Đề Xuất 4/2023 # Bài 2: Chức Năng Nhà Nước # Top 12 Like | Photomarathonasia.com

Đề Xuất 4/2023 # Bài 2: Chức Năng Nhà Nước # Top 12 Like

Cập nhật nội dung chi tiết về Bài 2: Chức Năng Nhà Nước mới nhất trên website Photomarathonasia.com. Hy vọng thông tin trong bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu ngoài mong đợi của bạn, chúng tôi sẽ làm việc thường xuyên để cập nhật nội dung mới nhằm giúp bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.

Tóm tắt lý thuyết

Chức năng nhà nước là phương diện hoạt động cơ bản, có tính định hướng lâu dài, trong nội bộ quốc gia và trong quan hệ quốc tế, thổ hiộn vai trò của Nhà nước, nhằm thực hiện những nhiệm vụ đặt ra trước nhà nước.

Nhiệm vụ nhà nước được hiểu là mục tiêu nhà nước cần dạt được, là những vấn đề đặt ra mà nhà nước cấn phải giải quyết. Mục tiêu là những kết quả cần đạt dược xác định trước, thể hiện ý chí chủ quan của con người.

Ví dụ: Tổ chức và quản lí kinh tế; Tổ chức và quản lí văn hoá, giáo dục, khoa học công nghệ; Bảo vệ trật tự pháp luật, bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp của công dân… Chức năng nhà nước được hình thành một cách khách quan dưới tác động của nhiệm vụ nhà nước.

Ví dụ: Sự xuất hiện nhiệm vụ phòng, chống bão lụt hay dịch bệnh… là khách quan, không phụ thuộc vào ý chí của Nhà nước, do vậy các phương diện hoạt động để thực hiện nhiệm vụ này cũng mang tính khách quan.

Bên cạnh tính khách quan, chức năng nhà nước cũng mang tính chủ quan. Tính chủ quan của chức năng nhà nước phản ánh hoạt động của Nhà nước phản ánh ý chí, lợi ích của con người.

Ví dụ: Việc lựa chọn hình thức, biện pháp thực hiện chức năng để đạt được các nhiệm vụ đặt ra cũng thể hiện ý chí của Nhà nước, cán bộ, nhân viên nhà nước.

Chức năng nhà nước được phần loại thành ba lĩnh vực: chức năng lập pháp, chức năng hành pháp và chức năng tư pháp.

Chức năng lập pháp: là mặt hoạt động cơ bản của Nhà nước trong lĩnh vực xây dựng pháp luật nhằm tạo ra những quy định pháp luật để điểu chỉnh những quan hộ xã hội cơ bản, quan trọng trong xã hội.

Đối với nước ta, chức năng này chỉ do cơ quan đại diện cao nhất của nhân dân, cơ quan quyển lực nhà nước cao nhất là Quốc hội thực hiện. Sản phẩm của hoạt động lập pháp là các văn bản quy phạm pháp luật như: Hiến pháp, bộ luật, luật được ban hành.

Chức năng hành pháp: là phương diện hoạt động cơ bản của Nhà nước, nhằm tổ chức thực hiện các quy định pháp luật, đồng thời ban hành các văn bản quy phạm pháp luật dưới luật chỉ đạo trực tiếp hoạt động của các chủ thể khác chịu sự quản lí của Nhà nước.

Chức năng hành pháp là hoạt động mang tính tổ chức, khoa học, tính chủ động sáng tạo, được bảo đảm về phương diện bộ máy là các cơ quan hành chính nhiều vê’ số lượng, phức tạp vế cơ cấu, đa dạng về chức năng, nhiệm vụ và hình thức, phương pháp hoạt động. Đối với nước ta, thuộc hệ thống này, ở trung ương có Chính phủ, các cơ quan trực thuộc Chính phủ như các bộ, cơ quan ngang bộ và ở địa phương có ủy ban nhân dân (ƯBND) các cấp.

Chức năng tư pháp: là phương diện hoạt động cơ bản của Nhà nước nhằm bảo vệ pháp luật, xét xử các vụ án hình sự, giải quyết các tranh chấp về các quyền và lợi ích giữa các cá nhân, tổ chức trong lĩnh vực dân sự, hành chính, kinh tế, lao động, hôn nhân, gia đình…

Ở nước ta, chức năng tư pháp được thực hiện chủ yếu thông qua hệ thống cơ quan xét xử là Toà án nhân dân các cấp. Ngoài ra, chức năng tư pháp còn được thực hiện bởi các cơ quan bảo vệ pháp luật khác: Viện Kiểm sát, công an, thanh tra và cơ quan tư pháp.

Chức năng của toàn thể bộ máy nhà nước: là các mặt hoạt động cơ bản của Nhà nước đòi hỏi sự tham gia của nhiều cơ quan nhà nước.

Ví dụ: Để thực hiện chức năng bảo vệ trật tự pháp luật, các quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, đòi hỏi nhiều cơ quan nhà nước phải tham gia như: Toà án, công an, Viện Kiểm sát, thanh tra… Các cơ quan đó cùng tham gia thực hiện chức năng này ở những phương diện và mức độ khác nhau, phù hợp với nhiệm vụ, quyền hạn được giao.

Chức năng của cơ quan nhà nước: là mặt hoạt động cơ bản của cơ quan nhà nước cụ thể, góp phần thực hiện chức năng chung của cả bộ máy nhà nước.

Ví dụ: Chức năng của cơ quan công an là tham gia vào hoạt động phát hiện, khởi tổ, điều tra vụ án; Viện Kiểm sát: truy tố vụ án; Toà án: thực hiện hoạt động xét xử vụ án… nhằm thực hiện chức năng chung là bảo vệ trật tự pháp luật của cả bộ máy nhà nước.

Chức năng kinh tế: là phương diện hoạt động cơ bản của Nhà nước nhằm thực hiện các chính sách kinh tế của quốc gia.

