Cập nhật nội dung chi tiết về Bình Đẳng Giới Trong Các Lĩnh Vực Của Đời Sống Xã Hội Và Gia Đình mới nhất trên website Photomarathonasia.com. Hy vọng thông tin trong bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu ngoài mong đợi của bạn, chúng tôi sẽ làm việc thường xuyên để cập nhật nội dung mới nhằm giúp bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.
Trang chủTìm hiểu pháp luật Lao động và Công đoàn
Bình đẳng giới trong các lĩnh vực của đời sống xã hội và gia đình
Luật Bình đẳng giới 2006 quy định cụ thể bình đẳng giới trong lĩnh vực chính trị, kinh tế, lao động, giáo dục và đào tạo; khoa học công nghệ; văn hóa, thông tin, thể dục, thể thao; y tế và bình đẳng giới trong gia đình.
Theo đó tại Điều 11 luật Bình đẳng giới 2006 quy định về Bình đẳng giới trong lĩnh vực chính trị cụ thể:
1. Nam, nữ bình đẳng trong tham gia quản lý nhà nước, tham gia hoạt động xã hội.
2. Nam, nữ bình đẳng trong tham gia xây dựng và thực hiện hương ước, quy ước của cộng đồng hoặc quy định, quy chế của cơ quan, tổ chức.
3. Nam, nữ bình đẳng trong việc tự ứng cử và được giới thiệu ứng cử đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân; tự ứng cử và được giới thiệu ứng cử vào cơ quan lãnh đạo của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị – xã hội, tổ chức chính trị xã hội – nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội – nghề nghiệp.
4. Nam, nữ bình đẳng về tiêu chuẩn chuyên môn, độ tuổi khi được đề bạt, bổ nhiệm vào cùng vị trí quản lý, lãnh đạo của cơ quan, tổ chức.
5. Các biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới trong lĩnh vực chính trị bao gồm:
a) Bảo đảm tỷ lệ thích đáng nữ đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân phù hợp với mục tiêu quốc gia về bình đẳng giới;
b) Bảo đảm tỷ lệ nữ thích đáng trong bổ nhiệm các chức danh trong cơ quan nhà nước phù hợp với mục tiêu quốc gia về bình đẳng giới.
Tại Điều 12 luật Bình đẳng giưới 2006 quy định về Bình đẳng giới trong lĩnh vực kinh tế cụ thể:
1. Nam, nữ bình đẳng trong việc thành lập doanh nghiệp, tiến hành hoạt động sản xuất, kinh doanh, quản lý doanh nghiệp, bình đẳng trong việc tiếp cận thông tin, nguồn vốn, thị trường và nguồn lao động.
2. Các biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới trong lĩnh vực kinh tế bao gồm:
a) Doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động nữ được ưu đãi về thuế và tài chính theo quy định của pháp luật;
b) Lao động nữ khu vực nông thôn được hỗ trợ tín dụng, khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư theo quy định của pháp luật.
Tại Điều 13 luật Bình đẳng giới 2006 quy định về Bình đẳng giới trong lĩnh vực lao động cụ thể:
1. Nam, nữ bình đẳng về tiêu chuẩn, độ tuổi khi tuyển dụng, được đối xử bình đẳng tại nơi làm việc về việc làm, tiền công, tiền thưởng, bảo hiểm xã hội, điều kiện lao động và các điều kiện làm việc khác.
2. Nam, nữ bình đẳng về tiêu chuẩn, độ tuổi khi được đề bạt, bổ nhiệm giữ các chức danh trong các ngành, nghề có tiêu chuẩn chức danh.
3. Các biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới trong lĩnh vực lao động bao gồm:
a) Quy định tỷ lệ nam, nữ được tuyển dụng lao động;
b) Đào tạo, bồi dưỡng nâng cao năng lực cho lao động nữ;
c) Người sử dụng lao động tạo điều kiện vệ sinh an toàn lao động cho lao động nữ làm việc trong một số ngành, nghề nặng nhọc, nguy hiểm hoặc tiếp xúc với các chất độc hại.
Tại Điều 14 luật Bình đẳng giới 2006 quy định về Bình đẳng giới trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo:
1. Nam, nữ bình đẳng về độ tuổi đi học, đào tạo, bồi dưỡng.
2. Nam, nữ bình đẳng trong việc lựa chọn ngành, nghề học tập, đào tạo.
3. Nam, nữ bình đẳng trong việc tiếp cận và hưởng thụ các chính sách về giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ.
4. Nữ cán bộ, công chức, viên chức khi tham gia đào tạo, bồi dưỡng mang theo con dưới ba mươi sáu tháng tuổi được hỗ trợ theo quy định của Chính phủ.
5. Biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo bao gồm:
a) Quy định tỷ lệ nam, nữ tham gia học tập, đào tạo;
b) Lao động nữ khu vực nông thôn được hỗ trợ dạy nghề theo quy định của pháp luật.
