Đề Xuất 3/2023 # 4 Giải Pháp Phát Triển Bền Vững Thị Trường Bảo Hiểm Việt Nam # Top 7 Like | Photomarathonasia.com

Đề Xuất 3/2023 # 4 Giải Pháp Phát Triển Bền Vững Thị Trường Bảo Hiểm Việt Nam # Top 7 Like

Cập nhật nội dung chi tiết về 4 Giải Pháp Phát Triển Bền Vững Thị Trường Bảo Hiểm Việt Nam mới nhất trên website Photomarathonasia.com. Hy vọng thông tin trong bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu ngoài mong đợi của bạn, chúng tôi sẽ làm việc thường xuyên để cập nhật nội dung mới nhằm giúp bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.

Tốc độ tăng trưởng doanh thu phí toàn thị trường năm 2017 duy trì trên 20%

Năm 2017, tình hình kinh tế thế giới khởi sắc đã có tác động tích cực đến nền kinh tế trong nước. Trong bối cảnh đó, thị trường bảo hiểm Việt Nam tiếp tục đạt được nhiều kết quả tích cực.

Ước tính cả năm 2017, tốc độ tăng trưởng doanh thu phí của toàn thị trường sẽ được duy trì ở mức trên 20%; Tổng tài sản toàn thị trường được dự báo đạt 301.346 tỷ đồng, tăng 21,96% so với năm 2016; Tổng số tiền đầu tư trở lại nền kinh tế ước đạt 246.173 tỷ đồng, tăng 26,66% so với năm 2016.

Tổng số tiền đầu tư trở lại nền kinh tế từ kênh bảo hiểm trong năm 2017 ước đạt 246.173 tỷ đồng, tăng 26,66% so với năm 2016.

Hoàn thiện chính sách, hỗ trợ doanh nghiệp phát triển

Thị trường bảo hiểm phát triển ổn định trong những năm qua là nhờ khung khổ pháp lý trong lĩnh vực này ngày càng được hoàn thiện, góp phần tạo môi trường kinh doanh minh bạch, bình đẳng, tạo thuận lợi cho sự phát triển của thị trường bảo hiểm, đảm bảo thực hiện các cam kết quốc tế.

Năm 2016, Chính phủ đã ban hành Nghị định 73/2016/NĐ-CP thay thế 4 Nghị định về kinh doanh bảo hiểm, kịp thời tháo gỡ những vướng mắc của doanh nghiệp, tạo hành làng pháp lý đầy đủ, minh bạch, bình đẳng và đồng bộ, đơn giản hóa các điều kiện kinh doanh, thủ tục hành chính, khơi thông nguồn vốn trong lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm, tạo thuận lợi cho sự phát triển của thị trường.

Nhằm thúc đẩy hơn nữa sự phát triển của thị trường bảo hiểm, Bộ Tài chính sẽ trình Chính phủ ban hành các Nghị định về bảo hiểm nông nghiệp, bảo hiểm vi mô, bảo hiểm cháy nổ bắt buộc và Nghị định sửa đổi bổ sung Nghị định số 98/2012/NĐ-CP nhằm tạo hành lang pháp lý hỗ trợ doanh nghiệp bảo hiểm triển khai các sản phẩm mới.

Khẳng định vai trò quan trọng trong nền kinh tế

Khoảng 80% các công trình xây dựng cơ sở hạ tầng, công trình kinh tế lớn của Nhà nước đã và đang được các doanh nghiệp bảo vệ về mặt tài chính. Trong ảnh là Thủy điện Lai Châu. Nguồn: Tuổi trẻ.

Thị trường bảo hiểm Việt Nam ngày càng thể hiện được vai trò, vị trí trong nền kinh tế – xã hội, góp phần thực hiện thành công các giải pháp chủ yếu về chỉ đạo, điều hành thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế của đất nước. Thể hiện cụ thể như:

Một là, thị trường bảo hiểm là công cụ hữu ích bảo vệ tài chính cho các nhà đầu tư. 

Theo thống kê của các doanh nghiệp bảo hiểm, có khoảng 80% các công trình xây dựng cơ sở hạ tầng, công trình kinh tế lớn của Nhà nước đã và đang được các doanh nghiệp bảo vệ về mặt tài chính trong trường hợp xảy ra sự kiện bảo hiểm mà không cần phải sử dụng đến nguồn kinh phí hỗ trợ thiệt hại từ ngân sách nhà nước, góp phần thực hiện chính sách tài khóa.

Hai là, bảo hiểm đã và đang góp phần bổ trợ cho các chính sách an sinh xã hội. 

Hiện nay có gần 10 triệu người tham gia bảo hiểm y tế, sức khỏe (trong đó có 6 triệu người tham gia bảo hiểm nhân thọ, 4 triệu người tham gia bảo hiểm phi nhân thọ); 12 triệu học sinh được bảo hiểm sức khỏe, tai nạn; 18 triệu lượt khách được bảo hiểm hàng không; trên 12 triệu lượt khách được bảo hiểm tai nạn đường sắt; 1.620 triệu lượt khách được bảo hiểm tai nạn hành khách vận chuyển đường bộ.

Ba là, bảo hiểm góp phần thực hiện các chương trình mục tiêu, nhiệm vụ cấp bách của Chính phủ. 

Hiện nay có gần 10 triệu người tham gia bảo hiểm y tế, sức khỏe.

Việc thực hiện thí điểm bảo hiểm nông nghiệp đã được triển khai ở 20 tỉnh, thành phố và thu hút 304.017 hộ nông dân tham gia, được sự hưởng ứng cao của cả người dân và các địa phương, góp phần vào việc thực hiện chính sách tam nông của Đảng và Nhà nước.

Tổng giá trị bảo hiểm của cả chương trình thí điểm là 7.747,9 tỷ đồng, tổng số tiền bồi thường bảo hiểm là 712,9 tỷ đồng.

Bốn là, bảo hiểm là kênh huy động vốn hữu hiệu cho nền kinh tế. 

Tính đến hết năm 2016, tổng nguồn vốn đầu tư trở lại nền kinh tế của các doanh nghiệp bảo hiểm ước đạt 194.374 tỷ đồng, góp phần bổ sung nguồn vốn đầu tư dài hạn ổn định cho nền kinh tế.

