tài chính, đợt tăng lãi suất do Cục Dự trữ Liên bang Mỹ chủ trì lần đầu tiên kể từ sau khủng hoảng tài chính toàn cầu có thể sẽ châm ngòi cho một đợt biến động thị trường và giảm luồng vốn chảy vào các thị trường mới nổi tương đương 1,8 điểm phần trăm so với GDP, Báo cáo cho biết.

“Nền tảng kinh tế toàn cầu đang dịch chuyển một cách chậm chạp, nhưng chắc chắn. Trung Quốc đã khôn khéo thoát khỏi ổ gà và đạt mức tăng trưởng 7,1%; Brazil, hiện đang bị tai tiếng về vụ hối lộ, không được may mắn như vậy và đang tiếp tục tăng trưởng âm. Năm nay Ấn Độ dự kiến sẽ tăng trưởng 7,5% và đây sẽ là năm đầu tiên Ấn Độ dẫn đầu các nền kinh tế lớn trên biểu đồ tăng trưởng của Ngân hàng Thế giới. Khoảng tối còn lại trên bức tranh tăng trưởng đó chính là khả năng nâng lãi suất tại Hoa Kỳ sớm muộn sẽ xảy ra,” ông Kaushik Basu, Chuyên gia Kinh tế trưởng, Phó Chủ tịch cao cấp Ngân hàng Thế giới nói. “Điều đó sẽ hạn chế luồng vốn và làm tăng chi phí vốn vay. Báo cáo Triển vọng Kinh tế Toàn cầu đã phân tích toàn bộ các hệ quả của việc nâng lãi suất đối với các nước đang phát triển.”

“Nếu các thị trường mới nổi không thực hiện các chính sách cẩn trọng nhằm đối phó tốt với bất ổn tài chính và bất ổn từ bên ngoài thì họ sẽ gặp khó khăn đáng kể khi phải đối phó với cơn bão thắt chặt chính sách của Quỹ Dự trữ Liên bang Mỹ và các hệ quả đi kèm khác,” ông Ayhan Kose, Giám đốc Viễn cảnh Phát triển, Ngân hàng Thế giới, nói.

Nhiều nước đang phát triển phụ thuộc nặng vào xuất khẩu hàng hóa vì vậy giảm giá dầu và các mặt hàng chiến lược càng làm chậm lại tốc độ tăng trưởng của các nước này. Tuy các nước nhập hàng hóa được hưởng lợi từ lạm phát thấp, áp lực tài khóa thấp, và chi phí nhập khẩu thấp, nhưng giá dầu thấp cũng chỉ góp phần tăng cường mức độ hoạt động kinh tế một cách chậm chạp do nhiều nước bị thiếu điện, dịch vụ giao thông, tưới tiêu và các dịch vụ hạ tầng cơ bản khác một cách triền miên; ngoài ra còn một loạt các yếu tố khác như bất ổn chính trị; và hạn hán và lũ lụt gây ra bởi thời tiết bất thuận.

Kinh tế Brazil hiện đang bị ảnh hưởng bởi mức độ lòng tin thấp và lạm phát cao dự tính sẽ giảm 1,3% trong năm 2015, tức là 2,3 điểm phần trăm so với mức tháng Giêng. Nền kinh tế Nga bị ảnh hưởng của giá dầu thấp và các lệnh trừng phạt dự đoán sẽ giảm 2,7%. GDP của Mexico dự báo sẽ tăng trưởng 2,6% trong khi hoạt động kinh tế khởi sắc tại Mỹ và giá dầu giảm sẽ thúc đẩy tăng trưởng. Trung Quốc đang điều hành quá trình làm chậm tăng trưởng kinh tế một cách cẩn trọng dự đoán sẽ giảm đà tăng trưởng nhưng vẫn đạt mức cao là 7,1% trong năm nay. Tại Ấn Độ, một nước nhập khẩu dầu, kết quả cải cách đã giúp giữ vững lòng tin và giá dầu giảm đã góp phầm giảm nhẹ mức độ tổn thương, qua đó tạo cơ sở đạt mức tăng trưởng 7,5% trong năm 2015.

Một kết quả phân tích đặc biệt trong báo cáo cho thấy các nước thu nhập thấp, trong đó nhiều nước phụ thuộc vào xuất khẩu hàng hóa và đầu tư, rất dễ bị tổn thương trong điều kiện hiện nay. Khi giá hàng hóa tăng mạnh trong những năm 2000 các nền kinh tế này đã phát triển mạnh nhờ khai thác kim loại, khoáng chất, đầu tư vào khai thác tài nguyên và tăng cường xuất khẩu. Nhưng viễn cảnh giá hàng hóa thấp còn kéo dài có lẽ sẽ buộc các nhà hoạch định chính sách phải chuyển hướng từ dựa trên sản xuất kim loại và khoáng chất sang các yếu tố thúc đẩy tăng trưởng khác. Vì vậy cần ưu tiên các chính sách tạo khoảng đệm để có thể chuyển hướng và thực hiện cải cách nhằm hỗ trợ tăng trưởng trong các ngành phi tài nguyên.

“Sau bốn năm với thành tích tăng trưởng đáng thất vọng, các nước đang phát triển vẫn chưa lấy lại được đà cũ,” ông Franziska Ohnsorge, Chủ biên báo cáo nói. “Mặc dù điều kiện tài chính thuận lợi nhưng sụt giảm tăng trưởng vẫn kéo dài tại nhiều nước đang phát triển bị gây ra bởi thiếu hụt các dịch vụ trong nông nghiệp, ngành điện, giao thông, cơ sở hạ tầng và các dịch vụ kinh tế cơ bản khác. Chính vì vậy mà tái cơ cấu càng trở nên cấp thiết.”

