Đề Xuất 3/2023 # Áp Dụng Biện Pháp Tự Vệ Trong Phòng Vệ Thương Mại # Top 12 Like | Photomarathonasia.com

Đề Xuất 3/2023 # Áp Dụng Biện Pháp Tự Vệ Trong Phòng Vệ Thương Mại # Top 12 Like

Cập nhật nội dung chi tiết về Áp Dụng Biện Pháp Tự Vệ Trong Phòng Vệ Thương Mại mới nhất trên website Photomarathonasia.com. Hy vọng thông tin trong bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu ngoài mong đợi của bạn, chúng tôi sẽ làm việc thường xuyên để cập nhật nội dung mới nhằm giúp bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.

Nghị định số 10/2018/NĐ-CP được ban hành ngày 15 tháng 01 năm 2018 quy định chi tiết một số điều của Luật Quản lý ngoại thương về các biện pháp phòng vệ thương mại. Nghị định có các quy định cụ thể về việc điều tra tự vệ và áp dụng biện pháp tự vệ.

Theo đó, để bắt đầu việc tiến hành điều tra tự vệ trước hết phải có hồ sơ yêu cầu áp dụng biện pháp tự vệ của tổ chức, cá nhân đại diện cho ngành sản xuất trong nước (chiếm ít nhất 25% tổng khối lượng, số lượng hàng hóa tương tự, hàng hóa cạnh tranh trực tiếp được sản xuất trong nước) hoặc hồ sơ cung cấp bằng chứng chứng minh sự cần thiết phải áp dụng biện pháp tự vệ của cơ quan điều tra. Căn cứ vào hồ sơ, Bộ trưởng Bộ Công Thương sẽ quyết định điều tra. Đối với hồ sơ yêu cầu áp dụng biện pháp tự vệ, phải đảm bảo đủ thành phần và nội dung pháp luật quy định (theo Điều 47 Nghị định 10/2018/NĐ-CP). Hồ sơ yêu cầu của tổ chức, cá nhân đại diện cho ngành sản xuất trong nước được thẩm định bởi Cơ quan điều tra trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được hồ sơ và sau đó trình Bộ trưởng Bộ Công thương.

Sau khi có kết luận sơ bộ, Bộ trưởng Bộ Công Thương quyết định áp dụng biện pháp tự vệ tạm thời khi có các yếu tố sau:

Có sự gia tăng nhập khẩu quá mức của hàng hóa nhập khẩu bị điều tra;

Ngành sản xuất trong nước bị thiệt hại nghiêm trọng hoặc bị đe dọa gây ra thiệt hại nghiêm trọng;

Việc gia tăng nhập khẩu quá mức quy định tại điểm a khoản này là nguyên nhân gây ra thiệt hại nghiêm trọng hoặc đe dọa gây ra thiệt hại nghiêm trọng của ngành sản xuất trong nước;

Việc chậm áp dụng biện pháp tự vệ gây ra thiệt hại nghiêm trọng hoặc đe dọa gây ra thiệt hại nghiêm trọng của ngành sản xuất trong nước và thiệt hại đó khó có thể khắc phục về sau.

Biện pháp tự vệ tạm thời chỉ được áp dụng dưới hình thức thuế nhập khẩu bổ sung.

Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày có kết luận cuối cùng, Bộ trưởng Bộ Công Thương ban hành quyết định chính thức về vụ việc. Nội dung quyết định đưa ra biện pháp tự vệ chính thức (thuế tự vệ; hạn ngạch nhập khẩu; hạn ngạch thuế quan; Cấp giấy phép nhập khẩu; Các biện pháp tự vệ khác.) và nội dung áp dụng.

Riêng đối với biện pháp hạn ngạch nhập khẩu, hạn ngạch thuế quan, khối lượng, số lượng hạn ngạch nhập khẩu, hạn ngạch thuế quan không được thấp hơn khối lượng, số lượng nhập khẩu trung bình của 03 năm gần nhất có số liệu nhập khẩu, trừ khi Cơ quan điều tra có lập luận, chứng cứ rõ ràng rằng cần có khối lượng, số lượng hạn ngạch nhập khẩu thấp hơn để ngăn ngừa hoặc khắc phục thiệt hại nghiêm trọng, đe dọa gây thiệt hại nghiêm trọng.