Trong đó, tổng số tiền đầu tư của các doanh nghiệp bảo hiểm vào trái phiếu chính phủ ước đạt gần 97.900 tỷ đồng, với 90% là trái phiếu chính phủ dài hạn, góp phần thực hiện thành công các kế hoạch phát hành trái phiếu chính phủ, ổn định kinh tế vĩ mô.

Năm là, thị trường bảo hiểm phát triển đã thúc đẩy hội nhập, hợp tác kinh tế quốc tế. 

Trong các hiệp định tự do hoá thương mại song phương và đa phương, lĩnh vực bảo hiểm luôn cam kết với lộ trình và mức độ mở cửa thị trường cao, tạo điều kiện thúc đẩy hàng hoá Việt Nam thâm nhập vào các thị trường lớn có mức độ bảo hộ cao như Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản…

Đảm bảo thị trường bảo hiểm phát triển bền vững

Sự tăng trưởng kinh tế và các chính sách hỗ trợ phát triển thị trường dịch vụ của Chính phủ trong thời gian sắp tới sẽ góp phần thúc đẩy sự phát triển và hoàn thiện của thị trường bảo hiểm.

Mức độ thâm nhập của bảo hiểm hiện nay mới chỉ đạt 2,44% so với GDP thấp hơn so với mức trung bình của khối ASEAN (3,55%), châu Á (5,37%) và mức trung bình thế giới (6,3%). Đặc biệt, một số lĩnh vực như bảo hiểm thiên tai, bảo hiểm tài sản công, bảo hiểm xuất nhập khẩu, bảo hiểm nhân thọ, bảo hiểm sức khỏe… tiềm năng của thị trường vẫn chưa được khai thác hết.

Bên cạnh những cơ hội, thị trường bảo hiểm cũng phải đối mặt với nhiều thách thức như: Nền kinh tế Việt Nam chưa thực sự ổn định; thảm họa, thiên tai xảy ra với tần suất ngày càng lớn; rủi ro bảo hiểm diễn ra nhiều, khó lường, số lượng ngày càng tăng… gây ra những ảnh hưởng bất lợi cho hoạt động kinh doanh bảo hiểm.

Bảo hiểm đã góp phần tích cực vào sự phát triển bền vững của nền kinh tế – xã hội. Ảnh trong Báo cáo Phát triển Bền vững 2017 của Tập đoàn Bảo Việt.

Những thay đổi của cuộc Cách mạng 4.0 và xu thế hội nhập sâu rộng của kinh tế toàn cầu đòi hỏi các doanh nghiệp phải nâng cao hơn nữa năng lực quản trị, hiệu quả kinh doanh và khả năng tài chính.

Phát huy kết quả đạt được của thị trường bảo hiểm Việt Nam trong những năm qua, để đảm bảo sự phát triển bền vững của thị trường bảo hiểm, thời gian tới cần triển khai đồng bộ các giải pháp sau:

Thứ nhất, hoàn thiện hệ thống pháp luật: Cần nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung Luật Kinh doanh bảo hiểm một cách tổng thể theo hướng hệ thống pháp luật mới sẽ có phạm vi điều chỉnh rộng hơn và đồng bộ hơn hoạt động kinh doanh bảo hiểm trong mối liên kết với các mảng thị trường dịch vụ tài chính, đảm bảo thực hiện có hiệu quả các cam kết quốc tế về dịch vụ bảo hiểm.

Thứ hai, nâng cao hiệu quả hoạt động và năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp bảo hiểm. Xây dựng bộ tiêu chuẩn về đánh giá, xếp loại doanh nghiệp; ban hành các quy định về quản trị rủi ro doanh nghiệp, tiêu chuẩn, vị trí chức danh quản trị điều hành, các yêu cầu đối với hệ thống công nghệ thông tin làm cơ sở để các doanh nghiệp bảo hiểm chuẩn hóa hoạt động, nâng cao khả năng quản trị, điều hành, năng lực tài chính, chất lượng dịch vụ, từ đó nâng cao hiệu quả hoạt động và năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.

Thứ ba, đa dạng và chuyên nghiệp hóa các kênh phân phối bảo hiểm, tăng cường chất lượng và tính chuyên nghiệp của đội ngũ đại lý bảo hiểm, đồng thời phát huy việc áp dụng công nghệ, kỹ thuật số vào việc giới thiệu và bán các sản phẩm bảo hiểm, tăng cường sự minh bạch và khả năng tiếp cận các sản phẩm bảo hiểm của khách hàng.

Thứ tư, đổi mới phương thức quản lý giám sát, tăng cường hiệu quả quản lý nhà nước về kinh doanh bảo hiểm. Công tác quản lý, giám sát cần được đổi mới theo hướng kết hợp linh hoạt giữa quản lý, giám sát từ xa và kiểm tra tại chỗ, tăng cường đối thoại với doanh nghiệp.

Hoạt động quản lý giám sát chuyển dần mô hình sang quản lý giám sát dựa trên cơ sở rủi ro, đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, chuyển các hoạt động quản lý, giám sát từ kiểm tra trước sang kiểm tra sau (hậu kiểm), tăng cường tính chủ động, trách nhiệm của doanh nghiệp trong hoạt động quản trị điều hành, sử dụng và quản lý nguồn vốn, phù hợp với quy mô, phạm vi và đặc thù kinh doanh của từng doanh nghiệp.

Thị Trường Bảo Hiểm Việt Nam Tăng Trưởng Nhanh Và Bền Vững

(TBTCVN) – Báo cáo số liệu từ Cục Quản lý, giám sát bảo hiểm (QLBH) Bộ Tài chính cho thấy, năm 2017,  thị trường BH tiếp tục tăng trưởng khả quan.

Thứ trưởng Bộ Tài chính Trần Xuân Hà (thứ 7 từ phải qua) chụp ảnh lưu niệm với các đại biểu tham dự Hội nghị thường niên thị trường BH năm 2017 Ảnh: H.T

Mặc dù còn nhiều khó khăn, thách thức, nhưng với sự chỉ đạo, điều hành sát sao của Chính phủ, lãnh đạo Bộ Tài chính, sự quyết tâm cao của cơ quan quản lý bảo hiểm (BH) và sự đồng hành của các doanh nghiệp bảo hiểm (DNBH), Hiệp hội Bảo hiểm Việt Nam, thị trường BH tiếp tục tăng trưởng khả quan. Tổng doanh thu toàn thị trường ước đạt 105.611 tỷ đồng, tăng trưởng 21,2% (so với năm 2016).