Ngược lại, hồi phục kinh tế đã trở lại tại các nước thu nhập cao. Khu vực châu Âu và Nhật Bản tăng trưởng đã tăng trở lại, kinh tế Hoa Kỳ mở rộng tuy xuất phát còn hơi yếu vào đầu năm. Các nước thu nhập cao sẽ tăng trưởng 2% năm nay, sau đó tăng lên 2,4% năm 2016 và 2,2% năm 2017. Dự báo nền kinh tế toàn cầu sẽ tăng 2,8% năm nay, 3,3% năm 2016 và 3,2% năm 2017. [1]

Nhiều mối rủi ro vẫn đang đe dọa viễn cảnh tăng trưởng các nước mới nổi và đang phát triển. Trong khi một số rủi ro đang giảm đi, ví dụ kinh tế khu vực châu Âu và Nhật Bản bị đình trệ, thì lại xuất hiện các rủi ro mới. Đúng lúc lãi suất tại Hoa Kỳ rục rịch tăng thì hệ số tín nhiệm các thị trường mới nổi lại bị mu lờ dần, nhất là đối với các nước xuất khẩu dầu mỏ. Các rủi ro khác gồm gia tăng biến động trên thị trường tài chính và dòng vốn bị giảm. Nếu đồng đô-la Mỹ tăng giá quá mạnh sẽ dẫn đến làm giảm đà tăng trưởng của nền kinh tế lớn nhất thế giới, và sẽ tác động tiêu cực lên các đối tác thương mại của Hoa Kỳ trên toàn thế giới.

Xem toàn văn báo cáo và các bộ số liệu đăng tại www.worldbank.org/globaloutlook

[1] Nếu tính dựa trên trọng số giá trị sức mua (PPP) năm 2010 thì tăng trưởng toàn cầu sẽ đạt 3,4% năm 2015, 4,0% trong năm 2016 và 4% năm 2017.

Tóm tắt các khu vực

Tình hình Khu vực Đông Á – Thái Bình Dương dự tính sẽ giảm nhẹ mức tăng trưởng xuống còn 6,7% trong năm 2015  và duy trì mức đó trong hai năm tới. Mức tăng trưởng đó cũng thể hiện kinh tế Trung Quốc tiếp tục giảm nhưng lại được bù lại đôi chút bởi tăng trưởng tại các nước còn lại trong khu vực. Tính chung toàn bộ khu vực thì đây là nhóm nhập khẩu thuần dầu lửa nên được hưởng lợi từ giá dầu thấp mặc dù các nước xuất khẩu hàng hoá như Indonesia và Malaysia phải chịu áp lực giá hàng hoá giảm như dầu, khí đốt, than, dầu cọ và cao su.

Tăng trưởng tại Trung Quốc tiếp tục giảm xuống còn 7,1% trong năm nay. Tăng trưởng toàn khu vực (không kể Trung Quốc) dự đoán đạt 4,9% năm nay, sau đó tăng lên 5,4% năm 2016 do cầu bên ngoài tăng – mặc dù tăng trưởng tại Trung Quốc có chậm hơn – giảm bất ổn chính sách tại Thái Lan và giảm áp lực trong nước tại các nước khác.

Châu Âu và Trung Á dự kiến sẽ tiếp tục giảm tăng trưởng xuống còn 1,8% năm 2015 do giá dầu giảm, xung đột địa chính trị, và bị các tác động lan toả khác, trong đó có các tác động từ Nga. Mức độ phục hồi nhẹ tại khu vực châu Âu chỉ bù trừ được phần nào những tác động kể trên.

Tại Nga, dự kiến năm nay kinh tế sẽ bị co cụm 2,7%, sau đó sẽ phục hồi nhẹ năm 2016 do tác động của các chính sách dịch chuyển nền kinh tế sang một môi trường ít phụ thuộc vào giá dầu hơn. Tại Thổ Nhĩ Kỳ, dự kiến tăng trưởng đạt 3% trong năm 2015 nhờ chi tư nhân được phục hồi sau các cuộc bầu cử trong tháng 6. Nếu giá dầu tăng nhẹ trong giai đoạn 2016-17, tình hình địa chính trị không bị xấu đi, và các chính sách ổn định kinh tế vĩ mô vẫn tiếp tục được thực hiện tại các nền kinh tế chính thì tăng trưởng toàn khu vực dự tính sẽ tăng lên mức 3,5% trong giai đoạn 2016-17.

Khu vực Mỹ La-tin và Ca-ri-bê sẽ giảm tỉ lệ tăng trưởng xuống còn 0,4% năm 2015 do khu vực Nam Mỹ còn nhiều khó khăn trong nước, trong đó có một số vấn đề nổi cộm như hạn hán trên diện rộng, thiếu niềm tin nhà đầu tư, và giá hàng hoá thấp.

Tại Brazil, lòng tin của giới kinh doanh và đầu tư bị giáng một đòn mạnh, một phần bị ảnh hưởng bởi các cuộc điều tra Petrobras, sẽ dẫn đến hậu quả làm cho nền kinh tế co cụm khoảng 1,3%. Tại Mexico, mức độ lòng tin vẫn còn mỏng manh, mức độ họat động kinh tế tăng nhẹ nhưng chưa đủ mức mong đợi. Đây là hậu quả của giá dầu thấp, kết quả tăng trưởng kém tại Hoa Kỳ trong Q1 và do lương tăng ít. Dự đoán giai đoạn 2016-17 toàn khu vực sẽ tăng trưởng 2,4% do Nam Mỹ sẽ thoát khỏi suy trầm kinh tế và tăng trưởng tại Hoa Kỳ sẽ kéo theo tăng trưởng tại khu vực bắc Mỹ, trung Mỹ và Ca-ri-bê.