Ví dụ: Tổ chức, quản lí, phát triển công, nông nghiệp, ngoại thương; hợp tác đầu tư, chuyển giao công nghệ…

Chức năng xã hội: là phương diện hoạt động cơ bản của Nhà nước tác động vào lĩnh vực xã hội nhằm ổn định xã hội và tạo điều kiện cho xã hội phát triển.

Ví dụ: Chức năng xã hội trong lĩnh vực văn hoá, giáo dục, khoa học, công nghệ; trong lĩnh vực an sinh xã hội, lao động; trong lĩnh vực bảo vệ môi trường tự nhiên, môi trường xã hội…

Chức năng đối nội: là phương diện hoạt động chủ yếu của Nhà nước trong nội bộ đất nước.

Đơn cử các chức năng đối nội của Nhà nước Việt Nam bao gồm:

Giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, trấn áp sự phản kháng, lật đổ, phản cách mạng;

Tổ chức và quản lí văn hoá, giáo dục, khoa học, công nghệ;

Bảo vệ trật tự pháp luật, các quyển, lợi ích hợp pháp của công dân;

Tổ chức và quản lí kinh tế.

Chức năng đối ngoại: là phương diện hoạt động cơ bản của Nhà nước trong quan hệ quốc tế.

Ví dụ: Bảo vệ Tổ quốc; Hợp tác quốc tế với các nhà nước khác trên nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, các bên cùng có lợi.

Chức Năng Nhà Nước Là Gì? Phân Tích Chức Năng Của Nhà Nước?

Chức năng Nhà nước là gì? Phân tích Chức năng của nhà nước?

Chức năng của nhà nước là những mặt hoạt động cơ bản của nhà nước phù hợp với bản chất, mục đích, nhiệm vụ của nhà nước và được xác định bởi điều kiện kinh tế – xã hội của đất nước trong mỗi giai đoạn phát triển của nó.

2. Phân tích chức năng của nhà nước

– Định nghĩa trên cho thấy, nói đến chức năng nhà nước là nói đến những hoạt động của nhà nước để thực hiện những công việc mà nhà nước phải làm, đó là tổ chức và quản lý các mặt của đời sống xã hội.

Những công việc đó gắn liền với nhà nước mà không một thực thể nào trong xã hội có thể làm thay nhà nước, đồng thời, nhà nước có đủ khả năng để làm. Nói cách khác, chức năng nhà nước là khái niệm dùng để chỉ những hoạt động, phần việc quan trọng của riêng nhà nước mà chỉ nhà nước mới có đủ khả năng, điều kiện để thực hiện những hoạt động đó. Do vậy, có thể hiếu, chức năng nhà nước là những phương diện, loại hoạt động cơ bản của nhà nước nhằm thực hiện các nhiệm vụ đặt ra trước nhà nước. Đó là những mặt hoạt động, hướng hoạt động chủ yếu của nhà nước, phát sinh từ bản chất, mục tiêu, nhiệm vụ, vai trò và điều kiện tồn tại của nhà nước trong mỗi giai đoạn phát triển của nó.

– Chức năng của nhà nước luôn phản ánh bản chất của nhà nước hay do bản chất của nhà nước quyết định. Ví dụ, với bản chất là bộ máy chuyên chính của giai cấp địa chủ, quý tộc phong kiến và bộ máy quản lý xã hội nhằm thiết lập và giữ gìn trật tự của xã hội phong kiến nên chức năng đàn áp và nô dịch nông dân bằng quân sự và về tư tưởng, tiến hành chiến tranh xâm lược nước khác khi có điều kiện… là các chức năng phổ biến của các nhà nước phong kiến. Còn với bản chất là nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân và là bộ máy chuyên chính vô sản, các chức năng tổ chức và quản lý kinh tế, tổ chức và quản lý văn hóa, giáo dục, khoa học, kỹ thuật… là chức năng phổ biến của các nhà nước xã hội chủ nghĩa.

– Chức năng của nhà nước còn phụ thuộc vào nhiệm vụ cơ bản của nhà nước. Giữa chức năng và nhiệm vụ của nhà nước vừa có sự thống nhất, vừa có sự khác biệt, vừa có mối liên hệ mật thiết với nhau. Nhiệm vụ của nhà nước là những công việc đặt ra đòi hỏi nhà nước phải giải quyết theo những mục tiêu đã định sẵn. Nhà nước có hai loại nhiệm vụ là nhiệm vụ cơ bản, chiến lược, lâu dài và nhiệm vụ trước mắt, cấp bách. Nhiệm vụ chiến lược, lâu dài là những vấn đề nhà nước phải giải quyết trong suốt chặng đường phát triển của đất nước. Nhiệm vụ chiến lược, cơ bản, lâu dài được thực hiện thông qua các chức năng nhà nước nên chức năng nhà nước có phạm vi hẹp hơn so với nhiệm vụ chiến lược của nhà nước và nhiệm vụ chiến lược của nhà nước có vai trò quyết định đối với việc xác định và thực hiện chức năng nhà nước. Ví dụ, trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, Nhà nước Việt Nam có hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng Tổ quốc xã hội chủ nghĩa và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, tất cả các chức năng của Nhà nước ta đều được xác định và thực hiện nhằm thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược này. Nhiệm vụ trước mắt, cấp bách là những công việc mà nhà nước phải giải quyết trong ngắn hạn, ngay lập tức để thực hiện một chức năng nào đó của nhà nước, do vậy, nhiệm vụ trước mắt, cấp bách có phạm vi hẹp hơn so với chức năng nhà nước, được xác định nhằm thực hiện chức năng, do chức năng quyết định. Ví dụ, nhiệm vụ kiểm tra, giám sát việc thực hiện pháp luật môi trường của các doanh nghiệp hiện nay được xác định và thực hiện nhằm thực hiện chức năng quản lý môi trường của nhà nước.