Tiếp tục đà tăng trưởng nhanh

Nhằm duy trì thị trường BH Việt Nam phát triển an toàn, lành mạnh, tại Hội nghị thường niên thị trường BH năm 2017, Thứ trưởng Bộ Tài chính Trần Xuân Hà đã yêu cầu Cục QLBH, Hiệp hội Bảo hiểm Việt Nam cũng như các DNBH phối hợp tập trung hoàn thiện cơ chế, chính sách; thực hiện tốt công tác quản lý, giám sát; chấn chỉnh những tồn tại được phát hiện trong quá trình thanh tra, kiểm tra; đồng thời tiếp tục triển khai các chương trình mục tiêu như: BH thiên tai, BH nông nghiệp, BH thủy sản, BH vi mô, BH hưu trí…

“Các DNBH cần đổi mới hơn nữa công tác quản trị DN theo hướng chuyên nghiệp, phù hợp với thông lệ quốc tế; quan tâm đến việc đa dạng hóa và phát triển sản phẩm, mở rộng các kênh phân phối như bancassurance, hệ thống đại lý, thương mại điện tử; hợp tác cạnh tranh lành mạnh và tuân thủ pháp luật trong quá trình hoạt động kinh doanh; thực hiện tốt việc chi trả quyền lợi BH cho các tổ chức, cá nhân, các nhà đầu tư không may gặp rủi ro…”, Thứ trưởng nhấn mạnh.

Theo đó, với sự chỉ đạo, điều hành sát sao của lãnh đạo Bộ Tài chính, sự quyết tâm cao của cơ quan quản lý BH và sự đồng hành của các DNBH, Hiệp hội Bảo hiểm Việt Nam, thị trường BH năm 2017 tiếp tục tăng trưởng khả quan. Tổng doanh thu toàn thị trường BH ước đạt 105.611 tỷ đồng, tăng trưởng 21,2%.

Đến nay thị trường đã có 62 DNBH, trong đó có 29 DNBH phi nhân thọ, 18 DNBH nhân thọ, 14 DN môi giới bảo hiểm, 2 doanh nghiệp tái bảo hiểm và 1 chi nhánh DNBH phi nhân thọ nước ngoài. Các DNBH đã tích cực đóng góp vào phát triển kinh tế – xã hội. Cụ thể, năm 2017, tổng số tiền các DNBH đầu tư trở lại nền kinh tế ước đạt 247.801 tỷ đồng, tăng 26,74%. Bên cạnh đó, năng lực tài chính của DNBH ngày càng được tăng cường vững chắc; giá trị tổng tài sản toàn thị trường BH đến hết năm 2017 ước đạt 302.935 tỷ đồng, tăng 23,44%.

Cũng theo Cục QLBH, trong năm 2017, các DNBH đã thực hiện tốt chức năng là tấm lá chắn tài chính cho người tham gia BH trước rủi ro bất ngờ xảy ra. Theo đó, các DNBH đã bồi thường và trả tiền BH ước đạt  29.423 tỷ đồng, tăng 14,92%.

Bên cạnh đó, công tác quản lý, giám sát thị trường cũng được Cục QLBH thực hiện theo phương pháp, cách thức đổi mới và hiệu quả. Công tác thanh kiểm tra DNBH được tăng cường bao gồm cả thanh kiểm tra toàn diện và theo chuyên đề. Qua đó, cơ quan quản lý không chỉ phát hiện, ngăn ngừa các vi phạm mà còn phát hiện bất cập trong cơ chế chính sách để sửa đổi, bổ sung từ đó tạo môi trường pháp lý ngày càng hoàn thiện, góp phần đảm bảo thị trường phát triển lành mạnh, an toàn và hiệu quả. 

Đại biểu và các DNBH dự Hội nghị thường niên thị trường BH năm 2017 Ảnh: H.T

Đặc biệt, hệ thống khung khổ pháp luật trong lĩnh vực kinh doanh BH tiếp tục được hoàn thiện. Trong năm 2017, Bộ Tài chính đã trình Chính phủ ban hành các nghị định về BH nông nghiệp, Nghị định thay thế Nghị định số 130/2006/NĐ-CP về BH cháy nổ bắt buộc; ban hành Thông tư số 50/2017/TT-BTC hướng dẫn Nghị định 73/2016/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành Luật Kinh doanh BH; sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 98/2012/NĐ-CP về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực kinh doanh BH, kinh doanh xổ số… 

Các văn bản mới được ban hành đã tạo cơ sở pháp lý đồng bộ hỗ trợ DNBH triển khai áp dụng quy định pháp luật, tháo gỡ vướng mắc, hỗ trợ DNBH triển khai các sản phẩm mới, nâng cao năng lực nhận BH…, thúc đẩy DNBH phát triển bền vững.

Theo lãnh đạo Cục QLBH, những kết quả đạt được trong năm 2017 đã và đang tạo đà để thị trường BH có những bước phát triển mạnh mẽ trong giai đoạn tiếp theo. 

Mở rộng thị trường năm 2018

Để đảm bảo thị trường BH tiếp tục phát triển bền vững trong năm 2018 và những năm tiếp theo, đại diện Cục QLBH cho biết, sẽ tập trung thực hiện một số giải pháp thúc đẩy thị trường BH phát triển; trong đó tiếp tục tập trung hoàn thiện hệ thống pháp luật như: Trình Chính phủ ban hành nghị định về BH vi mô do các tổ chức chính trị, xã hội triển khai. Đồng thời, Bộ Tài chính tổng kết, đánh giá để trình Chính phủ sửa đổi, bổ sung Nghị định số 103/2008/NĐ – CP  và Nghị định số 214/2013/NĐ-CP về BH bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới.