Tại khu vực Trung Đông – Bắc Phi, tăng trưởng dự tính sẽ giữ nguyên mức 2,2% trong năm 2015. Giá dầu giảm là một thách thức nghiêm trọng đối với các nước xuất khẩu dầu lửa mà đa số trong số đó còn phải đối mặt thêm với các thách thức nghiêm trọng về an ninh (Iraq, Libya, và Yemen) hoặc có ít dư địa đối phó về kinh tế (Iran, Iraq). Đối với các nước nhập khẩu dầu, hiệu ứng tích cực của giá dầu thấp đã bị bù trừ bởi các tác động lan toả khác từ các nước bất ổn hơn trong khu vực, trong đó có hiện tượng giảm kiều hối và rủi ro về an ninh. Hạn chế về cơ cấu đã tồn tại từ lâu và đã ngăn cản tăng trưởng trong khu vực trong một thời gian dài. Dự báo mức tăng trưởng toàn khu vực sẽ bật lên mức 3,7% giai đoạn 2016-17 nhờ tăng cầu bên ngoài, và tăng cường lòng tin dẫn đến tăng đầu tư tại một vài nước nhập khẩu dầu (Ai Cập, Jordan).

Nam Phi dự tính sẽ duy trì mức tăng trưởng 7,1% năm nay nhờ kinh tế hồi phục theo chu kỳ tại Ấn Độ và mức cầu tăng dần tại các nước thu nhập cao. Giá dầu toàn cầu giảm đã mang lại lợi ích lớn cho khu vực, giúp cải thiện tài khoá và cán cân thương mại, tạo điều kiện cho các cuộc cải cách cần đến trợ giá của nhà nước và giúp giảm nhẹ chính sách tiền tệ.

Tại Ấn Độ, các biện pháp cải cách đang giúp cải thiện lòng tin của giới kinh doanh và đầu tư, và thu hút thêm vốn sẽ đóng góp vào mức tăng trưởng 7,5% năm nay. Tại Pakistan, kiều hối sẽ vẫn ổn định, trong khi khu vực công nghiệp chế tạo và dịch vụ vẫn tiếp tục hồi phục. Nhưng mặc dù vậy mức tăng trưởng cũng chỉ ở mức vừa phải do vẫn bị kìm hãm về năng lượng.

Tại khu vực Tiểu Saharan châu Phi, giá dầu thấp đã làm giảm đáng kể tỉ lệ tăng trưởng tại các nước xuất khẩu hàng hoá (Angola, Nigeria), và cũng làm giảm mức hoạt động kinh tế trong các ngành phi dầu lửa. Tuy Nam Phi được hưởng lợi chính từ giá dầu thấp nhưng tăng trưởng toàn khu vực lại bị ảnh hưởng bởi tình trạng thiếu năng lượng, thiếu lòng tin nhà đầu tư, chính sách không ổn định, và chính sách tài khoá và tiền tệ dự tính sẽ bị thắt chặt dần.

Tăng trưởng toàn khu vực dự tính sẽ giảm xuống còn 4,2%, thấp hơn mức dự báo trước đây. Điều đó phản ánh kết quả đánh giá lại tình hình tại Nigeria và Angola sau khi giá dầu giảm mạnh và tình hình cấp điện yếu kém tại Nam Phi. Trong giai đoạn 2016-17, tỉ lệ tăng trưởng sẽ nhích lên một chút do các tác động tiêu cực trên sẽ được bù trừ bởi tăng trưởng tại các nước đối tác thương mại và tăng trưởng tại các nền kinh tế thu nhập thấp trong khu vực.   Khu vực Đông Á – Thái Bình Dương

Nếu không kể Trung Quốc, nơi đang áp dụng các biện pháp giảm dần tăng trưởng xuống còn 7,4% năm 2014, thì hoạt động kinh tế vẫn tiếp tục giảm trong năm 2015 mặc dù các biện pháp nới lỏng chính sách đã có tác dụng làm chậm lại quá trình suy giảm. Đầu tư vẫn bị hạn chế, các chỉ số về hoạt động chế tạo cũng cho thấy yếu kém, đồng thời qui mô các chương trình kích thích kinh tế cũng thu hẹp dần. Hỗ trợ chính sách, giá dầu giảm, và mức cầu toàn cầu đã bù lại phần nào tác động của suy giảm đầu tư và quá trình dịch chuyển từ công nghiệp sang dịch vụ cũng góp phần tạo việc làm và tăng mức tiêu dùng.

Trừ Trung Quốc, toàn khu vực dự tính sẽ tăng trưởng 4,7%, thấp hơn mức 5,2% năm 2013. Các yếu kém hồi đầu năm 2014 đã được bù trừ bởi sự tăng tốc mạnh mẽ trong quý cuối năm, lại được hỗ trợ thêm bởi giá dầu thấp và chính sách tiền tệ đi kèm. Thực hiện các dự án công lớn tại Malaysia và Phi-lip-pin cũng góp phần làm tăng tăng trưởng. Giá dầu thấp và tăng cường xuất khẩu góp phần cải thiện cán cân thanh toán, trừ trường hợp các nước xuất khẩu hàng hoá. Tăng cầu trong nước vẫn là yếu tố chính góp phần thúc đẩy tăng trưởng trong khu vực mặc dù mức cầu bên ngoài thấp và chịu áp lực cạnh tranh do đồng tiền nhiều nước trong khu vực tăng giá.