Tại Điều 15 luật Bình đẳng giới 2006 quy định về Bình đẳng giới trong lĩnh vực khoa học và công nghệ:
1. Nam, nữ bình đẳng trong việc tiếp cận, ứng dụng khoa học và công nghệ.
2. Nam, nữ bình đẳng trong việc tiếp cận các khoá đào tạo về khoa học và công nghệ, phổ biến kết quả nghiên cứu khoa học, công nghệ và phát minh, sáng chế.
Tại Điều 16 luật Bình đẳng giới 2006 quy định về Bình đẳng giới trong lĩnh vực văn hoá, thông tin, thể dục, thể thao:
1. Nam, nữ bình đẳng trong tham gia các hoạt động văn hoá, thông tin, thể dục, thể thao.
2. Nam, nữ bình đẳng trong hưởng thụ văn hoá, tiếp cận và sử dụng các nguồn thông tin.
Tại Điều 17 luật Bình đẳng giới 2006 quy định về Bình đẳng giới trong lĩnh vực y tế:
1. Nam, nữ bình đẳng trong tham gia các hoạt động giáo dục, truyền thông về chăm sóc sức khỏe, sức khoẻ sinh sản và sử dụng các dịch vụ y tế.
2. Nam, nữ bình đẳng trong lựa chọn, quyết định sử dụng biện pháp tránh thai, biện pháp an toàn tình dục, phòng, chống lây nhiễm HIV/AIDS và các bệnh lây truyền qua đường tình dục.
3. Phụ nữ nghèo cư trú ở vùng sâu, vùng xa, là đồng bào dân tộc thiểu số, trừ các đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc, khi sinh con đúng chính sách dân số được hỗ trợ theo quy định của Chính phủ.
Tại Điều 18 luật Bình đẳng giới 2006 quy định về Bình đẳng giới trong gia đình:
2. Vợ, chồng có quyền, nghĩa vụ ngang nhau trong sở hữu tài sản chung, bình đẳng trong sử dụng nguồn thu nhập chung của vợ chồng và quyết định các nguồn lực trong gia đình.
3. Vợ, chồng bình đẳng với nhau trong việc bàn bạc, quyết định lựa chọn và sử dụng biện pháp kế hoạch hoá gia đình phù hợp; sử dụng thời gian nghỉ chăm sóc con ốm theo quy định của pháp luật.
4. Con trai, con gái được gia đình chăm sóc, giáo dục và tạo điều kiện như nhau để học tập, lao động, vui chơi, giải trí và phát triển.
5. Các thành viên nam, nữ trong gia đình có trách nhiệm chia sẻ công việc gia đình.
Thu Hà (tổng hợp)
[Trở về]
Các tin đã đăng
5 chính sách mới có hiệu lực trong tháng 12-2020 công chức, viên chức cần biết
Chấm dứt hợp đồng đúng luật có khó?
Chế độ người lao động được nhận khi doanh nghiệp phá sản năm 2021
Cách tra cứu mã số BHXH đơn giản
Những lưu ý về chế độ trợ cấp thất nghiệp người lao động cần biết
Mức hưởng BHYT sẽ tăng 100% khi đi khám, chữa bệnh trái tuyến
Những trường hợp không bắt buộc tham gia BHXH 2021
Bình Đẳng Giới Trong Lĩnh Vực Chính Trị
Thực hiện Chương trình phối hợp, Trang Thông tin điện tử Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy đăng nội dung phối hợp tuyên truyền với Sở Lao động, Thương binh và Xã hội.
Bình đẳng giới là một trong những quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân Việt Nam, được quy định cụ thể trong các văn bản quy phạm pháp luật và trong các công ước quốc tế mà Việt Nam đã tham gia ký kết.
Khoản 3, Điều 5 Luật Bình đẳng giới quy định: “Bình đẳng giới là việc nam, nữ có vị trí, vai trò ngang nhau, được tạo điều kiện và cơ hội phát huy năng lực của mình cho sự phát triển của cộng đồng, của gia đình và thụ hưởng như nhau về thành quả của sự phát triển đó”.
Bình đẳng giới trong lĩnh vực chính trị đã được quy định cụ thể tại Điều 11 Luật Bình đẳng giới, đó là:
“1. Nam, nữ bình đẳng trong tham gia quản lý nhà nước, tham gia hoạt động xã hội.
2. Nam, nữ bình đẳng trong tham gia xây dựng và thực hiện hương ước, quy ước của cộng đồng hoặc quy định, quy chế của cơ quan, tổ chức.
3. Nam, nữ bình đẳng trong việc tự ứng cử và được giới thiệu ứng cử đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân; tự ứng cử và được giới thiệu ứng cử vào cơ quan lãnh đạo của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị – xã hội, tổ chức chính trị xã hội – nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội – nghề nghiệp.
4. Nam, nữ bình đẳng về tiêu chuẩn chuyên môn, độ tuổi khi được đề bạt, bổ nhiệm vào cùng vị trí quản lý, lãnh đạo của cơ quan, tổ chức.