Các chính sách mới cũng đồng thời khuyến khích, hỗ trợ các DNBH phát triển và đa dạng hóa sản phẩm BH; đa dạng và chuyên nghiệp hóa các kênh phân phối BH. Bên cạnh đó, cơ quan QLBH sẽ nghiên cứu, ban hành hướng dẫn đối với các hoạt động giao dịch điện tử trong lĩnh vực BH, tạo hành lang pháp lý cho các DNBH triển khai các kênh phân phối mới…

Chủ tịch Hiệp hội Bảo hiểm Việt Nam Phan Kim Bằng chia sẻ: Nhu cầu về BH của người dân đang tiếp tục tăng. Nhận thức của người dân và các tổ chức kinh tế về vai trò của BH tiếp tục được nâng cao. Bên cạnh đó, việc cơ quan quản lý nỗ lực ban hành những chính sách mới của Nhà nước về BH, những sửa đổi về chủ trương, quy định pháp luật trong nghị định về BH nông nghiệp; nghị định về BH cháy nổ bắt buộc… sẽ hỗ trợ, tạo điều kiện để thị trường BH tiếp tục phát triển bền vững, duy trì tốc độ tăng trưởng cao trong năm 2018.

Đại diện Cục QLBH cho biết, với những nỗ lực của cơ quan quản lý và của DNBH trong năm 2018, sẽ giúp thị trường thu hút được nhiều hơn nữa các nhà đầu tư có uy tín, đồng thời thị trường sẽ tiếp tục tăng trưởng hiệu quả, bền vững, đóng góp vào sự phát triển chung của nền kinh tế. Dự kiến thị trường BH tiếp tục duy trì tốc độ tăng trưởng trên 20%. 

Đặng Hương

Nguồn: Thời báo tài chính Việt Nam

Những Giải Pháp Để Các Đô Thị Việt Nam Phát Triển Bền Vững

Các vấn đề hiện tại của quá trình đô thị hóa cũng như các thách thức tương lai ở Việt Nam đang đòi hỏi những giải pháp phù hợp với đặc thù của đất nước.

Cách đây 11 năm, bắt đầu từ năm 2008, ngày 8/11 hằng năm được lấy làm ngày đô thị Việt Nam nhằm đẩy mạnh tiến trình đô thị hóa tích cực và tăng cường nhận thức của cộng đồng trong việc xây dựng các khu đô thị văn minh, hiện đại.

Từ vết thương chiến tranh đến những thành phố mang hơi thở thời đại

Sau hiệp định Geneva năm 1954, đất nước ta bị chia cắt làm 2 miền Nam-Bắc. 9 năm kháng chiến, miền Bắc bị tàn phá nặng nề. Nhiệm vụ cấp bách là khẩn trương khôi phục kinh tế, hàn gắn vết thương chiến tranh, hoàn thành nhiệm vụ còn lại của cách mạng dân tộc dân chủ.

Năm 1956, Phòng đô thị thuộc Nha Kiến trúc được thành lập, tiền thân của Viện Quy hoạch Đô thị và Nông thôn quốc gia hiện nay. Để rồi từ đó, các thành phố công nghiệp như Hải Phòng, Nam Định, Việt Trì, Thái Nguyên lần lượt được khôi phục với quy mô trung bình và nhỏ, tạo nên dấu ấn cho mới cho đô thị Việt Nam hiện đại. Trong khi ở miền Nam, Sài Gòn vẫn là đô thị chính, một số thành phố lớn và các khu vực có mục tiêu quân sự cũng được đầu tư phát triển.

Trong khi nhân dân ta đang nỗ lực xây dựng lại các vùng kinh tế, đế quốc Mỹ tiến hành chiến tranh phá hoại miền Bắc và điên cuồng đàn áp nhân dân miền Nam. Với dã tâm “đưa miền Bắc trở về thời kỳ đồ đá,” cuộc chiến kéo dài 20 năm đã tàn phá cơ sở vật chất hạ tầng ở cả miền Bắc lẫn miền Nam, khiến nỗ lực khôi phục kinh tế của ta càng thêm khó khăn chồng chất.

Đất nước thống nhất, nhân dân Việt Nam nhanh chóng bắt tay vào công cuộc phục hồi, xây dựng đất nước. Trong 10 năm đầu, tốc độ đô thị hóa vẫn diễn ra chậm do hậu quả chiến tranh và chính sách kinh tế chưa phù hợp.

Chính sách Đổi mới năm 1986 đã tác động mạnh mẽ đến bộ mặt xã hội cũng như tăng trưởng kinh tế của Việt Nam, tạo động lực hình thành và phát triển nhiều đô thị mới ở các miền Tổ quốc.

Vào đầu những năm 1990, Việt Nam đã có khoảng 500 đô thị với tỷ lệ đô thị hóa khoảng 18%. Đây là tiền đề quan trọng để chúng ta có bước tăng trưởng thực sự trong giai đoạn tiếp theo.

Từ sau năm 1999 đến nay, hệ thống đô thị Việt Nam có nhiều chuyển biến tích cực về cả lượng và chất. Nếu như năm 1999, cả nước có 629 đô thị thì tính đến năm 2019, cả nước có 833 đô thị, trong đó có 2 đô thị loại đặc biệt là Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh. Còn lại là các đô thị loại 1 đến 5.

Đô thị hóa tăng nhanh ở khu vực các đô thị lớn, lan tỏa và phân bố đồng đều hơn trên phạm vi cả nước. Nhiều đô thị được cải tạo, nâng cấp, phát triển mở rộng, đầu tư xây dựng hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội, khẳng định vai trò là động lực tăng trưởng kinh tế và phát triển của các vùng và trên cả nước.

Từ một quốc gia chịu nhiều ảnh hưởng của chiến tranh, thiên tai với hơn 80% dân số sản xuất nông nghiệp và công nghiệp kém phát triển, đến nay hệ thống các đô thị trong nước đã và đang trên đà phát triển mạnh mẽ.

Bộ mặt đô thị ngày càng khang trang, hiện đại. Nhiều khu đô thị mới, khu nhà ở có chất lượng cùng các công trình mang tầm vóc khu vực và quốc tế đã ra đời. Đô thị Việt Nam không chỉ làm thay đổi bộ mặt đời sống nhân dân, mà còn gắn kết với tăng trưởng kinh tế.

Khu vực đô thị hằng năm đóng góp khoảng 70% GDP của đất nước, là đầu tàu trong sản xuất giá trị công nghiệp, xuất nhập khẩu cũng như các tiến bộ khoa học công nghệ, từng bước thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hóa-hiện đại hóa đất nước.