Viễn cảnh: Tăng trưởng toàn khu vực dự tính sẽ tiếp tục giảm xuống còn 6,7% năm 2015 và giữ ổn định ở mức này trong thời gian sau đó. Tăng trưởng kinh tế Trung Quốc sẽ vẫn tiếp tục giảm nhưng các nước còn lại trong khu vực sẽ tăng nhờ vào sự phục hồi kinh tế tại các nước phát triển, giá năng lượng thấp, ổn định chính trị được cải thiện, cải thiện thanh khoản trên thị trường tài chính toàn cầu, tuy chính sách tiền tệ tại Hoa Kỳ có khả năng sẽ bị thắt chặt. Tại Trung Quốc, tăng trưởng dự báo sẽ đạt 7,1% năm 2015 và 7,0% năm 2016 do áp dụng các chính sách nhằm tăng trưởng ổn định hơn. Tăng trưởng toàn khu vực, trừ Trung Quốc, dự báo sẽ đạt 4,8% năm 2015 và 5,4% năm 2016 nhờ vào động lực từ các nền kinh tế lớn trong ASEAN. Tại Indonesia, tăng trưởng dự báo sẽ giảm xuống 4,7% năm 2015, sau đó sẽ tăng dần nhờ phục hồi đầu tư và xuất khẩu. Tại Thái Lan, GDP dự tính sẽ tăng 3,5% năm 2015, trong đó xuất khẩu tăng nhẹ. Tại Malaysia tăng trưởng sẽ giảm xuống còn 4,7% năm 2015 do giá dầu thấp làm giảm đầu tư trong ngành dầu khí trong khi đó thì tăng trưởng tín dụng cũng vẫn còn chậm.

Rủi ro: Khả năng xảy ra rủi ro do Trung Quốc giảm tăng trưởng mạnh hơn dự tính vẫn còn, mặc dù xác xuất xảy ra là thấp. Nếu điều đó xảy ra nó sẽ kéo theo các tác động lan toả tiêu cực lên các đối tác thương mại trong khu vực và các nước xuất khẩu hàng hoá.

Do các nền kinh tế trong khu vực là nền kinh tế mở nên chúng sẽ bị tác động mạnh nếu các đối tác thương mại bị suy giảm tăng trưởng  hoặc mỗi khi tỉ giá hối đoái thay đổi lớn, kể cả khi đồng đô-la Mỹ tiếp tục tăng giá. Biến động trên thị trường tài chính hoặc đột ngột siết chặt điều kiện cấp vốn sẽ là những nhân tố gây rủi ro lớn.  Phục hồi kinh tế thấp hơn mong đợi tại các nước thu nhập cao, nhất là tại Hoa Kỳ, khu vực châu Âu, Nhật Bản và các Nền Kinh tế Công nghiệp mới sẽ kìm hãm thương mại toàn cầu và thương mại khu vực cũng như kim ngạch xuất khẩu của các nước trong khu vực mà 60-90% lượng hàng xuất khẩu được xuất sang các nước thu nhập cao.

Nếu giá nhiên liệu tiếp tục giữ ở mức thấp thì đây sẽ là yếu tố thuận lợi đối với viễn cảnh kinh tế khu vực nhưng giá cả hàng hoá thấp đang cản trở tăng trưởng tại các nước xuất khẩu hàng hoá và các nước này phải tự điều chỉnh để thích ứng với hoàn cảnh đó.

Phát Triển Năng Lượng Sạch: Nước Lớn Cũng Khó Khăn

Giám đốc điều hành Cơ quan Năng lượng quốc tế (IEA) Fatih Birol. Ảnh: Anh Nguyễn/BNEWS/TTXVN

Việc phát triển năng lượng sạch, trong đó có nhiên liệu hydro là một trong những giải pháp quan trọng với nhiều nền kinh lớn trên thế giới nhằm thực hiện các cam kết quốc tế về cắt giảm lượng khí phát thải gây ô nhiễm môi trường.

Tuy nhiên, ngay cả với các nước lớn thì việc phát triển loại nhiên liệu này vẫn đang đối mặt với nhiều thách thức.

*Giá thành sản xuất đắt đỏ

Tại sự kiện công bố báo cáo của Cơ quan Năng lượng quốc tế (IEA) vừa diễn ra ngày 14/6/2019 tại Karuizawa (Nhật Bản), Giám đốc điều hành Cơ quan Năng lượng quốc tế (IEA) Fatih Birol khẳng định, giá thành sản xuất nhiên liệu hydro từ các nguồn năng lượng có chỉ số cacbon thấp hiện là thách thức lớn đối với việc thúc đẩy sự phát triển của nguồn nhiên liệu sạch này.

Thực tế là giá thành sản xuất loại nhiên liệu sạch này hiện đang rất cao nên khó có thể mở rộng nhanh quy mô sản xuất thương mại và tiêu dùng.

Chia sẻ về tình hình phát triển nhiên liệu hydro và nhiên liệu sinh học tại Nhật Bản thời gian qua, Bộ trưởng Kinh tế, Thương mại và Công nghiệp Nhật Bản (METI) Hiroshige Seko cho biết, tháng 12 năm 2017, chính phủ Nhật Bản đã xây dựng chiến lược cơ bản đầu tiên về phát triển nhiên liệu sạch hydro.

Tiếp đó, vào tháng 3/2019 vừa qua, Nhật Bản cũng đã công bố chiến lược phát triển nhiên liệu hydro và pin nhiên liệu hydro. Hiện Chính phủ Nhật Bản đang phối hợp với các doanh nghiệp tư nhân Nhật Bản thực thi các giải pháp nhằm biến chiến lược này thành hiện thực.