– Giữa chức năng và vai trò của nhà nước vừa có sự thống nhất, vừa có sự khác biệt. Chức năng của nhà nước thường nói tới việc nhà nước được sinh ra để làm gì, còn vai trò của nhà nước thường đề cập công dụng, tác dụng của nhà nước. Trong trường hợp này, chức năng và vai trò của nhà nước có ý nghĩa gần như tương tự nhau. Tuy nhiên, ngoài ý nghĩa trên, vai trò của nhà nước còn được sử dụng để nói về tầm quan trọng của nhà nước (chẳng hạn vai trò của nhà nước đối với xã hội).

3. Các yếu tố ảnh hưởng chức năng nhà nước

Chức năng của nhà nước chịu ảnh hưởng bởi các yếu tố sau:

– Điều kiện kinh tế – xã hội cụ thể của đất nước trong từng thời kỳ phát triển của nó. Thực tế cho thấy, nhà nước phải làm gì, làm như thế nào, điều đó phụ thuộc rất lớn vào điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của đất nước, do đó, các nhà nước khác nhau có thể có chức năng khác nhau. Ví dụ, chức năng của nhà nước phong kiến Việt Nam trước đây khác với chức năng của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay. Trong một nhà nước cụ thể, ở các giai đoạn phát triển khác nhau, số lượng chức năng, tầm quan trọng của mỗi chức năng, nội dung, cách thức thực hiện từng chức năng cũng có thể khác nhau. Ví dụ, trước năm 1986, quản lý, bảo vệ môi trường chưa phải là chức năng của Nhà nước ta nhưng hiện nay nó trở thành chức năng có tầm quan trọng đặc biệt và không thể thiếu. Hoặc, thiết lập và phát triển các mối quan hệ ngoại giao, hữu nghị và hợp tác quốc tế, hội nhập quốc tế là chức năng không thể thiếu của các nhà nước đương đại…

– Chức năng của nhà nước còn phụ thuộc vào bản chất, mục tiêu, nhiệm vụ của nhà nước và hoàn cảnh quốc tế. Điều này đã được phân tích ở trên.

4. Mối quan hệ giữa các chức năng của nhà nước

Một nhà nước thường có nhiều chức năng và các chức năng đó có liên hệ chặt chẽ với nhau, việc thực hiện chức năng này thường có ảnh hưởng đến việc thực hiện chức năng khác. Chẳng hạn, nhà nước chỉ có thể thực hiện tốt việc tổ chức và quản lý kinh tế khi thực hiện tốt hoạt động bảo vệ tổ quốc, tương tự các hoạt động về mặt xã hội như phát triển cơ sở hạ tầng kỹ thuật, bảo trợ xã hội… chỉ có thể thực hiện tốt khi thực hiện có hiệu quả hoạt động tổ chức và quản lý kinh tế.

5. Các phương thức (hình thức và phương pháp) thực hiện chức năng của nhà nước

– Để thực hiện chức năng của mình, đòi hỏi nhà nước phải sử dụng các hình thức khác nhau, trong đó có các hình thức cơ bản (hình thức mang tính pháp lý) là xây dựng pháp luật, tổ chức thực hiện pháp luật, bảo vệ pháp luật.

Muốn tổ chức và quản lý các mặt của đời sống xã hội, thiết lập trật tự xã hội, nhà nước phải tiến hành xây dựng pháp luật để hướng dẫn cách xử sự cho mọi người, xác định rõ những việc được làm, không được làm, phải làm cho các cá nhân, tổ chức khi tham gia vào các quan hệ xã hội nhất định để làm cho các quan hệ đó phát triển theo chiều hướng nhà nước mong muốn. Ví dụ, muốn thiết lập trật tự an

toàn giao thông đường bộ, nhà nước phải ban hành luật giao thông đường bộ để hướng dẫn cách tham gia giao thồng đường bộ cho tất cả mọi người; để bảo đảm sự ổn định của gia đình, nhà nước phải ban hành luật hôn nhân và gia đình để hướng dẫn cách xử sự của các thành viên trong gia đình với nhau… Thông qua hoạt động xây dựng pháp luật, hệ thống pháp luật được từng bước hình thành và hoàn thiện.

Pháp luật sau khi được ban hành thường không thể tự đi vào đời sống, có nhiều quy định mà các cá nhân, tổ chức trong xã hội không tự thực hiện được, do đó, nhà nước phải tiến hành các hoạt động cần thiết nhằm tổ chức cho các chủ thể trong xã hội thực hiện các quy định của pháp luật, chẳng hạn, nhà nước tiến hành phổ biến pháp luật cho người dân, giải thích, tuyên truyền, động viên, khuyến khích tính tích cực của họ, cung cấp nhân lực, vật lực, tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực hiện các quy định của pháp luật… Có như vậy, những mong muốn, yêu cầu, đòi hỏi của nhà nước thế hiện trong pháp luật mới có thể được thực hiện một cách có hiệu quả.

Trong quá trình thực hiện pháp luật, vì những lý do khác nhau, việc vi phạm pháp luật là khó tránh khỏi. Khi đó, nhà nước phải bảo vệ pháp luật bằng cách thực hiện các hoạt động để xử lý người vi phạm, giáo dục, cải tạo họ cũng như răn đe, phòng ngừa chung nhằm bảo đảm tính tôn nghiêm của pháp luật, bảo đảm các yêu cầu của nhà nước được thực hiện một cách nghiêm chỉnh, triệt để, chính xác.

Ngoài ra, còn có các hình thức khác như tổ chức các cuộc hội thảo, các phong trào thi đua, các biện pháp tác nghiệp vật chất, kỹ thuật…

– Phương pháp thực hiện chức năng của nhà nước gồm có hai phương pháp chủ yếu là thuyết phục và cưỡng chế. Thuyết phục là dùng lời nói để thuyết trình, giảng giải, chứng minh, phân tích… nhằm tạo ra sự phục tùng tự giác của đối tượng thuyết phục (hoặc đối tượng quản lý) đối với chủ thể thuyết phục (hoặc chủ thể quản lý). Cưỡng chế là bắt buộc bằng bạo lực một tổ chức hoặc một cá nhân phải làm hay không được làm một việc gì đó, hoặc phải gánh chịu sự thiệt hại về nhân thân, về tự do hoặc về tài sản… đã được quy định trong pháp luật. Ngoài hai phương pháp ừên còn có các phương pháp khác như phương pháp kinh tế, phương pháp hành chính…

Trong số các chức năng của Nhà nước Việt Nam hiện nay thì ba chức năng quan trọng nhất là chức năng kinh tế, chức năng xã hội và chức năng bảo vệ Tố quốc.