Các đô thị Việt Nam còn là điểm đến sáng giá trong việc giữ gìn và quảng bá không gian đô thị truyền thống, với những nét văn hóa đặc trưng của một quốc gia có bề dày lịch sử.

Đến với thủ đô Hà Nội hay phổ cổ Hội An, không ai có thể kìm lòng mà say mê những nét kiến trúc cổ kính đặc trưng, những sinh hoạt văn hóa, ẩm thực, được lưu giữ nguyên vẹn nhất trong không gian đô thị đã luôn tấp nập từ hàng trăm năm trước.

Đảm bảo sự hòa quyện giữa truyền thống và đổi mới, giữa cổ kính và hiện đại càng làm tăng sức hấp dẫn của đô thị Việt Nam, nhưng cũng đặt ra cho các nhà quy hoạch đô thị nhiệm vụ không hề dễ dàng.

Hiện nay, hệ thống đô thị Việt Nam phát triển chưa tương xứng giữa số lượng, quy mô với chất lượng. Nhiều đồ án quy hoạch có tầm nhìn và giải pháp chưa phù hợp. Năng lực quản lý chưa theo kịp với thực tế phát triển.

Hạ tầng đô thị chưa đáp ứng yêu cầu của người dân. Hầu hết các đô thị lớn, đặc biệt là Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh thường xuyên xảy ra tình trạng ùn tắc giao thông, ngập nước, ô nhiễm môi trường.

Định hướng phát triển đô thị tăng trưởng xanh

Hiện có 2 khái niệm là đô thị xanh và đô thị tăng trưởng xanh. Đô thị xanh nhấn mạnh sự quan tâm đến tác động của đô thị tới môi trường. Còn đô thị tăng trưởng xanh theo định nghĩa của Tổ chức Hợp tác kinh tế và phát triển (OECD) là đô thị tạo ra sự tăng trưởng và phát triển kinh tế thông qua các chính sách và hoạt động đô thị làm giảm những tác động bất lợi đối với môi trường cũng như tác động đối với các nguồn tài nguyên thiên nhiên…

Vấn đề phát triển đô thị tăng trưởng xanh được chú trọng với sự quan tâm đến việc tăng trưởng của đô thị có bền vững và giảm thiểu tác động đến môi trường. Tuy nhiên, những mô hình phát triển kinh tế mà phải đánh đổi bằng việc hy sinh tài nguyên môi trường thì đó không phải là tăng trưởng xanh.

Tại các địa phương, đặc biệt là những đô thị lớn như Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Cần Thơ, Đà Nẵng, Hải Phòng… đã quan tâm đến vấn đề chuyển đổi mô hình tăng trưởng đô thị theo định hướng tăng trưởng xanh. Một số đô thị đã ban hành Chiến lược tăng trưởng xanh và thích ứng biến đổi khí hậu như Hải Phòng, Cần Thơ…

Các đô thị khác như: Đà Nẵng, Bắc Ninh, Tam Kỳ (Quảng Nam)… cũng nghiên cứu xây dựng đô thị tăng trưởng xanh.

Các chuyên gia cho rằng doanh nghiệp, nhà đầu tư cần nghiên cứu, sản xuất và đưa ra thị trường những sản phẩm, dịch vụ, công nghệ, vật liệu xanh, thân thiện với môi trường.

Chính người dân có thể tham gia vào phát triển đô thị tăng trưởng xanh từ những việc rất nhỏ như thay đổi thói quen, lối sống, thay túi nylon bằng túi giấy, thay cốc nhựa bằng cốc giấy, sử dụng tiết kiệm điện, nước… Mỗi bên tham gia đều có vai trò riêng trong việc chuyển đổi định hướng phát triển đô thị tăng trưởng xanh.

Có thể nói, là một nước đang phát triển, nhiều hạ tầng đô thị của Việt Nam còn chưa đáp ứng được nhu cầu của người dân. Tuy nhiên, vẫn có không ít những công trình kiến trúc hiện đại và hài hòa với truyền thống, đã và đang tạo động lực cho Việt Nam vươn lên, trở thành điểm sáng phát triển trong khu vực và không ngừng vươn xa thế giới.

Phát triển đô thị – động lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế

Quá trình đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước luôn gắn liền với quá trình đô thị hóa của Việt Nam. Sau hơn 30 năm đổi mới, quá trình đô thị hóa có thể nhận biết thông qua các giai đoạn phát triển kinh tế-xã hội của đất nước.

Giai đoạn 1986-1997, tốc độ đô thị hóa ở Việt Nam chưa nhanh, tỷ lệ đô thị hóa chỉ đạt khoảng 23% vào năm 1997. Ở giai đoạn 2000-2010, Việt Nam có tốc độ đô thị hóa nhanh hơn.

Năm 1999, Việt Nam có 629 đô thị, đến năm 2010 có 772 đô thị, trong đó có 2 đô thị đặc biệt, 15 đô thị loại I, 14 đô thị loại II, 47 đô thị loại III, 64 đô thị loại IV và 630 đô thị loại V. Nhiều đô thị được mở rộng, các thành phố đang trở nên đông đúc hơn.

Trong giai đoạn 2011-2020, kinh tế Việt Nam tiếp tục tăng trưởng tạo cơ sở cho quá trình đô thị hóa diễn ra mạnh mẽ.

Tính đến tháng 12/2018, tổng số đô thị cả nước là 833 đô thị, tỷ lệ đô thị hóa đạt 38% tăng 0,9% so với năm 2017, đạt xấp xỉ cận dưới của các chỉ tiêu theo Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII. Dự báo năm 2019, tỷ lệ đô thị hóa sẽ đạt đến con số 40%.

Sự gia tăng của quá trình đô thị hóa trong năm 2018 đã giúp cho thị trường bất động sản và vật liệu xây dựng đạt tốc độ tăng trưởng khả quan. Diện tích bình quân nhà ở toàn quốc đạt khoảng 24 m2 sàn/người, tăng 0,6 m2 sàn/người so với năm 2017; tổng sản lượng ximăng tiêu thụ khoảng 95 triệu tấn, tăng 17% so với năm 2017, đạt 113 % kế hoạch năm.

Cùng với đó, hạ tầng đô thị được đầu tư từng bước đồng bộ. Bộ mặt đô thị ngày càng khang trang, hiện đại. Nhiều khu đô thị mới, nhiều khu nhà ở có chất lượng, nhiều công trình tầm vóc khu vực và quốc tế.