Bộ Công Thương thực hiện việc phân bổ hạn ngạch giữa các nước xuất khẩu căn cứ thị phần tính theo tổng khối lượng, số lượng hàng hóa của các nước xuất khẩu vào Việt Nam trong 03 năm gần nhất có số liệu nhập khẩu và có tính đến các yếu tố đặc biệt ảnh hưởng đến hoạt động thương mại hàng hóa.

Nghị định này có hiệu lực thi hành từ ngày 15 tháng 01 năm 2018.

Biện Pháp Tự Vệ (Thương Mại)

Trong thương mại quốc tế, biện pháp tự vệ là việc tạm thời hạn chế nhập khẩu đối với một hoặc một số loại hàng hoá khi việc nhập khẩu chúng tăng nhanh gây ra hoặc đe doạ gây ra thiệt hại nghiêm trọng cho ngành sản xuất trong nước. Biện pháp tự vệ chỉ được áp dụng đối với hàng hoá, không áp dụng đối với dịch vụ, đầu tư hay sở hữu trí tuệ.

Mỗi nước thành viên Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) đều có quyền áp dụng biện pháp tự vệ, nhưng khi áp dụng thì họ phải bảo đảm tuân theo các quy định của WTO (về điều kiện, thủ tục, cách thức áp dụng biện pháp tự vệ).

Được sử dụng để “đối phó” với hành vi thương mại hoàn toàn bình thường (không có hành vi vi phạm pháp luật hay cạnh tranh không lành mạnh) nên về hình thức, việc áp dụng biện pháp tự vệ bị coi là đi ngược lại chính sách tự do hoá thương mại của WTO. Tuy vậy, đây là biện pháp được hợp pháp hoá trong khuôn khổ WTO (với các điều kiện chặt chẽ để tránh lạm dụng). Lý do là trong hoàn cảnh buộc phải mở cửa thị trường và tự do hoá thương mại theo các cam kết WTO, các biện pháp tự vệ là một hình thức “van an toàn” mà hầu hết các nước nhập khẩu là thành viên WTO đều mong muốn. Với chiếc van này, nước nhập khẩu có thể ngăn chặn tạm thời luồng nhập khẩu để giúp ngành sản xuất nội địa của mình tránh những đổ vỡ trong một số trường hợp đặc biệt khó khăn.

Các nguyên tắc về việc sử dụng biện pháp tự vệ trong WTO được quy định tại:

Điều XIX GATT 1994; và

Hiệp định về biện pháp tự vệ (Hiệp định SG).

Một nước nhập khẩu chỉ có thể áp dụng biện pháp tự vệ sau khi đã tiến hành điều tra và chứng minh được sự tồn tại đồng thời của các điều kiện sau:

Ngành sản xuất sản phẩm tương tự hoặc cạnh tranh trực tiếp với hàng hoá đó bị thiệt hại hoặc đe doạ bị thiệt hại nghiêm trọng; và

Có mối quan hệ nhân quả giữa hiện tượng nhập khẩu tăng đột biến và thiệt hại hoặc đe doạ thiệt hại nói trên.

Một điều kiện chung là tình trạng nói trên phải là hệ quả của việc thực hiện các cam kết trong WTO của các thành viên mà họ không thể thấy hoặc lường trước được khi đưa ra cam kết.

Khác với trường hợp các vụ kiện chống bán phá giá hay chống trợ cấp, WTO không có nhiều quy định chi tiết về trình tự, thủ tục kiện áp dụng biện pháp tự vệ. Tuy nhiên, Hiệp định về Biện pháp tự vệ của WTO có đưa ra một số các nguyên tắc cơ bản mà tất cả các thành viên phải tuân thủ, ví dụ:

Đảm bảo tính minh bạch (Quyết định khởi xướng vụ điều tra tự vệ phải được thông báo công khai; Báo cáo kết luận điều tra phải được công khai vào cuối cuộc điều tra…)

Đảm bảo bí mật thông tin (đối với thông tin có bản chất là mật hoặc được các bên trình với tính chất là thông tin mật không thể được công khai nếu không có sự đồng ý của bên đã trình thông tin);

Các điều kiện về biện pháp tạm thời (phải là biện pháp tăng thuế, và nếu kết luận cuối cùng của vụ việc là phủ định thì khoản chênh lệch do tăng thuế phải được hoàn trả lại cho bên đã nộp; không được kéo dài quá 200 ngày…)