Like fanpage Luật sư Online tại: https://www.facebook.com/iluatsu/

Bài 2: Chức Năng Của Tiền Tệ

Tóm tắt lý thuyết

Dù tiền là vỏ sò, vải, muối, vàng hoặc giấy nền kinh tế, tiền cũng có bôn chức năng cơ bản là:

Phương tiện trao đổi,

Đơn vị đo lường giá trị

Phương tiện dự trữ về măt giá tri.

Tiền tệ thế giới

Trong các chức năng trên, ba chức năng đầu mang tính chất truyền thông, chức năng thứ tư xuất hiện trong nền kinh tế hội nhập hiện nay.

Trong hầu hết các giao dịch trên thị trường trong nền kinh tế, tiền dưới dạng tiền mặt hoặc Séc là một phương tiện trao đổi; có nghĩa là nó được dùng để mua bán hàng hóa, dịch vụ, hoặc thanh toán các khoản nợ trong và ngoài nước.

Việc dùng tiền làm phương tiện trao đổi đã nâng cao hiệu quả hoạt động của nền kinh tế, bởi nó đã tiết kiệm được các chi phí quá lớn trong quá trình trao đổi trực tiếp (hàng đổi hàng). Thời gian tiêu hao khi gắng sức dùng để trao đổi hàng hóa dịch vụ được gọi là chi phí giao dịch (bao gồm chi phí thời gian và chi phí tài chính). Trong nền kinh tế trao đổi trực tiếp hàng đổi hàng, các chi phí vận chuyển hàng hóa, chi phí giao dịch thường rất cao. Bởi vì, người mua, người bán phải tim được những người trùng hợp về nhu cầu trao đổi, thời gian trao đổi, không gian trao đổi. Quá trình trao đổi chỉ được diễn ra khi có sự phù hợp đó. Người có hàng hóa bán lấy tiền, sau đó sẽ mua hàng mà họ cần. Bởi vậy, người ta coi tiền như một phương tiện cần thiết, tiện dụng, cho phép nền kinh tế hoạt động trôi chảy hơn, khuyến khích chuyên môn hóa và phân công lao động xã hội ngày một sâu rộng hơn.

Ví dụ: Một người nông dân muốn bán ngũ cốc và cần dụng cụ. Một thợ thủ công muôn đổi dụng cụ để lấy thịt. Giữa hai người này sẽ không bao giờ có một cuộc mua bán trao đối, vì ý định bán của người nông dân không phù hợp với ý định mua của người thợ thủ công. Cả hai người có thể phải tìm kiếm rất lâu cho đến khi gặp được một người có ý định giao dịch phù hợp. Khi có tiền làm phương tiện trao đổi quá trình này được đơn giản hóa đi rất nhiều: Người nông dân thứ nhất có thể bán ngũ cốc cho một người thứ ba và dùng tiền thu được để mua dụng cụ tại người thợ thủ công. Người thợ thủ công có thể dùng tiền thu được mua thịt tại một người thứ tư.

Việc dùng tiền làm một phương tiện trao đổi giúp đẩy mạnh hiệu quả của nền kinh tế, qua việc loại bỏ được nhiều thời gian dành cho việc đổi chác hàng hóa hay dịch vụ qua nhiều lần trao đổi trực tiếp hàng lấy hàng.

Để tiền làm tốt chức năng này tiền phải đạt được một số ưu điểm:

Phải được tạo ra hàng loạt một cách dễ dàng, có tính đồng nhất cao để thuận tiện cho việc xác định giá trị trong từng quốc gia.

Phải được chấp nhận một cách rộng rãi của những người trao đổi hàng hóa.

Có thể chia nhỏ được nhờ đó tạo thuận lợi cho người trao đổi.

Dễ chuyên chở, di chuyển.

Không bị hư hỏng một cách nhanh chóng do tác động của khí hậu, thời tiết, môi trường…

Tiền tệ là đơn vị đo lường giá trị của hàng hóa, dịch vụ trước khi thực hiện trao đổi. Người ta đo giá trị của hàng hóa và dịch vụ bằng tiền giống như người ta đo trọng lượng của một vật bằng kilogram, đo chiều dài một vật bằng mét. Vì vậy, biểu hiện bằng tiền của giá trị hàng hóa chính là giá cả của hàng hóa đó.

Chức năng này là chức năng quan trọng của tiền tệ. Khi nền kinh tế có tiền tệ làm môi giới, thì người ta định giá bằng đơn vị tiền tệ cho tất cả các loại hàng hóa đem trao đổi trên thị trường. Trên thị trường có bao nhiêu hàng hóa đưa ra trao đổi thì có bấy nhiêu giá cả.

Chức năng này là chức năng quan trọng vì trong nền kinh tế có rất nhiều mặt hàng khác nhau, nếu không có chức năng này của tiền tệ, thì chúng ta phải trực tiếp định giá từng mặt hàng để trao đổi thứ này lấy thứ khác. Các nhà kinh tế Mỹ đã tính toán rằng nếu không có chức năng này của tiền tệ, thì với 10 mặt hàng chúng ta phải tính toán 45 giá để trao đổi một thứ hàng này với thứ hàng khác. Với 100 mặt hàng chúng ta cần phải tính toán được 4.950 giá, với 1.000 mặt hàng chúng ta cần tính 499.500 giá. (Ví dụ: 1 giờ lao động = 15 bánh mì; 1 giờ lao động = 01 cái áo; 1 giờ lao động = lkg thịt; 15 bánh mì = 01 cái áo; 01 cái áo = 1 kg thịt,…).

Công thức cho biết số giá ta cần khi ta có N mặt hàng giống như công thức tính số cặp khi có N phần tử:

Thời gian dùng để tính toán và chi phí giao dịch sẽ rất lớn.