5. Các biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới trong lĩnh vực chính trị bao gồm:
a) Bảo đảm tỷ lệ thích đáng nữ đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân phù hợp với mục tiêu quốc gia về bình đẳng giới;
b) Bảo đảm tỷ lệ nữ thích đáng trong bổ nhiệm các chức danh trong cơ quan nhà nước phù hợp với mục tiêu quốc gia về bình đẳng giới.”
Để hiện thực hóa chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước, tỉnh Hưng Yên đã ban hành nhiều chỉ thị, nghị quyết, chương trình, kế hoạch về bình đẳng giới nhằm góp phần thúc đẩy thực hiện bình đẳng giới và công tác phụ nữ trong tình hình mới.
Thực hiện mục tiêu “tăng cường sự tham gia của phụ nữ vào các vị trí lãnh đạo, quản lý, nhằm từng bước giảm dần khoảng cách giới trong lĩnh vực chính trị”, tỉnh Hưng Yên đã đạt được một số kết quả như sau: Nhiệm kỳ 2015-2020, tỷ lệ nữ tham gia cấp ủy: Cấp tỉnh 9/53 người, chiếm 16,98% (tăng 4,78% so với nhiệm kỳ trước), trong đó nữ Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy là 2/15 người, chiếm 13,33%; cấp huyện, thành phố là 16,08% (tăng 0,68%), cấp cơ sở là 18,49% (tăng 2,69%). Tỷ lệ nữ tham gia đại biểu quốc hội khóa XIV, nhiệm kỳ 2016-2021: 3/7 người, chiếm 42.86%, vượt chỉ tiêu đề ra. Số nữ giới tham gia Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2016 – 2021: cấp tỉnh là 10/53 người (chiếm 18,87%); cấp huyện là 102/332 người (chiếm 30,72%); cấp xã là 956/4.079 người (chiếm 23,44%). Tỷ lệ nữ đảm nhiệm các chức vụ lãnh đạo chính quyền: cấp tỉnh là 12/58 người (chiếm tỷ lệ 20,69%), cấp huyện 3/28 người (chiếm 10,71%) và cấp xã 23/250 người (chiếm 9,2%).
Để đạt được mục tiêu “tăng cường sự tham gia của phụ nữ vào các vị trí quản lý, lãnh đạo, nhằm từng bước giảm dần khoảng cách giới trong lĩnh vực chính trị”, cần tập trung thực hiện các giải pháp:
1. Tăng cường vai trò lãnh đạo của các cấp ủy Đảng trong việc cụ thể hóa các chủ trương và định hướng sự tham gia của phụ nữ trong lãnh đạo, quản lý.
2. Quan tâm xây dựng quy hoạch, tạo nguồn cán bộ nữ, nâng cao năng lực của phụ nữ về mọi mặt nhằm tăng cường sự tham gia của phụ nữ trong các cơ quan của hệ thống chính trị; thực hiện quy hoạch gắn với đào tạo, bồi dưỡng và bố trí, sử dụng cán bộ nữ, bảo đảm yêu cầu phát triển liên tục, bền vững đội ngũ cán bộ nữ thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, tránh tình trạng khi đại hội, bầu cử mới tìm kiếm nhân sự đủ tiêu chuẩn.
3. Các sở, ngành, đoàn thể, chính quyền cần chú trọng thực hiện tốt công tác tham mưu, tạo nguồn đào tạo và quy hoạch cán bộ nữ theo từng lĩnh vực, địa phương để thúc đẩy sự tham gia của phụ nữ vào các vị trí lãnh đạo, quản lý trong thời gian tới.