Trên thực tế, một vụ điều tra áp dụng biện pháp tự vệ thường đi theo trình tự sau đây:

1. Đơn yêu cầu áp dụng biện pháp tự vệ của ngành sản xuất nội địa nước nhập khẩu;

2. Khởi xướng điều tra;

3. Điều tra và công bố kết quả điều tra về các yếu tố tình hình nhập khẩu; tình hình thiệt hại; mối quan hệ giữa việc nhập khẩu và thiệt hại;

4. Ra Quyết định áp dụng hoặc không áp dụng biện pháp tự vệ

Biện Pháp Tự Vệ Trong Thương Mại Quốc Tế

Biện pháp tự vệ trong thương mại quốc tế là việc tạm thời hạn chế nhập khẩu đối với một hoặc một số hàng hoá khi việc nhập khẩu chúng tăng nhanh gây ra hoặc đe doạ gây ra thiệt hại nghiêm trọng cho ngành sản xuất trong nước. Biện pháp tự vệ chỉ được áp dụng đối với hàng hoá, không được áp dụng đối với dịch vụ, đầu tư hay sở hữu trí tuệ. Mỗi nước nhập khẩu là thành viên của WTO đều có quyền áp dụng biện pháp tự vệ, nhưng khi áp dụng thì họ phải đảm bảo tuân theo các quy định của WTO về điều kiện, thủ tục, cách thức áp dụng biện pháp tự vệ. Chính vì vậy, các doanh nghiệp cần chú ý đến biện pháp này để yêu cầu Chính phủ sử dụng nhằm bảo vệ lợi ích của mình trước hàng hoá nhập khẩu của nước ngoài khi cần thiết.

2. Tại sao biện pháp tự vệ được thừa nhận trọng WTO?

Biện pháp tự vệ trong thương mại quốc tế được sử dụng để “đối phó” với hành vi thương mại hoàn toàn bình thường (không có hành vi vi phạm pháp luật hay cạnh tranh không lành mạnh) nên về hình thức, các biện pháp tự vệ được coi là đi ngược lại chính sách tự do hoá thương mại của WTO. Tuy vậy, đây là biện pháp được thừa nhận trong khuôn khổ WTO với các điều kiện chặt chẽ để tránh bị lạm dụng. Lý do là trong hoàn cảnh buộc phải mở cửa thị trường và tự do hoá thương mại theo các cam kết WTO, các biện pháp tự vệ chính là “van an toàn” mà hầu hết các nước nhập khẩu là thành viên WTO đều mong muốn thực hiện khi thấy cần thiết. Với chiếc van này, nước nhập khẩu có thể ngăn chặn tạm thời luồng nhập khẩu hàng hoá để giúp ngành sản xuất nội địa của mình tránh những đổ vỡ trong một số trường hợp khó khăn.

3. Điều kiện để áp dụng biện pháp tự vệ

Một nước nhập khẩu chỉ có thể áp dụng biện pháp tự vệ sau khi đã tiến hành điều tra và chứng minh được sự tồn tại đồng thời các điều kiện sau:

Như vậy, khi nào hàng hoá nhập khẩu được coi là tăng đột biến đến mức có thể áp dụng biện pháp tự vệ? Đây là một câu hỏi đặt ra đầu tiên đối với nước nhập khẩu trước khi quyết định có áp dụng biện pháp tự vệ hay không đối với một mặt hàng nhất định. Để áp dụng biện pháp tự vệ, sự gia tăng về số lượng của hàng hoá phải đáp ứng các điều kiện sau:

– Sự gia tăng này là gia tăng tuyệt đối (ví dụ, số lượng hàng hoá nhập khẩu tăng gấp 2, 3 lần) hoặc tương đối so với sản xuất trong nước (ví dụ, lượng hàng nhập khẩu dường như không tăng, nhưng cùng thời điểm đó lượng hàng sản xuất trong nước lại giảm mạnh).

– Sự gia tăng về số lượng phải mang tính đột biến (diễn ra đột ngột, nhanh và tức thời).

Cũng cần lưu ý ở đây rằng, theo các điều kiện chung thì sự gia tăng nhập khẩu này phải thuộc diện không dự đoán được vào thời điểm nước nhập khẩu đàm phán tham gia Hiệp định về áp dụng biện pháp tự vệ.