Khi đưa tiền vào nền kinh tế và định giá bằng đơn vị tiền cho tất cả các mặt hàng, chúng ta có thể định giá được tất cả các hàng hóa dịch vụ bằng đồng tiền. Bao nhiêu mặt hàng có bấy nhiêu giá chẳng hạn có 1.000 mặt hàng thì có 1.000 giá, thay vì là 499.500 giá như khi chưa có tiền. (Ví dụ: 5 đơn vị tiền = 1 giờ lao động = 15 bánh mì = 1 cái áo = 1 kg thịt =…), vì thế mà khi so sánh giá cả không còn phải tốn nhiều công sức nữa.

Bảng 1.1: So sánh các mức giá trong một nền kinh tế trao đổi với các mức giá trong một nền kinh tế dùng tiền

Từ bảng trên chúng ta có thể thấy rằng việc dùng tiền làm một đơn vị đánh giá giảm được chi phí thời gian để giao dịch trong nền kinh tế do giảm số giá cần phải xem xét.

Khi nền sản xuất xã hội càng phát triển thì lợi ích của chức năng đo lường giá trị của tiền tệ càng tăng lên. Ngày nay, người ta đo lường giá trị hàng hóa, dịch vụ không phải chỉ bằng tiền mặt mà còn đo lường giá trị hàng hóa dịch vụ bằng Séc, hối phiếu, kỳ phiếu hoặc là các chứng từ có giá khác.

Một phương tiện trao đổi cần giữ được giá trị của nó. Vì thế, chỉ các loại hàng hóa không bị hư hỏng nhanh chóng mới làm phương tiện dự trữ về mặt giá trị. Nếu tiền không tồn tại, thì một người nông dân chỉ có khả năng trao đổi lương thực để lấy các hàng hóa khác cho đến khi lương thực này bị hư hỏng. Vì thế khi có tiền người nông dân có thể trao đổi lương thực để lấy tiền sớm hơn.

Tiền tệ làm phương tiện dự trữ về mặt giá trị, nghĩa là tiền tệ là nơi chứa giá trị; có nghĩa là nơi chứa sức mua hàng hóa trong một thời gian nhất định. Theo đó người ta có thể tách thời gian từ lúc có thu nhập đến lúc tiêu dùng. Chức năng này là quan trọng vì mọi người không muốn chi tiêu hết thu nhập của họ ngay khi nhận nó, mà dự trữ để sử dụng nó trong tương lai.

Tất nhiên, tiền không phải là vật duy nhất chứa đựng giá trị, mà các tài sản khác cũng là nơi chứa giá trị như cổ phiếu, thương phiếu bất động sản… Phần lớn trong số những loại tài sản này có lợi hơn so với tiền xét về mặt hàm chứa giá trị; trong tương lai chúng thường đem lại cho người chủ sở hữu chúng một lãi suất cao hơn lãi suất do tiền mang lại. Nhưng do tiền là tài sản có tính lỏng hay tính thanh khoản (liquidity) cao nhất. Nhờ vào đặc tính này một tài sản có thể chuyển đổi thành một phương tiện trao đổi và đấy là một tính chất nổi bật của tiền, tiền là phương tiện trao đổi, nó không cần phải chuyển đổi thành bất cứ cái gì khác với mục đích mua hàng hóa hoặc chi trả tiền dịch vụ và thanh toán các khoản nợ. Những tài sản khác đòi hỏi chi phí giao dịch khi cần chuyển sang tiền. Trong nền kinh tế hàng hóa, tiền đóng vai trò quan trọng do những tiện ích mà nó mang lại.

Ví dụ như khi ta bán nhà, thường phải trả cho người môi giới một khoản phí môi giới, và nếu lại cần tiền mặt ngay để trả cho một nhu cầu khẩn cấp có thể buộc lòng phải bán giá thấp hơn để bán nhanh ngôi nhà. Nhưng nếu ta giữ tiền mặt thì ta sẽ không mất khoản phí môi giới và cũng không phải bán ngôi nhà với giá thấp hơn.

Vì vậy tiền là một phương tiện dự trữ về mặt giá trị có nhiều ưu điểm trong nền kinh tế hàng hóa. Tuy vậy nó phải tùy thuộc vào mức giá vì giá trị của tiền được ấn định theo mức giá. Nếu các giá đều tăng gấp hai (lạm phát 100%) thì nghĩa là giá trị của tiền đã sụt một nửa, ngược lại nếu các giá giảm đi một nửa thì giá trị tiền sẽ tăng lên hai lần. Trong một cuộc lạm phát khi mức giá tăng lên nhanh chóng, tiền mất giá nhanh chóng dân chúng sẽ bất đắc dĩ mới giữ tiền. Điều này thể hiện rõ nhất trong thời kỳ siêu lạm phát. Trong nền kinh tế thị trường thì mức độ quan trọng của tiền cũng thay đổi, vì các hàng hóa của thị trường tài chính lại không phải là tiền mặt, mà là các chứng từ có giá như thương phiếu, hối phiếu, chứng chỉ tiền gửi, cổ phiếu v.v…

Vị thế của tiền (tiền mặt và các loại tiền khác) cũng là một phạm trù lịch sử, có thể thay đổi theo sự phát triển của nền kinh tế xã hội trong các giai đoạn khác nhau của xã hội loài người.

Khi trao đổi hàng hóa vượt qua khỏi biên giới quốc gia thì tiền làm chức năng tiền tệ thế giới. Tiền thế giới cũng thực hiện ba chức năng nêu trên.