Theo Bộ trưởng Seko, Nhật Bản hiện có trên 3.000 xe ô tô sử dụng pin nhiên liệu chạy bằng hydro. Tính đến tháng 3/2019, Nhật Bản đã có 103 trạm tiếp nhiên liệu hydro được xây dựng tại các địa điểm khác nhau và Nhật Bản cũng là quốc gia có nhiều nhất trạm nạp nhiên liệu hydrogen trên thế giới .

Theo đó, việc sử dụng năng lượng hydro đang trở nên phổ biến hơn với người dân Nhật Bản khi có tới 280.000 tủ pin nhiên liệu hydro dân dụng (ene-farm) được lắp đặt tại các hộ gia đình.

Tuy nhiên, thách thức lớn nhất với Nhật Bản để mở rộng quy mô sản xuất và sử dụng nhiên liệu hydro là phải cắt giảm chi phí giá thành sản xuất loại nhiên liệu sạch này.

Vì vậy, Nhật Bản đã đặt mục tiêu giảm chi phí sản xuất hydro bằng với giá thành nhiên liệu hóa thạch vào năm 2050 để thúc đẩy việc mở rộng thị trường hydro trên toàn cầu.

Bên cạnh khó khăn khi giá thành sản xuất còn cao, việc sản xuất nhiên liệu hydro đi từ các nguồn năng lượng carbon thấp của các nước trên thế giới vẫn bị kìm hãm bởi sự phát triển chậm chạp của các trạm tiếp nhiên liệu hydro cũng như và một số rào cản pháp lý, Giám đốc IEA Fatih Birol nhấn mạnh.

Đối với loại năng lượng sạch khác là nhiên liệu sinh học, khó khăn về giá thành sản xuất cũng đang khiến các mục tiêu phát triển loại nhiên liệu sạch này chưa thể tăng tốc.

Ông Mitshuru Izumo, Chủ tịch kiêm Tổng Giám đốc Công ty nhiên liệu sinh học Euglena bên chiếc xe chạy bằng nhiên liệu sinh học được sản xuất từ tảo và dầu ăn qua sử dụng. Ảnh: Anh Nguyễn/BNEWS/TTXVN

Ông Mitshuru Izumo, Chủ tịch kiêm Tổng Giám đốc Công ty nhiên liệu sinh học Euglena cho biết, giá thành sản xuất nhiên liệu sinh học đi từ tảo biển và các loại dầu ăn đã qua sử dụng hiện tại vẫn cực kỳ đắt đỏ, cao hơn 100 lần so với dầu Diesel được sản xuất công nghiệp từ dầu thô bởi quy mô sản xuất của Euglena mới chỉ thử nghiệm ở mức 5 thùng nhiên liệu/ngày.

Tuy nhiên, Euglena đã có kế hoạch nâng công suất sản xuất loại nhiên liệu sạch này để đến năm 2025 có thể hạ giá thành sản xuất từ mức 100 đô la Mỹ/lít như hiện nay xuống còn 1,5 đô la Mỹ/lít, bằng với giá thành các nhiên liệu có gốc dầu mỏ khác.

Ông Mitshuru Izumo cũng cho biết, nhiên liệu sinh học hiện cũng khó phát triển trên quy mô lớn bởi những rào cản về quy định pha trộn nhiên liệu sinh học vào nhiên liệu có gốc từ dầu mỏ.

Cụ thể, hiện Nhật Bản chỉ mới có các căn cứ pháp lý cho phép pha trộn tối đa 5% nhiên liệu hoá thạch vào xăng truyền thong trong khi trên thực tế nhiên liệu sinh học do Euglena sản xuất được pha trộn 26% vào nhiên liệu thông thường để chạy xe buýt phục vụ đi lại tại Hội nghị Bộ trưởng G20 về năng lượng và môi trường toàn cầu vì sự phát triển bền vững đang diễn ra tại Karuizawa (Nhật Bản), ông Mitshuru Izumo chỉ rõ.

*Hợp tác mở rộng quy mô sản xuất

Theo Giám đốc điều hành Cơ quan Năng lượng quốc tế (IEA) Fatih Birol, các nước trên thế giới cần hợp tác chặt chẽ hơn để khai thác hết tiềm năng của loại nhiên liệu hydro trong thời gian tới bởi đây là nhiên liệu sạch, an toàn.

Theo tính toán của IEA, giá cả nhiên liệu hydro sẽ có thể giảm 30% khi được mở rộng quy mô sản xuất và tiêu dùng. Giám đốc IEA cũng cho biết, hydro có thể được vận chuyển giống như khí tự nhiên qua các đường ống dẫn hoặc chuyển thành dạng hoá lỏng để vận chuyển bằng tàu như khí thiên nhiên hoá lỏng LNG.

Hydro có thể được dung để phát điện và dùng cho các ngành công nghiệp, làm nhiên liệu cho các phương tiện vận tải, thậm chí là cả máy bay.

Đặc biệt hydrogen là một trong những lựa chọn hàng đầu để lưu trữ năng lượng tái tạo bởi theo tính toán của IEA thì đây có thể là sự lựa chọn chi phí thấp nhất để lưu trữ điện trong nhiều ngày, vài tuần hoặc thậm chí vài tháng.

Vì vậy, việc mở rộng quy mô công nghệ cũng như nhân rộng các mô hình sử dụng hydro, không chỉ trong công nghiệp lọc dầu hay phân bón như trước đây mà trong nhiều ngành công nghiệp và dân dụng chính là giải pháp cần làm trong ngắn hạn để giúp hạ giá thành sản xuất nhiên liệu sạch này.