Tuy nhiên, cần lưu ý là sự gia tăng về giá trị nhập khẩu không phải là yếu tố bắt buộc để điều tra trong vụ việc tự vệ (ví như Vụ Giầy dép của Achentina). Sự gia tăng lượng nhập khẩu cần được xem xét theo diễn tiến trong suốt quá trình điều tra chứ không chỉ đơn thuần là so sánh lượng nhập khẩu thời điểm đầu và cuối của cuộc điều tra; sự thay đổi về xu hướng thời trang và ảnh hưởng của nó đến cạnh tranh được xem là việc không thể dự đoán trước bởi các nhà đàm phán (vụ Mũ lông – Hoa Kỳ).

b. Ngành sản xuất sản phẩm tương tự hoặc cạnh tranh trực tiếp với hàng hoá đó bị thiệt hại hoặc đe doạ thiệt hại nghiêm trọng

c. Có mối quan hệ nhân quả giữa hiện tượng nhập khẩu tăng đột biến và thiệt hại hoặc đe doạ thiệt hại gây ra nói trên.

– Hai loại sản phẩm có tác động khác nhau đến sức khoẻ con người khó có thể coi là sản phẩm tương tự (vụ các quy định đối với chất Amiăng và sản phẩm có chứa Amiăng – EC).

– Những sản phẩm có dây chuyền sản xuất tương tự nhau hoặc được sản xuất bởi các chủ thể có cùng lợi ích kinh tế không nhất thiết là sản phẩm tương tự (vụ Đèn của Hoa Kỳ)

4. Trình tự, thủ tục áp dụng biện pháp tự vệ

Khác với các vụ kiện chống bán phá giá hay chống trợ cấp, WTO không có nhiều quy định chi tiết về trình tự, thủ tục kiện áp dụng biện pháp tự vệ. Tuy nhiên, Hiệp định về biện pháp tự vệ của WTO có đưa ra một số nguyên tắc cơ bản mà các nước thành viên phải tuân thủ như:

Thứ nhất, đảm bảo tính minh bạch (Quyết định khởi xướng vụ điều tra tự vệ phải được thông báo công khai; Báo cáo kết luận điều tra phải được công khai vào cuối cuộc điều tra…

Thứ ba, phải đảm bảo bí mật thông tin, đối với thông tin có bản chất là mật hoặc được các bên trình với tính chất là thông tin mật không thể được công khai nếu không có sự đồng ý của bên đã trình thông tin.

Thứ tư, các điều kiện về biện pháp tạm thời phải là biện pháp tăng thuế và nếu kết luận cuối cùng của vụ việc là phủ định thì khoản chênh lệch do tăng thuế phải được hoàn trả lại cho bên đã nộp; không được kéo dài quá 200 ngày… Trên thực tế, một vụ điều tra áp dụng biện pháp tự vệ thường theo trình tự sau đây:

Bước 1: Đơn yêu cầu áp dụng biện pháp tự vệ của ngành sản xuất nội địa nước nhập khẩu.

Bước 2: Khởi xướng vụ điều tra

Bước 3: Điều tra và công bố kết quả điều tra về các yếu tố như: tình hình nhập khẩu; tình hình thiệt hại; mối quan hệ giữa việc nhập khẩu và thiệt hại.

Bước 4: Ra quyết định áp dụng hoặc không áp dụng biện pháp tự vệ.

b. Thi hành quyết định áp dụng hoặc không áp dụng biện pháp tự vệ

– Khi kết quả điều tra cho phép nước nhập khẩu được áp dụng biện pháp tự vệ thì nước nhập khẩu sẽ chính thức được áp dụng biện pháp tự vệ. Các biện pháp tự vệ này phải thoả mãn các điều kiện sau đây:

+ Về mức độ tự vệ, các nước chỉ có thể áp dụng biện pháp tự vệ ở mức cần thiết đủ để ngăn chặn hoặc bù đắp các thiệt hại và tạo điều kiện để ngành sản xuất nội địa điều chỉnh. Nước nhập khẩu không nhất thiết phải có giải trình cụ thể và rõ ràng về việc tại sao biện pháp tự vệ đó được lựa chọn (về phạm vi, loại, mức độ) là cần thiết để ngăn chặn hoặc bù đắp các thiệt hại để ngành sản xuất nội địa tự điều chỉnh. Trường hợp một biện pháp tự vệ được áp dụng mà không tuân thủ các ba điều kiện về hình thức tự vệ, mức độ tự vệ và thời gian tự vệ sẽ đương nhiên bị coi là “vượt quá mức cần thiết”.