Trong giai đoạn đầu của sự hình thành quan hệ kinh tế quốc tế, đồng tiền đóng vai trò là tiền tệ thế giới phải là vàng bạc. Sau này song song với chế độ thanh toán bằng vàng bạc (kim loại quý), tiền giấy được bảo lãnh bằng vàng cũng được dùng làm phương tiện thanh toán quốc tế. Cùng với sự phát triển của kinh tế thế giới, chế độ tiền giấy bảo lãnh bằng vàng bị xóa bỏ, nên một số đồng tiền quốc gia mạnh được công nhận là phương tiện thanh toán quốc tế. Nền kinh tế của một quốc gia càng phát triển, nhất là kinh tế đối ngoại, khả năng chuyển đổi của đồng tiền quốc gia đó càng cao. Những đồng tiền được sử dụng làm phương tiện thanh toán quốc tế ở phạm vi và mức độ thông dụng nhất định gọi là những đồng tiền có khả năng chuyển đổi.

Việc chuyển đổi tiền của nước này ra tiền của nước khác được hình thành thao tỷ giá hôi đoái. Đó là giá trị một đồng tiền của một quốc gia này bằng đồng tiền của một quốc gia khác.

Các Yếu Tố Ảnh Hưởng Đến Chức Năng Của Nhà Nước Đương Đại (Phần 2)

CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN CHỨC NĂNG CỦA NHÀ NƯỚC ĐƯƠNG ĐẠI (Phần 2)

Nguyễn Thị Thu Na

Bản chất nhà nước quy định chức năng nhà nước, nhưng thức tế còn có những yếu tố khác tác động đến chức năng nhà nước. Những yếu tố làm cho chức năng của nhà nước đương đại trở nên đa dạng, phức tạp tạo ra những sắc thái riêng của mội nhà nước cụ thể là những yếu tố khách quan, yếu tố chủ quan, yếu tố lịch sử, yếu tố thời đại, yếu tố nội sinh, yếu tố ngoại sinh,..nhưng có những yếu tố diển hình tác động trực tiếp đến chức năng, để lại dấu ấn đậm nét trong các lĩnh vực hoạt động của các nhà nước.

2.1. Các yếu tố bên trong:

2.1.1 Trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, kinh tế trong xã hội – Lực lượng sản xuất:

Lực lượng sản xuất là toàn bộ những năng lực sản xuất của xã hội ở các thời kỳ nhất định. Về mặt cấu trúc, lực lượng sản xuất xã hội bao gồm hệ thống những tư liệu sản xuất mà người ta dùng cho sản xuất, trong đó quan trọng nhất là công cụ lao động. Trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, phát triển kinh tế là những nhân tố ảnh không nhỏ đến chức năng nhà nước. Mỗi bước phát triển của đời sống kinh tế lại đặt ra yêu cầu mới có tính xác định cụ thể với bộ máy nhà nước. Từ đó, chức năng nhà nước cũng có sự biến đổi, đòi hỏi cần phải có nhận thức mới đầy đủ hơn về nó.

Ví dụ, ở Việt Nam, lực lượng sản xuất ngày càng phát triển, trình độ lao động ngày càng tăng, dẫn đến số lượng sản phẩm càng nhiều, nền kinh tế đi lên để phù hợp với lực lượng sản xuất, đòi hỏi Nhà nước phải có các chính sách, chủ trương, cơ chế mới để đảm bảo cho nền kinh tế phát triển đúng với giai đoạn hiện tại.

Chức năng kinh tế là một trong những chức năng quan trọng nhất của nhà nước và được hiểu là những phương diện hoạt động chủ yếu của nhà nước trong tổ chức, điều tiết và quản lý nền kinh tế nhằm đảm bảo đáp ứng nhu cầu vật chất của người dân, nhà nước và của toàn xã hội.

Tổ chức, điều tiết, quản lý kinh tế là nhiệm vụ xuyên suốt của nhà nước trong mọi thời kỳ phát triển của lịch sử. Dưới tác động của nhiều yếu tố khác nhau, như: bản chất nhà nước, ý chí của giai cấp thống trị, điều kiện cơ sở hạ tầng, điều kiện tự nhiên, trình độ nhận thức… các hình thức, phương thức thực hiện, mục đích thực hiện chức năng kinh tế của nhà nước có thể khác nhau. Nhưng, ngay từ khi ra đời cho đến nay, sự tham gia của nhà nước vào các hoạt động kinh tế luôn có tính tất yếu, khách quan. Không thể có một nhà nước tồn tại tách biệt khỏi điều kiện cơ sở vật chất của xã hội. Cũng không thể có một xã hội có sự quản lý của nhà nước mà nền kinh tế lại đặt ra ngoài hoạt động của nhà nước. Ngay từ những bộ cổ luật đầu tiên của thế giới nhân loại đã biết đến các hình thức hợp đồng mua bán, chuyển nhượng quyền sử dụng ruộng đất, những quy định về thừa kế, quyền sở hữu nô lệ, quyền sở hữu ruộng đất của chủ nô cũng như của các giai cấp thống trị trong việc bảo vệ tư liệu sản xuất, tài sản của mình. Còn ở các nhà nước hiện đại, không thể thiếu những quy định của pháp luật về thị trường tài chính, về tổ chức và hoạt động của các loại hình doanh nghiệp, về hoạt động thương mại, về đăng ký, thành lập doanh nghiệp…

Trong lịch sử cũng đã tồn tại quan điểm cho rằng, sự tham gia của nhà nước vào nền kinh tế là không cần thiết. Theo thuyết “Bàn tay vô hình”, sẽ tốt hơn nếu thị trường tự quyết định, tự điều chỉnh theo chính nhu cầu vốn có của nó mà không cần có sự can thiệp của nhà nước. Nhưng, thực tế lịch sử cho thấy, thiếu sự điều tiết của nhà nước nền kinh tế dễ bị tổn thương như thế nào. Nhưng ngay cả khi áp dụng lý thuyết này, nhà nước vẫn không đứng ngoài cuộc. Vai trò điều tiết của nhà nước lúc này là thông qua những quy định pháp lý về sự tự do hóa nền kinh tế, mở cửa thị trường, những quy định về các loại hình công ty, thương hội

2.1.2. Cơ cấu – phân tầng xã hội, mối quan hệ giữa các nhóm lợi ích trong xã hội

Yếu tố này xuất phát từ sự ảnh hưởng của bản chất Nhà nước (tính xã hội) đến chức năng nhà nước và ảnh hưởng lớn đến chức năng Nhà nước. Cơ cấu phân tầng của xã hội càng phức tạp, tức xã hội càng nhiều giai cấp, thì nhà nước càng cần phát triển các chức năng để đáp ứng nhu cầu của xã hội. Mối quan hệ giữa các nhóm lợi ích trong xã hội về kinh tế chính trị, xã hội…là cơ sở để nhà nước phát triển các chức năng của mình nhằm đảm bảo tính giai cấp và tính xã hội của Nhà nước.