Thúc Đẩy Bình Đẳng Giới Trong Lĩnh Vực Chính Trị
Thúc đẩy bình đẳng giới trong lĩnh vực chính trị
Không thể phủ nhận trong xã hội hiện đại, định kiến về giới vẫn còn nhưng chỉ là trong tư tưởng của một số ít người dân. Sự bình đẳng giới, vai trò cân bằng giữa nam và nữ đã được thực hiện ở tất cả các lĩnh vực. Trong lĩnh vực chính trị, không chỉ tăng lên về số lượng mà chất lượng phụ nữ tham gia cũng được tăng lên về trình độ và năng lực quản lý. Rất nhiều phụ nữ đã trở thành các nhà lãnh đạo, quản lý, nắm giữ những vị trí chủ chốt tại các cơ quan mà mình tham gia. Với những tính cách ưu việt của người phụ nữ Việt Nam, rất nhiều người trong số họ đã trở thành những nhà lãnh đạo xuất sắc. Tuy vậy, dù xếp thứ hạng cao trên thế giới về tỷ lệ nữ đại biểu Quốc hội nhưng Việt Nam vẫn còn khoảng cách khá lớn giữa tỷ lệ nam và nữ (75,6% và 24,4%) và đặc biệt là tỷ lệ phụ nữ nắm giữ các vị trí lãnh đạo. Khu vực ĐBSCL có tỷ lệ nữ tham gia trong cấp ủy Đảng cấp xã cao hơn trung bình cả nước cũng chỉ đạt 19%. Mặc dù công tác cán bộ đã có một bước tiến mới, song tỷ lệ nữ giữ các chức vụ quản lý, lãnh đạo các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, UBND cấp tỉnh, thành phố hiện đạt rất thấp. Không thể phủ nhận trong xã hội hiện đại, định kiến về giới vẫn còn nhưng chỉ là trong tư tưởng của một số ít người dân. Sự bình đẳng giới, vai trò cân bằng giữa nam và nữ đã được thực hiện ở tất cả các lĩnh vực. Trong lĩnh vực chính trị, không chỉ tăng lên về số lượng mà chất lượng phụ nữ tham gia cũng được tăng lên về trình độ và năng lực quản lý. Rất nhiều phụ nữ đã trở thành các nhà lãnh đạo, quản lý, nắm giữ những vị trí chủ chốt tại các cơ quan mà mình tham gia. Với những tính cách ưu việt của người phụ nữ Việt Nam, rất nhiều người trong số họ đã trở thành những nhà lãnh đạo xuất sắc. Tuy vậy, dù xếp thứ hạng cao trên thế giới về tỷ lệ nữ đại biểu Quốc hội nhưng Việt Nam vẫn còn khoảng cách khá lớn giữa tỷ lệ nam và nữ (75,6% và 24,4%) và đặc biệt là tỷ lệ phụ nữ nắm giữ các vị trí lãnh đạo. Khu vực ĐBSCL có tỷ lệ nữ tham gia trong cấp ủy Đảng cấp xã cao hơn trung bình cả nước cũng chỉ đạt 19%. Mặc dù công tác cán bộ đã có một bước tiến mới, song tỷ lệ nữ giữ các chức vụ quản lý, lãnh đạo các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, UBND cấp tỉnh, thành phố hiện đạt rất thấp.
Với thực trạng trên, tại hội thảo lần này, các đại biểu đã thẳng thắn chỉ rõ những nguyên nhân cả chủ quan lẫn khách quan. Bà Phạm Thị Hải Chuyền, Bộ trưởng Bộ LĐ-TB&XH, cho rằng: “Định kiến giới vẫn còn tồn tại ở một số cấp lãnh đạo chính quyền, còn biểu hiện khắt khe trong bố trí cán bộ nữ, thiếu tin tưởng về năng lực và đánh giá chưa khách quan, công bằng đối với cán bộ nữ. Đồng thời công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng cán bộ nữ chưa được quan tâm đúng mức…”. Còn theo bà Nguyễn Thị Thanh Hòa, Chủ tịch Hội LHPN Việt Nam, thì: “Chất lượng cán bộ nữ đưa vào quy hoạch chưa cao, chủ yếu đưa vào cho đủ số lượng. Có một số tỉnh có tỷ lệ quy hoạch cán bộ nữ cấp ủy cao, song cơ hội trúng cử lại không cao do đại đa số là lãnh đạo cấp phòng, phó ngành (chiếm 90%). Bên cạnh đó, một bộ phận cán bộ nữ còn tự ti, chưa sẵn sàng nhận nhiệm vụ khi được luân chuyển”.
Trả lời những thắc mắc của đại biểu, bà Trương Thị Mai, Chủ nhiệm Ủy ban về các vấn đề xã hội, Chủ tịch Nhóm nữ đại biểu Quốc hội Việt Nam cũng đồng tình với đại biểu và cho rằng hiện nay vẫn còn tồn tại không ít những bất hợp lý trong bình đẳng giới cần có sự hướng dẫn, chỉ đạo thêm của Chính phủ. Điều dễ dàng nhận thấy là Việt Nam đã có chủ trương, chính sách về bình đẳng giới cụ thể nhưng gần như thực hiện chưa đến nơi đến chốn. Một nghịch lý là nếu cá nhân, tổ chức vi phạm pháp luật thì bị xử lý, nhưng khi vi phạm, hoặc không thực hiện đúng nghị quyết thì cũng… không sao (?). Do đó, sắp tới Chính phủ cũng cần có những biện pháp nhắc nhở hoặc mạnh hơn đối với việc không thực hiện đúng chủ trương, chính sách về bình đẳng giới, đặc biệt là trong lĩnh vực chính trị.