5. Những vấn đề doanh nghiệp Việt Nam cần lưu ý khi đối phó với các biện pháp tự vệ ở nước ngoài

Trong trường hợp doanh nghiệp xuất khẩu gặp phải sự đối phó của phía nước ngoài bằng biện pháp tự vệ thì các doanh nghiệp cần phải:

Thứ nhất, cần phải có hiểu biết chung về biện pháp tự vệ là gì. Cần phải nhận biết về sự tồn tại của nguy cơ bị kiện tại các thị trường xuất khẩu và cơ chế vận hành của chúng, nhóm thị trường và mặt hàng thường bị kiện.

Thứ hai, cần phải xây dựng chiến lược trong kinh doanh một cách cụ thể và bài bản. Cần phải tính đến khả năng bị kiện khi xây dựng chiến lược xuất khẩu hàng hoá của mình để có kế hoạch chủ động phòng ngừa và xử lý khi không phòng ngừa được, ví dụ đa dạng hoá thị trường xuất khẩu, tránh phát triển quá nóng một thị trường, tăng cường cạnh tranh bằng chất lượng, tiến tới giảm dần cạnh tranh bằng giá rẻ…

Thứ ba, tích cực hợp tác khi vụ kiện xảy ra. Phối hợp, liên kết với các doanh nghiệp có cùng mặt hàng xuất khẩu để có chương trình, kế hoạch đối phó chung đối với các vụ kiện có thể xảy ra; sử dụng các chuyên gia tư vấn và luật sư trong những tình huống cần thiết và thích hợp; giữ liên hệ với cơ quan quản lý nhà nước về thương mại để các cơ quan này có tiếng nói bảo vệ quyền lợi tốt hơn cho doanh nghiệp, kể cả việc đàm phán các hiệp định có cam kết không áp dụng hoặc hạn chế áp dụng biện pháp tự vệ đối với hàng hoá của nhau, bày tỏ quan điểm đối với các nước áp dụng biện pháp tự vệ đối với hàng hoá của Việt Nam, yêu cầu có bồi thường quyền lợi thương mại khi có việc nước khác áp dụng biện pháp tự vệ./.

Biện Pháp Phòng Vệ Thương Mại: Công Cụ Hiệu Quả Giảm Áp Lực Hàng Nhập Khẩu

02/06/2016

Ngày 2/6/2016, tại Hà Nội, Cục Quản lý Cạnh tranh (Bộ Công Thương) phối hợp với Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) tổ chức “Hội nghị Tổng kết thực thi pháp luật phòng vệ thương mại và đề xuất giải pháp” nhằm mang lại góc nhìn đa chiều về công tác thực thi pháp luật phòng vệ thương mại từ cả góc độ doanh nghiệp, hiệp hội; những bài học kinh nghiệm từ các nước trên thế giới; từ đó xác định những bất cập trong các quy định của pháp luật để đề xuất giải pháp hoàn thiện và sử dụng hiểu quả các biện pháp này tại Việt Nam.