Với những kết quả đó, đô thị đã khẳng định là động lực cho phát triển kinh tế-xã hội. Kinh tế đô thị chiếm 70-80% tổng quy mô nền kinh tế. Riêng Thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội, GRDP năm 2018 đạt 2.4 triệu tỷ, chiếm 40% GDP cả nước.

Bên cạnh các thành tựu đã đạt được, quá trình đô thị hóa của Việt Nam vẫn còn một số tồn tại cần được khắc phục, như hệ thống đô thị phát triển chưa tương xứng giữa số lượng, quy mô với chất lượng; nhiều đồ án quy hoạch có tầm nhìn và giải pháp chưa phù hợp; hạ tầng đô thị chưa đáp ứng yêu cầu của người dân; năng lực quản lý chưa theo kịp với thực tế phát triển.

Hầu hết các đô thị lớn trên địa bàn cả nước, đặc biệt là Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh – cùng với lượng dân nhập cư ngày càng cao là tình trạng ùn tắc giao thông, ngập nước, ô nhiễm môi trường.

Để đô thị phát triển bền vững, từng bước nâng cao chất lượng cuộc sống cho người dân, gia tăng tính cạnh tranh của nền kinh tế, Bộ Xây dựng đang thực hiện đồng bộ các giải pháp.

Cụ thể là tổng kết đánh giá việc thực hiện Định hướng Quy hoạch tổng thể phát triển hệ thống đô thị Việt Nam đến năm 2025 và tầm nhìn đến năm 2050, xây dựng Chiến lược phát triển đô thị quốc gia tích hợp các mục tiêu tăng trưởng xanh, phát triển bền vững, nhằm giải quyết các bất cập của thực trạng và ứng phó có hiệu quả với các thách thức trong tương lai.

Nghiên cứu, đề xuất chính sách phát triển đô thị nhằm phát huy lợi thế của những khu vực đô thị có mật độ kinh tế cao như các vùng Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, thành phố Hải Phòng, thành phố Đà Nẵng…

Đồng thời, Bộ tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật về đầu tư xây dựng, bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ, cải cách thủ tục hành chính, đơn giản hóa điều kiện đầu tư kinh doanh, tháo gỡ kịp thời các khó khăn, vướng mắc trong hoạt động đầu tư xây dựng; hoàn thiện và trình ban hành Luật Quản lý phát triển đô thị, Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xây dựng, Luật Nhà ở…

Theo ông Zhiyu Jerry Chen, chuyên gia cao cấp về đô thị, đại diện nhóm nghiên cứu của Ngân hàng thế giới (WB), trong tương lai Việt Nam cần chuyển đổi mô hình đô thị hóa và bắt tay thực hiện một lộ trình hiệu quả, bao trùm và có khả năng chống chịu hơn. Do vậy, đòi hỏi phải chuyển đổi chính sách để tập trung vào “nền kinh tế tích tụ” và “liên kết vùng,” qua đó giải quyết ba nhân tố thể chế quan trọng cho chuyển đổi gồm: phân bổ tài khóa và nguồn lực, đất đai và quy hoạch và dịch chuyển lao động.

Tiến sỹ Vũ Viết Ngoạn, nguyên Tổ trưởng Tổ tư vấn kinh tế của Thủ tướng, cũng chỉ ra một số vấn đề cần lưu ý trong quá trình thực hiện thúc đẩy đô thị hóa.

Ông nhấn mạnh: “Chúng ta không được nhầm lẫn rằng phát triển, mở rộng đô thị sẽ phát triển kinh tế vì phát triển kinh tế và đô thị phải luôn song hành với nhau. Phải định dạng vấn đề này trong chiến lược phát triển kinh tế-xã hội của Việt Nam và có giải pháp để giảm bớt chênh lệch giữa các vùng trong phát triển kinh tế. Đồng thời phải làm rõ mối quan hệ phát triển công nghiệp giữa các vùng khác nhau.”

Các vấn đề hiện tại của quá trình đô thị hóa cũng như các thách thức tương lai ở Việt Nam đang đòi hỏi những giải pháp phù hợp với đặc thù của đất nước.

Giai đoạn từ nay đến khi Việt Nam có tỷ lệ đô thị hóa 50% là giai đoạn hết sức quan trọng. Khi đã có tỷ lệ đô thị hóa đạt từ 50% trở lên đồng nghĩa với việc Việt Nam đã vượt ngưỡng thu nhập trung bình và có điều kiện bứt phá trong phát triển nền kinh tế và chuyển sang giai đoạn mới, có thu nhập cao tương đồng với khu vực. Đây là giai đoạn đòi hỏi cần triển khai đồng bộ các nhóm giải pháp phù hợp, phát huy sức mạnh tổng hợp của các ngành, các cấp, đặc biệt là chính quyền các đô thị, sự tham gia của các tổ chức trong nước và quốc tế, các nhà nghiên cứu và nỗ lực của cộng đồng./.

Theo (Vietnam+)

Link gốc:

Phát Triển Bền Vững Ở Việt Nam

PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG Ở VIỆT NAM

HIỆN TRẠNG, THÁCH THỨC VÀ GIẢI PHÁP

GS.TS. Lê Văn Khoa

TS. Nguyễn Ngọc Sinh

Hội Bảo Vệ Thiên nhiên và Môi trường Việt Nam (VACNE)

                                               

I. PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG (PTBV) LÀ TRUYỀN THỐNG CỦA CÁC DÂN TỘC VIỆT NAM

        Pierre Gourou, nhà địa lý học nổi tiếng trên thế giới, chuyên gia về các vùng nhiệt đới ẩm, đã đề xuất một khái niệm về văn minh của loài người. Ông cho rằng,Việt Nam có truyền thống hàng nhiều thế kỷ về PTBV. Một nền văn hoá có hiệu suất cao về mật độ, không gian và thời gian (Pierre Gourou, 1982).

Pierre Gourou, nhà địa lý học nổi tiếng trên thế giới, chuyên gia về các vùng nhiệt đới ẩm, đã đề xuất một khái niệm về văn minh của loài người. Ông cho rằng,Việt Nam có truyền thống hàng nhiều thế kỷ về PTBV. Một nền văn hoá có hiệu suất cao về mật độ, không gian và thời gian (Pierre Gourou, 1982).