Theo http://genic.molisa.gov.vn/
Lượt xem: 1,086
Bản đồ tỉnh Quảng Nams
Văn bản điện tử
Một cửa điện tử
Portal Quảng Nam – Giấy phép số: 14/GP-TTĐT cấp ngày 26/6/2015. Đơn vị quản lý: Sở Thông tin Truyền thông – Số 50 – Hùng Vương – Thành phố Tam Kỳ Chịu trách nhiệm chính: Ông Phạm Hồng Quảng – Giám đốc Sở Thông tin Truyền thông Điện thoại:0235.3818333 – Fax:0235.3811759 – Email:cttdtqnam@quangnam.gov.vn Ghi rõ nguồn chúng tôi khi sử dụng thông tin trên website này
Ý Thức Đạo Đức Phản Ánh Lĩnh Vực Nào Của Đời Sống Xã Hội
Trong quá trình khảo sát đạo đức, quan điểm phổ biến được vận dụng để lý giải vấn đề này là gắn liền sự hình thành và phát triển của đạo đức với tính chế định của các điều kiện lịch sử , xã hội, các quan hệ kinh tế. Quan điểm này thường được nêu lên như sau: “Muốn tìm một hiện tượng đạo đức không thể dừng lại ở chỗ giải thích nội dung khái niệm của nó mà phải đi sâu tìm hiểu nguồn gốc xã hội, đặc điểm kinh tế, cơ sở giai cấp, nghĩa là tìm hiểu tồn tại xã hội đã đẻ ra hiện tượng đạo đức ấy” (l) hoặc “khi nói đạo đức mới xuất hiện cùng với sự xuất hiện của phương thức sản xuất mới, phương thức sản xuất XHCN thì cũng có nghĩa là phương hướng nghiên cứu những vấn đề đạo đức của xã hội nói chung cũng như những vấn đề đạo đức của thời kỳ quá độ nói riêng là phải tìm trong nền tảng kinh tế xã hội” (2). Có thể nói việc xác đinh phương hướng nghiên cứu đạo đức xuất phát từ các điều kiện lịch sử xã hội, đặc biệt là từ các quan hệ kinh tế là một hướng nghiên cứu đúng đắn. Đó cũng là sự thể hiện cụ thể quan niệm duy vật về lịch sử trong nghiên cứu đạo đức và cho phép lý giải các vấn đề của đạo đức ở khía cạnh bản chất nhất. Sẽ không thể làm rõ các vần đề cơ bản của đạo đức nếu tách rời các quan hệ kinh tế đó của nó. Hơn nữa khi nghiên cứu đạo đức từ các quan hệ kinh tế chủng ta đều biết rằng việc nêu lên quan điểm trên cũng không phải là sự xác đinh tùy tiện, chúng có tiền đề lý luận trực tiếp từ một luận điểm quan trọng của Engen. Trong tác phẩm “Chống Đuyrinh”, khi phê phán những nguyên tắc đạo đức vĩnh cửu, tồn tại bên ngoài loài người và giai cấp của Đuyrinh, Engen viết:
“… Con người ta, dù tự giác hay không tự giác rốt cuộc đều rút những quan niệm đạo đức của mình ra từ những quan hệ thực tiễn đang làm cơ sở cho vị trí giai cấp của mình, tức là từ những quan hệ kinh tế trong đó người ta sản xuất và trao đổi”. (3) Engen nhấn mạnh: ” Chúng ta khẳng định rằng chung quy lại thì mọi thuyết đạo đức đã có từ trước đến nay đều là sản phẩm của tình hình kinh tế của xã hội lúc bấy giờ…” (4). Điều đó chi có nghĩa khảo sát đạo đức dưới tác động của các quan hệ kinh tế là một hướng tiếp cận cơ bản và hết sức quan trọng trong nghiên cứu đạo đức.
Nhưng như chúng ta biết, đạo đức nếu chỉ được khảo sát từ các quan hệ kinh tế thị trường không thể xác định đầy đủ được. Nói khác đi phải chăng bản thân các quan hệ kinh tế trực tiếp quy định nội dung và đặc trưng riêng biệt của đạo đức? Nếu đúng là các quan hệ kinh tế là cơ sở duy nhất để nghiên cứu đạo đức thì sẽ có ba vấn đề sau đây không thể giải đáp được.
Thứ nhất, với tư cách là một hình thái ý thức xã hội, không chỉ đạo đức, mà tất cả các hình thái ý thức xã hội khác như chính trị, pháp luật… đều chịu sự quy định của các quan hệ kinh tế. Các quan hệ kinh tế quy định tất cả các hình thái ý thức xã hội chứ không riêng đạo đức, do đó sẽ không thể giải thích được đặc trưng riêngbiệt của đạo đức – một trong những hình thái của nó.
Thứ hai, khi nêu lên luận điểm này ngay Engen cũng không đặt tính quy định của các quan hệ kinh tế đối với đạo đức như một nguyên nhân trực tiếp, duy nhất mà chỉ xét nó trong nghĩa “rốt cuộc”, “xét đến cùng”.