Khi nghiên cứu nguồn gốc Nhà nước ta thấy rằng nhà nước xuất hiện do 2 nguyên nhân: nguyên nhân kinh tế (sự xuất hiện chế độ tư hữu) và nguyên nhân xã hội (sự xuất hiện của giai cấp và mâu thuẫn giai cấp). Căn cứ vào đó có thể thấy bản chất nhà nước được thể hiện ở hai mặt, đó là tính giai cấp của nhà nước và vai trò xã hội.

Trong xã hội có giai cấp, sự thống trị của giai cấp này đối với giai cấp khác đều thể hiện dưới ba loại quyền lực là quyền lực chính trị, quyền lực kinh tế và quyền lực tư tưởng. Trong đó, quyền lực kinh tế giữ vai trò quyết định, là cơ sở để bảo đảm cho sự thống trị giai cấp. Quyền lực kinh tế co ý nghĩa quan trọng vì nó tạo ra cho người chủ sở hữu khả năng có thể bắt những người bị bóc lột phải phụ thuộc về mặt kinh tế. Nhưng bản thân quyền lực kinh tế không thể duy trì được các quan hệ bóc lột. VÌ vậy, cần phải có nhà nước, một bộ máy cưỡng chế đặc biệt để củng cố quyền lực của giai cấp thống trị về kinh tế và để đàn áp sự phản kháng của các giai cấp bị bóc lột. Nhờ có nhà nước, giai cấp thống trị về kinh tế trở thành giai cấp thống trị về chính trị. Nói cách khác, giai cấp thống trị đó trở thành chủ thể của quyền lực kinh tế và quyền lực chính trị.

Tính giai cấp là mặt cơ bản thể hiện bản chất của nhà nước. Tuy nhiên, với tư cách là bộ máy thực thi quyền lực công cộng nhằm duy trì trật tự và sự ổn định của xã hội, nhà nước còn thể hiện rõ nét tính xã hội của nó. Trong bất kỳ nhà nước nào, bên cạnh việc bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị, nhà nước cũng phải chú ý đến lợi ích chung của xã hội, giải quyết những vấn đề mà đời sống xã hội đặt ra. Chẳng hạn: bảo đảm trật tự an toàn xã hội, xây dựng và thực hiện hệ thống an sinh xã hội, bảo vệ môi trường, chống thiên tai, dịch bệnh…

Nhà nước là một tổ chức đặc biệt của quyền lực chính trị, một bộ máy chuyên làm nhiệm vụ cưỡng chế và thực hiện các chức năng quản lý đặc biệt nhằm duy trì trật tự xã hội, thực hiện mục đích bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị trong xã hội.

So với các tổ chức khác trong xã hội có giai cấp, nhà nước có một số đặc điểm riêng sau đây:

+ Nhà nước thiết lập một quyền lực công đặc biệt không hòa nhập với dân cư

Trong xã hội cộng sản nguyên thủy, quyền lực chưa tách khỏi xã hội mà gắn liền với xã hội, hòa nhập với xã hội chưa có giai cấp nên chưa có nhà nước. Quyền lực đó do toàn xã hội tổ chức ra, chưa mang tính giai cấp, phục vụ lợi ích chung của cả cộng đồng.

Khi xuất hiện nhà nước, quyền lực công cộng đặc biệt được thiết lập. Chủ thể của quyền lực này là giai cấp thống trị. Để thực hiện quyền lực này, nhà nước hình thành một bộ máy cưỡng chế để duy trì địa vị và bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị, bắt các giai cấp khác phải phục vụ ý chí của giai cấp thống trị. Như vậy, quyền lực công cộng đặc biệt này đã tách khỏi xã hội, mang tính giai cấp sâu sắc và chỉ phục vụ cho lợi ích của giai cấp thống trị.

Công cuộc đổi mới đất nước, sự phát triển nền kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế tạo ra những tiền đề và đòi hỏi đổi mới, tăng cường phân cấp quản lý giữa trung ương và địa phương, nhằm phát huy mạnh mẽ tính năng động, sáng tạo, quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của chính quyền địa phương các cấp trong quản lý, điều hành các nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội trên địa bàn.

Ví dụ, nhà nước chủ nô tồn tại hai giai cấp cơ bản là chủ nô và nô lệ với mâu thuẫn giai cấp hết sức gay gắt nên một trong các chức năng nhà nước là duy trì sự thống của giai cấp chủ nô đối với giai cấp nô lệ. Đến Nhà nước xã hội chủ nghĩa không còn sự bóc lột giữa các giai cấp. Chức năng nhà nước là thực hiện quyền làm chủ của nhân dân lao động, nâng cao chất lượng cuộc sống, thực hiện công bằng xã hội, giải quyết hài hòa các lợi ích giữa nhà nước, cá nhân và cộng đồng.

2.1.3. Trình độ và trách nhiệm của các nhà chính trị, bộ máy nhà nước

Trình độ ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng phán đoán và phương pháp giải quyết công việc. Trách nhiệm ảnh hưởng đến tính thần, ý thức làm việc,…của chủ thể. Trình độ và trách nhiệm có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Có trình độ giúp các nhà chính trị nhận thức và hiểu rõ hơn trách nhiệm của mình. Ngược lại trách nhiệm giúp nâng cao tinh thần tự giác học tập, rèn luyện để phát triển trìnhđộ, qua đó thực hiện công việc đặt ra nhanh chóng và đạt hiệu quả cao hơn. Hiện nay trong bộ máy nước Việt Nam còn tồn tại một bộ phận cán bộ nhà nước có trình độ hiểu biết kém, vô trách nhiệm…đã ảnh hưởng không nhỏ đến uy tín, khả năng thực hiện chức năng của nhà nước.