          Với khái niệm này nền văn hoá đồng nghĩa với khả năng duy trì cuộc sống của con người. Sự duy trì này không hoàn toàn phụ thuộc vào tài nguyên thiên nhiên được duy trì. Các châu thổ các sông tại các vùng nhiệt đới khác nhau trên thế giới hầu như có điều kiện đất đai, thuỷ văn, khí hậu tương tự như nhau, nhưng có khả năng duy trì rất khác nhau. Mật độ dân số trung bình của các châu thổ nhiệt đới ở Châu Phi và Nam Mỹ là 14 người/km2, ở Châu Á là 170 người/km2. Tại Đồng Bằng Sông Hồng (ĐBSH), mật độ này là 430 người vào năm 1931; 650 người vào năm 1975 và vào khoảng 1.238 người/km2 hiện nay. ĐBSH rộng 15.000 km2. Khả năng duy trì cuộc sống lâu dài này đã lôi cuốn sự chú ý của nhiều nhà nghiên cứu thuộc các lĩnh vực khoa học khác nhau: địa lý; lịch sử; nhân học; kinh tế… Ở Việt Nam cũng như ở nước ngoài “nền văn hoá sông Hồng“, “nền văn minh lúa nước”, “phương thức sản xuất Châu Á”…là thuật ngữ đã được dùng để chỉ rõ đặc trưng về sử dụng tài nguyên thiên nhiên và mối quan hệ giữa con người với tài nguyên thiên nhiên trên ĐBSH. Đó là do:

          – Người dân đã sử dụng các công nghệ với những đặc điểm tiêu tốn ít năng lượng, sử dụng năng lượng tái tạo của mặt trời, thuỷ lực, gió, thuỷ triều; sử dụng vật liệu tái tạo, tìm được tại chỗ hoặc gần nơi sản xuất; sử dụng, tái chế tất cả các phế thải, phụ phẩm của quá trình sản xuất và tiêu dùng. Trong vườn nhà của người nông dân ĐBSH tài nguyên đất được sử dụng 2-3 vụ mỗi năm, nguồn nước được sử dụng nhiều lần từ dùng để uống, đun nấu, rửa đến tưới vườn, ruộng. Năng lượng mặt trời được dùng để phơi sấy, năng lượng thuỷ triều để tưới tiêu, gió để đẩy thuyền; nhiệt lượng từ không khí để biến thực phẩm qua lên men. Nhiều vật liệu xây dựng lấy từ cây cỏ, tre nứa. Nước bẩn từ nhà bếp, nhà vệ sinh chảy về vườn, ruộng.

          – Sự tạo lập nên những giá trị văn hoá đề cao sự tự tôn trong lao động sản xuất, tiết kiệm trong tiêu thụ và sử dụng tài nguyên, tránh những hành động can thiệp vào cân bằng và hài hoà của thiên nhiên. Trong xã hội truyền thống ở Việt Nam, người có học được đặt vào vị trí cao nhất (nhất sĩ) người nông dân được đặt ở vị trí thứ hai(nhì nông). Kham khổ, tiết chế trong ăn, mặc, ở, được xem là đức tính quan trọng, ăn chay, cấm sát sinh là những tập quán phổ biến trong tín đồ phật giáo.

– Một hệ thống xã hội phát triển tinh thần đoàn kết, tương trợ trong nhân dân, tạo nên khả năng huy động tài sản của cộng đồng hoặc của cá nhân nhằm đảm bảo cho những việc công ích, kể cả việc khai thác tài nguyên thiên nhiên, phòng chống thiên tai và bảo vệ môi trường (BVMT) đang là cơ sở tổ chức xã hội này.

– Từ kinh nghiệm nhiều thế kỷ tại ĐBSH có thể thấy rằng PTBV là có khả năng hiện thực. Tính hiện thực này dựa trên sự tổ hợp của lựa chọn đúng đắn điều kiện thiên nhiên, sử dụng công nghệ “sạch” thích hợp và hình thành một nền văn minh hoá PTBV.

Chiến lược PTBV do IUCN, UNEP, WWWF soạn thảo xác định:

“Đạo đức tạo nên một cơ sở cho PTBV”. Dựa trên nền tảng này, các tổ chức trên đề nghị:

          “Phải đề cao đạo đức của thế giới về PTBV; mở rộng và tăng cường giáo dục môi trường; thừa nhận và cải tiến ý thức tập thể và cộng đồng về PTBV; chấp nhận luật pháp và sáng kiến củng cố các biện pháp PTBV”(IUCN,UNEP, WWF,1989).

          Gần đây, quốc tế lại đánh giá cao về hệ thống lúa nước có tưới và xem là một hệ thống canh tác bền vững nhất do người Việt Nam sáng tạo. Đó là do:

          1. Là một hệ canh tác bền vững, ổn định về năng suất và an toàn để đầu tư thâm canh. Hệ thống tưới tiêu đã nhân tạo hoá một phần điều kiện tự nhiên để canh tác lúa nước.

          2. Hạn chế lũ lụt: đê điều nhằm bảo vệ các cánh đồng lúa khỏi bị ngập lụt, nhưng mặt khác cần thấy tác động ngược lại là chính cánh đồng lúa đã góp phần hạn chế lũ lụt. Có thể xem vai trò các cánh đồng lúa như các hồ chứa nước và BVMT có giá trị tương đương như các hồ chứa nước nhất là các cánh đồng cao, ít bằng phẳng.

          3. Duy trì tài nguyên nước: Các cánh đồng lúa luôn lưu giữ lớp nước trên bề mặt trải rộng trên diện tích lớn của lãnh thổ, nhờ đó đã tác động  tích cực đến chế độ nước ngầm. Nước ngầm được cánh đồng lúa duy trì đã góp phần ổn định lưu lượng các dòng sông mùa cạn và duy trì mực nước ngầm cho các giếng nước sinh hoạt.

          4. Làm trong sạch môi trường (đất và khí quyển) và tạo cảnh quan đẹp cho vùng quê. Các cánh đồng lúa và kể cả cánh đồng màu, các vườn cây đã tiêu thụ, phân giải các rác thải góp phần giảm thiểu ô nhiễm đất. Đối với việc làm sạch không khí ngoài chức năng điều tiết khí CO2, các cánh đồng lúa còn hấp thu các khí độc như SO2 và NO2. Các hệ thống canh tác RVAC, nông lâm nghiệp kết hợp, xen canh, luân canh, làm ruộng bậc thang ở những vùng cao đều là những sáng tạo truyền thống của các dân tộc Việt Nam trong sử dụng bền vững các nguồn tài nguyên thiên nhiên và BVMT.