Chính phủ các nước cũng cần dành khoản ngân sách hỗ trợ nghiên cứu và phát triển để giảm giá thành sản xuất hydro và phát triển pin năng lượng hydro, hỗ trợ phát triển các nhiên liệu sinh học để sản xuất hydro, công nghệ sản xuất hydrogen từ nước.

Các hành động của chính phủ, gồm cả việc sử dụng các nguồn ngân sách là rất quan trọng để thúc đẩy các nghiên cứu, chấp nhận các rủi ro và thu hút các nguồn vốn tư để sáng tạo, Giám đốc IEA khuyến nghị.

Bên cạnh đó, các nước cần đầu tư cơ sở hạ tầng do việc tiêu thụ, vận chuyển hydro như hệ thống đường ống, các trạm nạp nhiên liệu hydro nhằm cung cấp nhiên liệu rộng rãi cho ô tô, xe tải, xe buýt.

Đặc biệt, việc xây dựng các chính sách để nhiên liệu hydro sạch có thể thay thế 5% lượng khí đốt tự nhiên của các quốc gia sẽ làm tăng đáng kể nhu cầu tiêu thụ hydro, từ đó có thể thúc đẩy quy mô sản xuất và hạ chi phí giá thành sản xuất.

Ngoài ra, việc khởi động các tuyến vận chuyển thương mại quốc tế đầu tiên cho nhiên liệu hydro cần bắt đầu sớm để có thể tạo ảnh hưởng đến hệ thống năng lượng toàn cầu.

Bài học từ sự tăng trưởng thành công của thị trường khí hoá lỏng thiên nhiên toàn cầu có thể là đòn bẩy cho việc thúc đẩy nhiên liệu hydro, Giám đốc IEA Fatih Birol nhấn mạnh.

Đồng tình với các khuyến nghị của IEA, ông Benoit Potier, đồng Chủ tịch Hội đồng khí hydro thế giới, đồng thời là Chủ tịch kiêm Tổng Giám đốc Công ty Khí Air Liquide (Pháp) khẳng định, báo cáo của IEA về hydro cho thấy loại nhiên liệu sạch lý tưởng này sẽ đóng vai trò quan trọng trong tiến trình chuyển đổi từ nền kinh tế phụ thuộc dầu mỏ sang nền kinh tế năng lượng khử cacbon.

Hiện các doanh nghiệp tự tin vào các công nghệ sản xuất hydro hiện nay, còn Hội đồng khí hydro thế giới đang nỗ lực thúc đẩy hợp tác giữa các ngành công nghiệp, chính phủ và các nhà đầu tư để tạo việc làm, cắt giảm khí thải CO2 gây hiệu ứng nhà kính và chống biến đổi khí hậu.

Vì vậy, Hội đồng hydro thế giới mong muốn hợp tác mạnh mẽ hơn nữa để mở rộng quy mô sử dụng hydro trên toàn thế giới.

Về phía Nhật Bản, Bộ trưởng Kinh tế, Thương mại và Công nghiệp Nhật Bản (METI) Hiroshige Seko cho biết nước này đang tăng cường hợp tác quốc tế để có thể xây dựng cơ sở pháp lý, các tiêu chuẩn hydro hài hoà với các nước trên thế giới.

Đề xuất về các giải pháp phát triển nhiên liệu sinh học, Chủ tịch kiêm Tổng Giám đốc Công ty Năng lượng Euglena cho biết, Chính phủ Nhật Bản đã hối thúc các hãng hàng không Nhật Bản cắt giảm lượng khí thải CO2.

Vì vậy, các hãng hàng không nên sử dụng nhiên liệu sinh học pha trộn với xăng máy bay thông thường để có thể cắt giảm lượng khí phát thải.

Thực tế là các thành viên của Tổ chức Hàng không Dân dụng Quốc tế (ICAO), trong đó có Nhật Bản đã ký thoả thuận không làm tăng lượng khí thải CO2 sau năm 2020.

Bên cạnh đó, việc sử dụng nhiên liệu sinh học thay thế một phần nhiên liệu truyền thống cũng được nhiều nước thành viên coi như một giải pháp quan trọng để giảm khí thải CO2.

Tuy nhiên, theo Euglena, đến thời điểm này, Nhật Bản vẫn chưa khởi động việc sử dụng nhiên liệu sinh học trên các chuyến bay thương mại và điều này đang khiến Nhật Bản tụt lại phía sau so với nhiều nước thành viên khác./.

Giải Quyết Khó Khăn, Thúc Đẩy Phát Triển Công Nghiệp Văn Hóa

Giải quyết khó khăn, thúc đẩy phát triển công nghiệp văn hóa

Phát triển các ngành công nghiệp văn hóa được xem là một trong những khâu đột phá trong phát triển văn hóa ở nước ta hiện nay. Khi các sản phẩm nước ngoài đang ảnh hưởng rất lớn đến thị hiếu, thẩm mỹ của công chúng thì các sản phẩm văn hóa của Việt Nam chưa thực sự khẳng định được chỗ đứng vững chắc ở thị trường nội địa.