Bảo vệ sản xuất trong nước chống lại cạnh tranh từ hàng hóa nước ngoài

Phát biểu khai mạc Hội nghị, ông Nguyễn Phương Nam, Phó Cục trưởng, Cục Quản lý cạnh tranh, Bộ Công Thương chia sẻ, trong bối cảnh xu thể hội nhập quốc tế về kinh tế đã tác động sâu sắc tới tất cả các nước, từ phát triển tới đang phát triển, không phân biệt chế độ chính trị hay tôn giáo. Từ đó, sự tồn tại và phát triển của các nước được đặt trong bối cảnh lệ thuộc lẫn nhau nhiều hơn, thể hiện rõ nét qua những mối quan hệ song phương và đa phương phức tạp. Việt Nam đã sớm nhìn nhận hội nhập quốc tế về kinh tế là sự nghiệp quan trọng của đất nước. Việt Nam là thành viên chính thức của nhiều thiết chế thương mại khu vực và thế giới. Điều này đồng nghĩa với việc chúng ta đã sẵn sang chấp nhận một “sân chơi” và “luật chơi” chung, bình đẳng với mọi nước khác. Thực tiễn này đặt ra nhiều thách thức mới đòi hỏi phải được giải quyết một cách hợp lý để hài hòa, tránh xung đột giữa các lợi ích, trong đó đặt ra vấn đề giải quyết mẫu thuẫn giữa hội nhập kinh tế quốc tế và bảo vệ lợi ích sản xuất trong nước. Ông Nguyễn Phương Nam chia sẻ, rõ ràng, hội nhập quốc tế càng càng sâu và rộng thì biên giới địa lý càng mờ đi một cách tương đối và thị trường càng mở rõ một cách tuyệt đối. Điều này được lịch sử Việt Nam ghi nhận rất rõ ràng khi soi chiếu vào thời điểm đầy khó khăn và thử thách trong thập kỷ 80 của thế kỷ trước, khi chúng ta mạnh mẽ chuyển mình thoát khỏi tư duy đối ngoại vốn bó hẹp trong các khuôn mẫu cũ để đưa Việt Nam hòa nhập vào một thế giới đầy sôi động. Về kinh tế, thị trường mở cửa không giới hạn ở bất kỳ nước, vùng lãnh thổ nào, miễn rằng ở đó có nhu cầu về sản phẩm.

Ông Nguyễn Phương Nam, Phó Cục trưởng, Cục Quản lý cạnh tranh, Bộ Công Thương phát biểu tại Hội nghị

Tiếp đó, hội nhập kinh tế quốc tế dẫn tới giảm dần và dỡ bỏ các hàng rào thuế quan. Các nước trên bàn đàm phán đa phương đều được thúc giục loại bỏ bảo hộ sản xuất trong nước bằng cách giảm thuế nhập khẩu. Đối với các rào cản phi thuế quan, bao gồm cả các rào cản có tính chất hành chính như hạn ngạch, giấy phép, hạn chế xuất khẩu tự nguyện và quy định bắt buộc về tỷ lệ nội địa hóa để được tiêu thụ trong nước. Các nước thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) cũng không được áp dụng biện pháp cấm nhập trừ trường hợp những hàng hóa ảnh hưởng nghiêm trọng đến an ninh, quốc phòng và đời sống con người.

Mặc dù thúc đẩy tự do hóa thương mại là một mục tiêu của hội nhập quốc tế, song WTO cũng thừa nhận rằng, các nước thành viên có thể sẽ phải bảo vệ sản xuất trong nước chống lại cạnh tranh từ hàng hóa nước ngoài. Tuy vậy, WTO yêu cầu các nước phải tiến hành sự bảo vệ đó thông qua quy trình điều tra nghiêm ngặt, đảm bảo duy trì những nguyễn tắc nhất định để tránh việc lạm dụng. Bảo vệ sản xuất nội địa phù hợp với nguyên tắc của WTO là những trường hợp áp dụng biện pháp phòng vệ thương mại (bao gồm chống bán phá giá, chống trợ cấp và tự vệ). Kết quả của việc áp dụng các biện pháp này là một hàng rào thuế, hạn ngạch hoặc hạn ngạch thuế quan bổ sung cho mức thuế nhập khẩu hiện hành. Các nước Thành viên của WTO đều nhìn nhận rằng các biện pháp phòng vệ thương mại chính là trụ cột cuối cùng để đảm bảo thương mại công bằng và bảo vệ ngành sản xuất trong nước sản xuất sản phẩm tương tự tồn tại trước những tác động tiêu cực gây ra bởi hàng hóa nhập khẩu.

Nghị quyết số 08/NQ/TW ngày 05 tháng 2 năm 2007 của Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam về một số chủ trương, chính sách lớn để nền kinh tế phát triển nhanh, bền vững khi Việt Nam là thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới có nhận định một trong những thách thức lớn đối với Việt Nam khi phải chịu sức ép cạnh tranh gay gắt hơn trên cả ba cấp độ: sản phẩm, doanh nghiệp và quốc gia. Các sản phẩm và doanh nghiệp của Việt Nam sẽ phải cạnh tranh với các sản phẩm và doanh nghiệp nước ngoài không chỉ trên thị trường thế giới mà ngay trên thị trường trong nước.