Thứ ba, lý thuyết về các hình thái ý thức xã hội chỉ ra rằng, nếu ý thức xã hội là một hệ thống các yếu tố khác nhau về chất thì nguyên nhân của tính đa dạng của các hình thái ý thức là do tính đa dạng của đối tượng mà ý thức nó phản ánh. Điều đó có nghĩa, mỗi hình thái ý thức ngoài tính chế định chung của tồn tại đều có một đối tượng riêng biệt của mình và đặc trưng riêng biệt của mỗi hình thái ý thức được quy đinh bởi đặc trưng riêng biệt của đối tượng mà nó phản ánh. Như vậy nghiên cứu đạo đức nếu chỉ xuất phát từ các quan hệ kinh tế sẽ không thể làm sáng tỏ bản chất và đặc trưng của chúng. Vấn đề quan trọng đặt ra ở đây chính là phải làm rõ đối tượng mà đạo đức phản ánh, nghĩa là làm rỡ “tồn tại riêng biệt”, cái trực tiếp quy định đặc trưng riêng biệt của đạo đức, chứ không phải chỉ xác định một tồn tại nói chung. Chính từ những tiền đề đặt ra nêu trên chúng tôi cho rằng làm rõ các vấn đề của đạo đức, không thể chỉ xuất phát từ những điều kiện và tác động chung mà còn phải chỉ ra những nguyên nhân và những tác động riêng, đặc biệt là cần chỉ ra và xác định đúng đối tượng riêng biệt, trực tiếp của đạo đức.
Cần nói rằng vấn đề tồn tại riêng biệt của đạo đức cũng không phải là vấn đề mới. Từ lâu, gắn liền với việc khảo sát đặc trưng riêng biệt của đạo đức, nó đã được nhiều nhà nghiên cứu mácxít cũng như giới nghiên cứu ngoài mácxít quan tâm. Các nhà triết học thời khai sáng ở phương Tây đã bàn rất nhiều về vấn đề này. Tuy nhiên trong giới nghiên cứu mácxít tính cấp bách của vấn đề chỉ thực là sự nổi lên khi thực tiễn xây dựng CNXH đặt ra những tình huống mà trong đó việc lý giải các vấn đề đạo đức từ một nền tảng kinh tế nói chung đã không thể giải đáp. Nguyên nhân cơ bản của tình huống này gắn liền với sự suy thoái và đổ vỡ của ý thức đạo đức xã hội trong quá trình xây dựng nền sản xuất công hữu.
Như ta đã biết, khi nói ý thức đạo đức là sự phản ánh của các quan hệ kinh tế thì nguyên tắc ý thức đạo đức XHCN phải được hình thành và phát triển cùng với qúa trinh hình thành và phát triển các quan hệ kinh tế XHCN, nghĩa là qú trình xác lập chế độ cống hữu về tư liệu sản xuất. Nhưng trên thực tế không chỉ ở những nước có điều kiện và hoàn cảnh đặc thù với nhiều biến động phức tạp trong quá trinh đi lên CNXH như nước ta mà ngay ở những nước có điều kiện thuận lợi hơn nguyên tắc ấy vẫn không diễn ra trong hiện thực. Việc xây dựng ý thức đạo đức mới không những không dễ dàng thực hiện ngay những kết quả ban đầu đạt được của nó cũng liên tục bị sói mòn và biến dạng dữ dội từ dưới nhiều hình thức. Khảo sát thực tế qúa trình xây dựng ý thức đạo đức mới ở Liên Xô. Trước đây nhà đạo đức học Xô viết P.R.Apecian đã chỉ ra một nghịch lý sâu sắc sau: ” Nếu các quan hệ sản xuất dựa trên chế độ chiếm hữu công cộng về tư hậu sản xuất mà chúng ta xây dựng trong hơn 70 năm qua là quan hệ sản xuất XHCN thì các quan hệ đó đã không tạo ra trong xã hội một cuộc sống tinh thần đạo đức tương ứng, nghĩa là không tạo ra cơ sở để hình thành những quan hệ đạo đức nhân đạo và tốt đẹp giữa người và người“(5). Thậm chí nghiên cứu trạng thái ý thức đạo đức của con người trong các tập thể lao động trong những năm gần đây các tác giả N.N. Crutov và O N.Crutova còn cho thấy một thực tế: ở đâu tính chất công hữu trong các quan hệ sản xuất càng cao thì ở đó tính chất XHCN trong các quan hệ đạo đức của con người càng thấp. Đó là thái độ thờ ơ đối với công việc, sự ghẻ lạnh trong quan hệ giữa người này với người khác, với tập thể…” (6).
Vì sao giữa các quan hệ kinh tế và ý thức đạo đức của con người trong CNXH lại xuất hiện nghịch lý trên? Vì sao từ địa vị của người làm thuê bước lên vi trí của người làm chủ, con người không “khẳng định mình mà lại phủ định mình“? Thực tế cho thấy vấn đề này cũng như nhiều vấn đề khác từng nảy sinh trong quá trình xây dựng CNXH trước đây sẽ không được lý giải sáng tỏ nếu không bàn đến một yếu tố then chốt trong cơ chế tác động của các quan hệ xã hội.