Hơn thế, chúng ta biết rằng, sản phẩm văn hóa không chỉ đơn thuần là những sản phẩm kinh tế, mà nó có những chức năng quan trọng hơn thế đối với sự phát triển đất nước. Thứ nhất, các ngành công nghiệp văn hóa thông qua các sản phẩm văn hóa đã hình thành nên sức mạnh mềm của dân tộc, từ đó, có tác động lan tỏa làm nên sức mạnh chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội của Việt Nam. Thứ hai, sự phát triển của các ngành công nghiệp văn hóa đem lại cơ hội công ăn việc làm bền vững cho đất nước từ việc sử dụng tài năng sáng tạo, vốn văn hóa, kết hợp với kỹ năng kinh doanh và công nghệ. Đây không chỉ đúng với trường hợp Việt Nam, mà còn đúng với cả thế giới. Thứ ba, phát triển công nghiệp văn hóa là để tận dụng các tài năng sáng tạo rất phong phú, đa dạng của đất nước. Thực sự hướng đất nước tới mục tiêu trở thành quốc gia khởi nghiệp, cũng như biến khát vọng hùng cường của dân tộc trở thành sự thật. Thứ tư, phát triển các ngành công nghiệp văn hóa giúp khắc phục những yếu kém trong quản lý và tổ chức hoạt động văn hóa, nghệ thuật trong những năm qua; để lĩnh vực văn hóa, nghệ thuật trở nên chuyên nghiệp, phù hợp hơn với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

Việc triển khai phát triển có trọng tâm, trọng điểm có nghĩa cần tập trung ít nhất vào 5 vấn đề đang đặt ra những khó khăn, thách thức đối với sự phát triển các ngành công nghiệp văn hóa như sau:

Hai là: Sự thiếu năng động từ các tổ chức và cơ quan nhà nước với nền kinh tế thị trường. Do nhiều lý do khác nhau, đặc biệt là vì một thời gian tương đối dài được hưởng chế độ bao cấp của Nhà nước, nhiều tổ chức và cơ quan nhà nước không quen với việc vận hành tổ chức của mình trong nền kinh tế thị trường. Nhiều mệnh lệnh của thị trường, yêu cầu của công chúng chưa thực sự được lắng nghe. Kinh tế sáng tạo, công nghiệp văn hóa có logic đi khác với những gì mà chúng ta đã từng trải nghiệm, ở đó, thị trường là một trong những yếu tố quyết định cách vận hành của một tổ chức và xu hướng phát triển của văn hóa-nghệ thuật. Chính vì vậy, để phát triển các ngành công nghiệp văn hóa, các tổ chức và cơ quan nhà nước cần phải có sự đổi mới toàn diện hơn để có một cách tiếp cận tích cực với thị trường, theo đúng tinh thần của Chính phủ mới hướng đến kiến tạo, khởi nghiệp, tạo điều kiện cho doanh nghiệp phát triển.

Ba là: Sự thiếu hụt giáo dục kỹ năng sáng tạo và khởi nghiệp là thách thức lớn khác đối với sự phát triển các ngành công nghiệp văn hóa ở Việt Nam. Đất nước chúng ta có nhiều tài năng trong nhiều lĩnh vực công nghiệp văn hóa, nhưng lại thiếu hụt các điều kiện để tài năng phát triển. Chúng ta có thể thấy nhiều trường nghệ thuật của Việt Nam như: Âm nhạc, mỹ thuật, sân khấu… có nhiều thầy giỏi, trò giỏi, chuyên môn tốt, đoạt giải cao tại các liên hoan quốc tế nhưng lại yếu về cách thức để đưa các tài năng này tiếp cận và phát triển ở thị trường (cả trong nước và quốc tế), hay nói cách khác là yếu về cách kết nối giữa tài năng nghề nghiệp và kỹ năng thị trường. Thiếu sự hỗ trợ chiến lược trong hoạt động đào tạo, phát triển chuyên môn và xây dựng tinh thần doanh nghiệp, các ngành công nghiệp văn hóa sẽ không thể phát triển xứng đáng với tiềm năng sẵn có của nó. Thêm nữa, việc thiếu đi một số kỹ năng nhất định sẽ đe dọa sự tăng trưởng và cạnh tranh lâu dài.

Bốn là: Sự thiếu liên kết, phối hợp giữa các lĩnh vực trong việc phát triển công nghiệp văn hóa. Về bản chất, các ngành công nghiệp văn hóa cần có các mạng lưới chuyên môn được kết nối chặt chẽ, từ đó giúp thúc đẩy các yếu tố thương mại trong các sản phẩm văn hóa, tạo ra các mối liên kết trong chuỗi giá trị. Lĩnh vực điện ảnh có thể kết nối với du lịch; ẩm thực có thể tạo điều kiện cho sự phát triển của cả du lịch lẫn ngành nông nghiệp của đất nước; trong lĩnh vực thời trang, các viện nghiên cứu, trường đại học có thể (và cần phải) cộng tác làm việc với các công ty may mặc, thời trang để bảo đảm cung cấp được một chương trình giáo dục và các kỹ năng sáng tạo nhất quán và đạt tiêu chuẩn, phù hợp nhu cầu thực tiễn của thị trường.

Đây là một số trong rất nhiều những điểm nghẽn cần tháo gỡ để chúng ta thực sự phát triển các ngành công nghiệp văn hóa theo đúng kỳ vọng của Đảng và Nhà nước, đáp ứng lòng mong muốn của nhân dân. Vì vậy, việc chủ động tháo gỡ được những khó khăn này sẽ giúp không chỉ các ngành công nghiệp văn hóa, mà cả nền văn hóa của đất nước phát triển, hiện thực hóa giấc mơ hùng cường, phồn vinh của dân tộc.