Tuy nhiên, dù đã có có đầy đủ chủ trương cũng như hành lang pháp lý của Đảng và Nhà nước, tới tận năm 2009, lần đầu tiên Việt Nam khởi xướng vụ việc tự vệ toàn cầu đối với mặt hàng kính nổi trong xây dựng theo đề nghị của đại diện các nhà sản xuất mặt hàng kính nổi trong nước. Tại kết luận cuối cùng về vụ việc, Cơ quan điều tra đã kết luận rằng ngành sản xuất hàng hóa tương tự trong nước không phải chịu thiệt hại nghiêm trọng do việc nhập khẩu ồ ạt của hàng hóa nhập khẩu bị điều tra gây ra. Do vậy, vụ việc được chấm dứt và không có bất kỳ một biện pháp tự vệ nào được áp dụng đối với hàng hóa nhập khẩu.

Năm 2012, Việt Nam khởi xướng vụ việc tự vệ toàn cầu thứ hai đối với mặt hàng dầu thực vật tinh luyện. Đối với vụ việc này, lần đầu tiên Cơ quan điều tra Việt Nam thực hiện được một cách đầy đủ nhất tất cả các bước, bao gồm cả áp dụng thuế tạm thời lẫn thuế chính thức, bảo vệ thành công ngành sản xuất trong nước còn non trẻ trước thủy triều nhập khẩu của dầu thực vật ngoại. Năm 2013 là mốc thời gian quan trọng đánh dấu sự trưởng thành vượt bậc của Cơ quan điều tra Việt Nam khi lần đầu tiên sau gần 10 năm ban hành pháp luật về chống bán phá giá, một vụ điều tra chống bán phá giá được khởi xướng và tiến hành đầy đủ các quá trình trong suốt 12 tháng. Hàng hóa bị điều tra trong vụ việc này là thép không gỉ cán nguội nhập khẩu từ Trung Quốc, Đài Loan, Malaysia và Indonesia. Tới tháng 9/2014, Bộ Công Thương đã ban hành kết luận cuối cùng về hành vi bán phá giá của các doanh nghiệp sản xuất, xuất khẩu nước ngoài đồng thời quyết định áp dụng thuế chống bán phá giá để triệt tiêu hệ quả mà hành vi bán phá giá gây ra.

Tháng 9/2015, Cơ quan điều tra tiếp tục nhận được yêu cầu và tiến hành điều tra áp dụng biện pháp tự vệ đối với một số sản phẩm bột ngọt nhập khẩu. Tới tháng 3/2016, Bộ Công Thương ra quyết định áp dụng thuế tự vệ ở phạm vi toàn cầu với sản phẩm này. Tháng 12/2015, Cơ quan điều tra tiếp nhận và điều tra áp dụng biện pháp tự vệ đối với một số sản phẩm phôi thép và thép dài nhập khẩu. Kết luận cuối cùng trong vụ việc được dự kiến ban hành vào cuối 6/2016. Tháng 3/2016, Bộ Công Thương ban hành quyết định điều tra chống bán phá giá đối với một số sản phẩm tôn mạ từ Trung Quốc và Hàn Quốc. Vụ việc này đang được tiến hành theo các thủ tục và trình tự phù hợp với pháp luật Việt Nam và WTO.

Số lượng yêu cầu của các nhà sản xuất trong nước gia tăng nhanh chóng cho thấy việc sử dụng các công cụ pháp lý là cần thiết và phù hợp với nhằm bảo vệ sản phẩm, doanh nghiệp Việt Nam ngay trên thị trường trong nước trước những hành vi cạnh tranh không công bằng của doanh nghiệp nước ngoài; đồng thời thể hiện rõ rệt vai trò bảo vệ sự hình thành và tồn tại của các ngành sản xuất còn non trẻ của Việt Nam, là nội dung quan trọng đảm bảo cho hội nhập kinh tế quốc tế thành công.