Hoạt động của bộ máy công chức có ý nghĩa quyết định đến kết quả bộ máy nhà nước. Trong thời gian tiếp theo, cần tiếp tục đẩy mạnh đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức. Xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng đối với từng loại công chức giúp công chức có khả năng nắm vững các kiến thức chính trị, chủ trương đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước, kiến thức hành chính, pháp luật, ngoại ngữ, tin học…đáp ứng yêu cầu hiện đại hóa, hội nhập quốc tế.

2.1.4. Lịch sử phát triển toàn dân tộc, truyền thống – văn hóa- tư tưởng

Mỗi nhà nước có một lịch sử ra đời và phát triển riêng dẫn đến việc có những chức năng khác nhau, phù hợp với nó. Ví dụ, ở kiểu Nhà nước chủ nô, đểbảo vệ quyền lợi về tư liệu sản xuất cũng như địa vị của chủ nô, ngăn cản sự nổi dậy của nô lệ …Nhà nước phải có chức năng trấn áp sự phản kháng của nô lệ và các tầng lớp nhân dân lao động bằng quân sự. Đến kiểu Nhà nước Xã Hội Chủ Nghĩa ra đời, do thực hiện mục tiêu tất cả quyền lực thuộc về tay nhân dân, chức năng bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân và con người ra đời và được thể hiện trong Hiến pháp. Các yếu tố truyền thống – văn hóa – tư tưởng là nguồn gốc của một số chức năng nhà nước nhất định.

Ví dụ, ở Trung Quốc vua là thiên tử, có trách nhiệm “thế thiên hành đạo”, dân chúng luôn hết lòng phục vụ vua, coi vua là trung tâm. Điều này rất phù hợp với ý chí của giai cấp thống trị, dẫn đến việc duy trì sự thống trị về tư tưởng đối với quần chúng trở thành một chức năng của kiểu Nhà nước phong kiến, giúp Nhà nước quản lý và điều khiển quần chúng rất hiệu quả.

2.2. Yếu tố bên ngoài

Quyền con người, dân chủ hóa và toàn cầu hóa cũng ảnh hưởng rất lớn đến nhiều chức năng nhà nước.

Dựa trên việc thừa nhận quyền con người và xem xét nó trên mọi phương diện, các quốc gia xây dựng hệ thống pháp luật trong nước phù hợp với các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế để đảm bảo cho người dân được thụ hưởng quyền con người một cách tốt nhất. Quá trình dân chủ hóa quốc gia diễn ra đòi hỏi các quốc gia phải có những chính sách, quy định đảm bảo sự công bằng, bình đẳng giữa những người dân,phát huy quyền làm chủ của người dân… Trong thời đại ngày nay, khi toàn cầu hóa đã trở thành xu thế, sự hợp tác giữa các nước được thúc đẩy, các quá trình trao đổi, hợp tác kinh tế,tài chính,thương mại… giữa các quốc gia trở nên tích cực hơn,các nước chủ động và tích cực tham gia vào quá trình hội nhập quốc tế trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Quyền con người, dân chủ hóa và toàn cầu hóa góp phần đẩy mạnh sự thực hiện và phát triển toàn diện của các chức năng Nhà nước như: chính trị, kinh tế, đối ngoại…

Hội nhập quốc tế và toàn cầu hóa là một xu thế tất yếu trong thời đại ngày nay, nước nào đứng ngoài xu thế này sẽ khó có thể phát triển được. Đối với những nước đang phát triển, nghèo nàn, lạc hậu thì hội nhập quốc tế và toàn cầu hóa là một cơ hội tốt để thu hút nguồn vốn đầu tư, tiếp cận công nghệ tiên tiến, học hỏi trình độ quản lý hiện đại,… nhằm phát triển kinh tế – xã hội. Nhận thức sâu sắc về ý nghĩa của hội nhập quốc tế, toàn cầu hóa đối với sự phát triển kinh tế – xã hội, Đảng ta chủ trương chủ động tham gia vào quá trình này.

Hội nhập quốc tế và toàn cầu hóa hiện nay là hội nhập quốc tế và toàn cầu hóa trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường, mà kinh tế thị trường với nhiều thành phần kinh tế tất yếu dẫn tới nhiều thành phần xã hội, tức cơ cấu giai tầng trong kinh tế thị trường sẽ đa dạng và phong phú hơn. Đa dạng về thành phần xã hội tất sẽ đa dạng về lợi ích và nhu cầu. Đáp ứng những nhu cầu, lợi ích chính đáng và đa dạng của các thành phần trong xã hội thuộc về chức năng xã hội của nhà nước.

Hội nhập quốc tế và toàn cầu hóa, bên cạnh những mặt tích cực cũng đã nảy sinh những vấn đề xã hội, đòi hỏi Nhà nước phải cấp bách giải quyết như: nạn thất nghiệp, cạnh tranh không lành mạnh gây thiệt hại cho người sản xuất kinh doanh chân chính; các tệ nạn xã hội, tội phạm mang tính quốc tế gia tăng, ảnh hưởng môi trường xã hội; do điều kiện địa lý, các vùng sâu, vùng xa có nguy cơ tụt hậu vì không thu hút được đầu tư; do lợi nhuận chi phối nên những nhóm ngành nghề rất cần cho xã hội nhưng lợi nhuận thấp dễ bị bỏ rơi,v.v.. Những vấn đề đó đang đòi hỏi Nhà nước phải nâng cao hiệu quả thực hiện chức năng xã hội.

Bạn đang đọc nội dung bài viết Bài 2: Chức Năng Nhà Nước trên website Photomarathonasia.com. Hy vọng một phần nào đó những thông tin mà chúng tôi đã cung cấp là rất hữu ích với bạn. Nếu nội dung bài viết hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!