Nói đúng hơn chính thông qua việc lý giải các mâu thuẫn gay gắt đang diễn ra trong quá trình xây dựng xã hội mới đã cho phép làm sáng tỏ một vấn đề mà theo Engen đó cũng là một chân lý giản dị và sáng tỏ nhưng vốn bị “một đống tư tưởng che kín mất” vấn đề các lợi ích và việc thỏa mãn các lợi ích của con người. Trên bình diện đạo đức việc lý giải vấn đề cũng không nằm ngoài thực tế đó. Nói khác đi chính từ việc khảo sát các mâu thuẫn xã hội hiện thực người ta dần dần nhận ra rằng: cái trực tiếp quy định bản chất và đặc trưng riêng biệt của đạo đức không phải là các quan hệ kinh tế nói chung mà là những quan hệ xác định. Những quan hệ này mặc dù không nằm ngoài mối liên hệ với các quan hệ kinh tế, song chúng có vị trí và cơ chế tác động độc lập và không đồng nhất với các quan hệ kinh tế, đó là lợi ích. Trong nền sản xuất dựa trên chế độ công hữu chính do không thực hiện đúng đắn và đầy đủ các quan hệ lợi ích cho nên đã không tránh khỏi tiêu cực dẫn đến sự xói mòn và suy thoái của ý thức đạo đức xã hội.
Qủa là nghiên cứu đạo đức không thể không bàn đến yếu tố lợi ích, điều mà Engen khi dẫn lại lời của các nhà khai sáng Pháp đã viết: ” Lợi ích hiểu một cách đúng đắn là nguyên tắc của toàn bộ đạo đức“. Về nguyên tắc đạo đức bao giờ cũng là hình thức phản ánh của các quan hệ kinh tế và chịu sự quy định của các quan hệ kinh tế, hay nói đúng hơn đó là sự quy đinh của các điều lịch sử xã hội và của các quy luật của sự phát triển xã hội. Nhưng tính quy đinh của các điều kiện và các quy luật của sự phát triển xã hội không tác động đến đạo đức một cách trực tiếp mà chỉ biểu hiện và bộc lộ thông qua các mắt khâu trung gian. Có nghĩa sự tác động nêu trên chỉ được thực hiện chừng nào các mắt khâu trung gian được phát huy và sử dụng, ngược lại thiếu sự chuyển tiếp của các mắt khâu trung gian, sự tác động trên sẽ không còn ý nghĩa. Khảo sát đạo đức dưới tác động của các lợi ích chính là nhằm làm rõ vai trò của các tác động trực tiếp ấy. Hơn nữa khảo sát các tác động xã hội dẫn đến sự hình thành đạo đức thông qua các mắt khâu trung gian cán thấy rằng, tính quy định của các điều kiện và các quan hệ kinh tế đốt với lợi ích không phải là mối liên hệ một chiều, đơn trị. Nói khác đi không phải trong hệ thống quan hệ kinh tế nào cũng đều sinh ra những lợi ích tương ứng với nó và do vậy làm xuất hiện những ý thức đạo đức phù hợp. Do tác động của nhiều yếu tố xã hội khác nhau, mối liên hệ trên luôn là một biến thể phức tạp. Nó có thể là sự thể hiện chân thực và đầy đủ nội dung của các quan hệ kinh tế, nhưng cũng có thể chỉ là những phản ánh phiến diện, hư ảo của các quan hệ trên. Chẳng hạn không thể giản đơn cho rằng, trong nền sản xuất dựa trên chế độ công hữu, con người bao giờ cũng có thể được quan tâm và thỏa mãn đầy đủ các lợi ích của mình, và ngược lại trong các nền sản xuất dựa trên chế độ tư hữu sự quan tâm ấy sẽ không thể diễn ra. Thật ra ở bất cứ nền sản xuất nào việc thỏa mãn các lợi ích không chỉ đặt ra ở chế độ sở hữu, chế độ kinh tế, đó là những vấn đề của chế độ chính trị, xã hội và việc thực hiện các chế độ ấy… Đặc biệt, một trong những vấn đề trung tâm của mối quan hệ này là việc xác định vị trí của con người trong nền sản xuất xã hội, quyền được hoàn thiện của con người được biểu hiện bằng việc thỏa mãn chính các nhu cầu và lợi ích của họ. Thực tế cho thấy ở bất cứ đâu, một khi vị trí của con người trong xã hội bị coi rẻ, con người bị biến thành phương tiện cho các mục đích khác nhau, dù đó là phương tiện để phát triển xã hội, quyền của con người bị vi phạm, thi dù đó là nền sản xuất dựa trên chế độ công hữu đi nữa, sự quan tâm trên cũng không thể được thực hiện. Bởi vậy để xây dựng và phát triển đạo đức cùng với việc xác lập các quan hệ kinh tế phù hợp, việc thỏa mãn các nhu cầu và lợi ích của con người luôn là một đòi hỏi có tính nguyên tắc đặt ra trong xây dựng và phát triển của một xã hội.