Giảm áp lực hàng nhập khẩu

Bà Phạm Châu Giang, Trưởng phòng điều tra, Cục Quản lý cạnh tranh, Bộ Công Thương phát biểu tại Hội nghị

Báo cáo tổng kết thực thi ba Pháp lệnh về tự vệ, chống bán phá giá, và chống trợ cấp từ góc độ quản lý Nhà nước, bà Phạm Châu Giang, Trưởng phòng điều tra, Cục Quản lý cạnh tranh, Bộ Công Thương cho biết, sau hơn 10 năm ban hành pháp luật Việt Nam về các biện pháp phòng vệ thương mại, Việt Nam đã tiến hành điều tra và áp dụng 4 vụ việc Tự vệ và 2 vụ việc Chống bán phá giá. Nếu nhìn vào con số trên, đặc biệt là trong tương quan với số lượng rất lớn các vụ việc được tiến hành trên thế giới (311 vụ Tự vệ, 4757 vụ Chống bán phá giá và 380 vụ Chống trợ cấp), có thể thấy Việt Nam đã sử dụng rất ít các biện pháp phòng vệ thương mại. Tuy nhiên, mặc dù pháp luật đã được xây dựng hơn 10 năm nhưng các biện pháp này chỉ mới bắt đầu thực sự được sử dụng trong khoảng 5 năm trở lại đây. Thực tiễn này đánh dấu sự trưởng thành của các cơ quan điều tra cũng như thái độ mạnh dạn và tích cực của các doanh nghiệp đối với việc sử dụng các công cụ phòng vệ thương mại để bảo vệ ngành sản xuất trong nước trước những tác động tiêu cực của hàng hóa nhập khẩu. Về tỷ lệ các biện pháp phòng vệ thương mại được điều tra, áp dụng tại Việt Nam, số vụ việc điều tra áp dụng tự vệ chiếm đa số (4/6 vụ việc). Trong khi đó, trong suốt 14 năm, Bộ Công Thương chưa tiến hành điều tra áp dụng biện pháp chống trợ cấp nào.

Để nâng cao hiệu lực biện pháp phòng vệ thương mại, bà Phạm Châu Giang cũng cho biết thêm, hiện nay trên thế giới, các biện pháp phòng vệ thương mại đựợc xem là công cụ hiệu quả nhằm giảm áp lực hàng nhập khẩu đối với các ngành sản xuất trong nước. Đặc biệt, đối với các quốc gia đang phát triển như Việt Nam, việc sử dụng các biện pháp phòng vệ thương mại sẽ kéo dài thời gian cắt giảm thuế, tạo cơ hội cho các ngành sản xuất trong nước trưởng thành, đủ sức cạnh tranh với hàng hóa quốc tế. Nắm bắt được xu hướng này, các doanh nghiệp Việt Nam trong những năm gần đây cũng đã mạnh dạn nộp đơn yêu cầu áp dụng các biện pháp này và tích cực, chủ động phối hợp với cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong quá trình điều tra.

Cùng với ý kiến trên, ông Phạm Tất Thắng, nghiên cứu viên cao cấp, nguyên Giám đốc Trung tâm Thông tin Công nghiệp và Thương mại, Bộ Công Thương cho rằng, Việt Nam cần phải chuẩn bị sẵn sàng về mặt pháp lý và nguồn lực cần thiết để ứng phó kịp thời khi cần phải áp dụng 3 biện pháp phòng vệ thương mại mà các quốc gia đang áp dụng phổ biến. Cùng với đó, việc tính toán biên độ bán phá giá, cơ quan điều tra cũng phải xác định mức độ thiệt hại của các ngành sản xuất theo tiêu chí cụ thể. Cũng theo ông Phạm Tất Thắng, trên thị trường xuất hiện ngày càng nhiều các hành vi gian lận đưa hàng hóa của thương hiệu Việt Nam đã thành danh ra gia công ở nước ngoài và phù phép thành hàng Việt Nam. Vì vậy, rất cần phải chú ý đến hiện tượng này để ngăn chặn các biện pháp phòng vệ thương mại. Đặc biệt, với tiến trình hội nhập, các văn bản pháp luật trong phòng vệ thương mại rất cần được đối chiếu rà soát sao cho phù hợp với các quy định của luật đầu tư sửa đổi, luật doanh nghiệp sửa đổi, luật thuế xuất nhập khẩu, luật hải quan…, đó là một trong những yêu cầu rất quan trọng trong xây dựng nghị định về phòng vệ thương mại Việt Nam.

Bạn đang đọc nội dung bài viết Áp Dụng Biện Pháp Tự Vệ Trong Phòng Vệ Thương Mại trên website Photomarathonasia.com. Hy vọng một phần nào đó những thông tin mà chúng tôi đã cung cấp là rất hữu ích với bạn. Nếu nội dung bài viết hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!