PGS, TS. Bùi Hoài Sơn Viện trưởng Viện Văn hóa nghệ thuật Quốc gia Việt Nam

Theo Báo Quân đội nhân dân điện tử

Tâm Trang (st)                                

Những Cách Thức Giảm Chi Phí Khi Vận Chuyển Hàng Hóa

Một thực tế cho thấy, các doanh nghiệp Việt Nam không có khả năng quản lý được các chi phí vận chuyển. Hay nói cách khác trong nhiều trường hợp, chi phí vận chuyển nằm ngoài tầm kiểm soát của họ. Nếu là các doanh nghiệp xuất khẩu thì hầu hết các chi phí vận chuyển đều được các nhà nhập khẩu trực tiếp đàm phán với các hãng tàu. Nếu là các doanh nghiệp hoạt động nội địa, thì hoạt động vận chuyển hoặc là do chính doanh nghiệp thực hiện hoặc là thuê bên thứ ba thực hiện, và hầu hết các chi phí là không rõ ràng và không thể kiểm soát.

Quy định rõ điều kiện giá dịch vụ trong hợp đồng vận chuyển, trong điều kiện tại Việt Nam nên chọn phương pháp giá linh hoạt. Trên thực tế, khi giá xăng dầu tăng, các doanh nghiệp vận tải sẽ tăng giá bán dịch vụ vận chuyển của mình không theo một nguyên tắc nào cả vì giá vận chuyển được chào không tách rời phí xăng dầu. Chính điều này đã làm cho giá dịch vụ vận chuyển không minh bạch và rất dễ bị các hãng vận chuyển lợi dụng tình hình tăng của xăng dầu thì tăng luôn giá bán. Vì thế các doanh nghiệp sử dụng dịch vụ vận chuyển nên yêu cầu các hãng vận chuyển chào giá dịch vụ vận chuyển tách rời với phụ phí xăng dầu. Giá dịch vụ sẽ được giữ nguyên trong suốt thời hạn hợp đồng và chỉ có phụ phí xăng dầu sẽ được điều chỉnh dựa trên giá thị trường. Chẳng hạn như thay vì giá dịch vụ vận chuyển từ khu công nghiệp VSIP về Cát Lái là 1,500,000 VND thì các doanh nghiệp nên yêu cầu các hãng vận chuyển chào cơ cấu giá như sau:

Giá dịch vụ vận chuyển 1,300,000 VND / container 40′

Phụ phí xăng dầu: 200,000VND. Phụ phí này sẽ được điều chỉnh hàng tháng dựa trên sự thay đổi giá dầu giao dịch trong tháng đó.

Trong thương mại quốc tế, các doanh nghiệp nên xây dựng mối quan hệ chiến lược với một số hãng tàu để giành được thế chủ động trong việc đàm phán với người mua về quyền thuê tàu (chuyển từ tập quán thương mại quốc tế từ FOB sang điều kiện “C” trong incoterm). Hơn 90% hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam theo điều kiện FOB trong đó người bán phía Việt Nam không có điều kiện để đứng ra đàm phán thuê tàu. Và chính điều này khiến cho các doanh nghiệp Việt Nam không quản lý được chi phí vận chuyển và rất dễ để người nhập khẩu nước ngoài hạ giá thành sản phẩm. Rất nhiều nhà nghiên cứu đã lên tiếng kêu gọi các doanh nghiệp nên cố gắng thay đổi tập quán này. Tuy nhiên, ở phía doanh nghiệp thật là khó khi không có cơ sở để đứng ra đàm phán với đối tác vì đội tàu của Việt Nam chưa có khả năng đáp ứng được các yêu cầu. Hầu hết các hãng tàu container ở Việt Nam không phải là công ty toàn cầu mà chủ yếu là các hãng vận chuyển nội địa hoặc vận chuyển tuyến ngắn trong khu vực châu Á. Trong khi khách hàng yêu cầu việc vận chuyển từ châu Á đến Mỹ và châu Âu, vốn là những tuyến dài. Vì thế các doanh nghiệp cần xây dựng đối tác chiến lược với một số hãng tàu nhằm : (1) có được mức giá hợp đồng thấp hơn so với mức giá thị trường , (2) có cơ sở để đàm phán với đối tác nước ngoài nhằm giành quyền vận chuyển để từ đó kiểm soát được chi phí vận chuyển và không bị “ép” giá.

Quản lý chi phí xăng dầu nhằm giảm các chi phí vận chuyển. Một số doanh nghiệp có hoạt động vận chuyển nội bộ đã sử dụng chiến lược bảo hiểm xăng dầu (fuel hedging strategy) nhằm hạn chế sự biến động xăng dầu. Thông qua các thị trường hàng hóa giao sau, các doanh nghiệp này thực hiện nghiệp vụ hedging với việc mua trước xăng dầu ở mức giá thỏa thuận. Hơn thế nữa, các doanh nghiệp này với tư cách là người mua lớn, có khả năng đàm phán được giá tốt với các nhà cung cấp xăng dầu trên thế giới. Công ty United States Postal Service (USPS) đang điều hành đội xe lớn nhất ở nước Mỹ với hằng năm chi phí cho xăng dầu vào khoảng 1.5 tỷ USD. Để quản lý được chi phí này, USPS đã sử dụng một số công cụ sau : Một là, sử dụng sức mạnh của tập đoàn để mua xăng dầu (group purchasing), cho phép công ty có thể tiết kiệm chi phí do sức mạnh đàm phán tạo ra; Hai là, sử dụng một thẻ mua xăng dầu (fuel card) cho tất cả các văn phòng của công ty cho phép công ty nhận được chiết khấu do mua số lượng lớn.

Nguồn : Linkedin

Bạn đang đọc nội dung bài viết Các Nước Đang Phát Triển Gặp Khó Khăn Trong Năm 2022 Do Chi Phí Vốn Vay Tăng Và Giá Dầu Và Giá Hàng Hóa Giảm trên website Photomarathonasia.com. Hy vọng một phần nào đó những thông tin mà chúng tôi đã cung cấp là rất hữu ích với bạn. Nếu nội dung bài viết hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!