Như vậy nếu quả là sự hình thành và phát triển của đạo đức luôn gắn liền với các quan hệ lợi ích và “đạo đức có thể chỉ được xác định đầy đủ khi đặt nó trong mối quan hệ với các nhu cầu và lợi ích” (7) thì việc nghiên cứu đạo đức từ các lợi ích là một hướng tiếp cận đáng lưu ý, đồng thời đó cũng là một vấn đề lý luận có ý nghĩa thực tiễn cấp bách. Nghiên cứu đạo đức từ các lợi ích chính là cho phép làm sáng tỏ các vấn đề then chốt đang đặt ra trong nghiên cứu đạo đức học hiện nay: vấn đề về cơ sở phản ánh, về chức năng và ý nghĩa lịch sử của sự tồn tại của đạo đức. Đặc biệt, một trong những vấn đề có nghĩa phương pháp luận quan trọng trong hướng tiếp cận trên là làm rõ dây chuyền tác động xã hội dần đến sự hình thành và phát triển của đạo đức trong cuộc sống hiện thực. Trước đây khi nghiên cứu đạo đức từ các quan hệ kinh tế không phải chúng ta không nhìn thấy vai trò của các quan hệ kinh tế trong ý nghĩa “xét đến cùng” của nó. Nhưng để làm rõ dây chuyền tác động xã hội bằng việc xác định và chỉ ra các yếu tố trung gian, trực tiếp trong chính dây chuyền ấy, chúng ta thường chỉ mới quan tâm đến các tác động cùng lớp: các yếu tố thuộc thượng tầng kiến trúc như chính trị, pháp luật, nghệ thuật, tôn giáo… Đương nhiên nghiên cứu đạo đức không thể không bàn đến vai trò tác động của các yếu tố trong cùng thượng tầng kiến trúc cũng như các tác động xã hội khác đối với đạo đức và các mối quan hệ đan xen giữa chúng. Với tư cách là một hình thái ý thức, đạo đức không là kết quả riêng biệt của bất kỳ một tác động nào. Tính phức tạp và thống nhất của hiện tượng cũng như biện chứng của sự phát triển của nó luôn đặt ra và gắn liền với chính các tác động đa tầng và đa hướng đó. Nhưng vấn đề đặt ra là: vậy thì phải chăng trong sự hình thành và phát triển của đạo đức, các yếu tố và đã tác động xã hội khác nhau đều mang vai trò và ý nghĩa như nhau? Về thực chất chúng bao gồm những yếu tố nào? Về vấn đề này theo chúng tôi sự nhận định của các tác giả Xô viết trong công trình “Đạo đức học macxit” là tương đối hợp lý (8).
Sự hình thành và phát triển của đạo đức trong công trình này được xác định gắn liền với các yếu tố sau:
Một, hướng vận động của các lợi ích hiện có trong xã hội.
Hai, hệ thống các giá trị đạo đức đang tác động
Ba, sự thay đổi các tình huống của sự lựa chọn đạo đức (chẳng hạn sự thay đổi các chuẩn mực trong cách mạng khoa học kỹ thuật).
Bốn, sự tác động của các phương tiện điều chỉnh xã hội khác (quy định của pháp luật, các thiết chế hành chính…).
Năm, điều kiện giao tiếp, dư luận xã hội, kinh nghiệm đạo đức cá nhân;
Sáu, trạng thái tâm lý xã hội.
Bảy, sự tác động của các yếu tố trong lĩnh vực văn hóa tinh thần: khoa học, nghệ thuật, tôn giáo…
Và xét đến cùng đó là tự quy định của các điều kiện kinh tế, xã hội.
Trong hệ thống các yếu tố kể trên. Sự tác động của các lợi ích được coi là một trong những yếu tố có vai trò trực tiếp và gần gũi nhất trong việc tạo ra các định hướng đạo đức ở con người.
Có thể nói, việc làm rõ các tác động đa dạng trong xã hội đối với sự hình thành đạo đức và xác định vai trò riêng biệt của mỗi tác động đó là đòi hỏi không thể thiếu trong xây dựng đạo đức hiện nay.
(1) C.Mác, F.Engen, V.I Lênin. Bàn về đạo đức. UB khoa học xã hội Việt – Viện triết học, Hà Nội, 1972, tr.24.
(2) Mấy vấn đề đạo đức và thầm mỹ trong thời kỳ quá độ. Viện triết học Hà Nội, 1983, tr. 21.
(3) C.Mác, F.Engen, Tuyển tập gồm 6 tập. Tập 5, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1983, tr. 135.
(4) F.Engen Chống Đuyrinh, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1960, tr. 162.
(6) P.R.Apecian. Đạo đức và chức năng xã hội cơ bản của nó. Nxb khoa học. Mockva 1988, tr. 64.
(6) Xem N.N. Crutov, O.N. Crutova. Con người giữa những con người. Nxb Kiến thức. Mockva, 1989.
(7) Đạo đức: ý thức và hành vi, Nxb Khoa học Mockva 1986, tr.11.
(8) Đạo đức học macxit, Nxb Chính trị, M, 1986, tr. 34.
Bạn đang đọc nội dung bài viết Bình Đẳng Giới Trong Các Lĩnh Vực Của Đời Sống Xã Hội Và Gia Đình trên website Photomarathonasia.com. Hy vọng một phần nào đó những thông tin mà chúng tôi đã cung cấp là rất hữu ích với bạn. Nếu nội dung bài viết hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!