Như vậy, định hướng chiến lược để PTBV ở Việt Nam rất phù hợp với truyền thống của người dân Việt Nam và nếu có những giải pháp phù hợp sẽ khơi dậy mạnh mẽ truyền thống cao đẹp này.

II. HIỆN TRẠNG CÁC HOẠT ĐỘNG VỀ PTBV CỦA VIỆT NAM TRONG NHỮNG NĂM GẦN ĐÂY

          Trong quá trình hội nhập quốc tế, vào năm 1991, Việt Nam đã thông qua ” Kế hoạch quốc gia về môi trường và phát triển lâu bền  1991-2000“. Tiếp đó, đây là một trong những hoạt động đầu tiên ở tầm quốc gia về PTBV. Ngày 17/8/2004 Chính phủ đã ra quyết định số 153/2004/TTg ban hành văn bản “Định hướng Chiến lược về phát triển bền vững ở Việt Nam – (Chương trình nghị sự 21 của Việt Nam)”. Nội dung của Định hướng chiến lược về PTBV bao gồm mục tiêu dài hạn, những nguyên tắc, những lĩnh vực ưu tiên,những định hướng về chính sách và biện pháp tổ chức thực hiện PTBV. Định hướng chiến lược đề ra khung chính sách để các ngành, các địa phương, các tổ chức xã hội thiết kế và thực hiện chương trình hành động tiến tới PTBV của mình.

          Định hướng chiến lược đã đề ra một số giải pháp nhằm tổ  chức thực hiện chính như sau:

          1. Phát triển hệ thống thể chế phù hợp với những yêu cầu PTBV, bao gồm hoàn thiện hệ thống cơ chế chính sách và các văn bản pháp luật và xây dựng cơ chế phối hợp hoạt động giữa các Bộ, Ngành, địa phương.

          2. Tăng cường năng lực quản lý PTBV của đội ngũ cán bộ.

          3. Huy động toàn dân tham gia thực hiện PTBV, thấm nhuần phương châm ” PTBV là sự nghiệp của toàn dân”

          4.Xây dựng và thực hiện chương trình hành động về PTBV của ngành và địa phương.

          5. Tăng cường hợp tác quốc tế và khu vực trong lĩnh vực PTBV và BVMT.

Chương trình nghị sự 21 của Việt nam (CTNS21) đánh dấu một thời kỳ mới thực hiện quan điểm của Nhà nước Việt Nam. Đó là “Phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường”. Đối với Việt Nam, đây là một cách tiếp cận mang tính hệ thống, dài hạn, bảo đảm sự phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội,môi trường theo hướng bền vững.

Thời gian qua, để đưa những định hướng của chiến lược vào cuộc sống được sự hỗ trợ của Chương trình phát triển Liên Hợp Quốc (UNDP), Cơ quan phát triển Quốc tế Đan Mạch (DANIDA), Cơ quan Phát triển quốc tế Thụy Điển (SIDA) cùng các tổ chức quốc tế khác, Dự án “Hỗ  trợ xây dựng và thực hiện Chương trình nghị sự 21 quốc gia của Việt nam – VIE/01/021 do Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì thực hiện với sự phối hợp của các Bộ, Ngành, địa phương đã triển khai nhiều hoạt động đến các tỉnh, thành và huyện, nhiều phương pháp tiếp cận, xây dựng và đánh giá định lượng các mô hình PTBV đã ra đời, trong đó phải kể đến các phương pháp xây dựng ma trận: “Động lực – Áp lực – Hiện trạng – Đáp ứng” đã trở thành phổ biến trong đánh giá tiến bộ về PTBV. Bên cạnh đó, Dự án VIE/01/021 đã lần lượt ban hành 10 chuyên đề, bước đầu kiến nghị Bộ  chỉ tiêu khởi đầu VN0  ở 2 cấp Quốc gia và các địa phương.

            Ở cấp quốc gia, gồm:

          – 12 chỉ tiêu (CT) về lĩnh vực kinh tế

          – 17 CT về lĩnh vực xã hội

         

– 12 CT về lĩnh vực tài nguyên- môi trường và

          – 3  CT về lĩnh vực thể chế nhằm PTBV

            Ở

cấp các địa phương, gồm:

           

– 7  CT về lĩnh vực kinh tế

          – 14 CT về lĩnh vực xã hội

         

– 6   CT về tài nguyên- môi trường và

          – 2   CT về lĩnh vực thể chế

          Năm 2006, Hội Bảo vệ Thiên nhiên và Môi trường Việt Nam(VACNE), với sự hỗ trợ của Dự án VIE/01/21 bước đầu phát hiện các loại mô hình trong nhiều lĩnh vực và tiến hành mô tả chi tiết và kiến nghị khả năng mở rộng nếu có điều kiện (bảng1)

Bảng 1. Các mô hình về Phát triển Bền vững ở Việt nam

Lĩnh vực

Mô hình

Số lượng mô hình đã  được nghiên cứu

Khả năng mở rộng mô hình

Công nghiệp

Sản xuất sạch hơn (cơ sở sản xuất)

                  4

     120

Nông nghiệp

Làng sinh thái

                 3

       18

Cộng đồng

Cộng đồng tham gia BVMT, PTBV(xã)

                  4

     3.000   

Thành phố

PTBV thành phố (thành phố)

                  3

        100

Vùng ven biển

PTBV vùng ven biển(tỉnh, thành phố)

                  3

          23

Lưu vực sông

PTBV lưu vực sông(lưu vực)

                  1

          20

Nguồn: Hội BVTN và MT Việt Nam, 2006

          Nhìn lại quá trình gần 5 năm thực hiện những nhiệm vụ đã nêu trong định hướng, Hội BVTN&MT Việt Nam với tư cách là tổ chức phản biện phi Chính phủ nhận thấy, kể từ khi Quyết định 153 của Chính phủ được ban hành, Việt Nam đã đạt được bước tiến khá dài trên con đường đi tới mục tiêu phát triển bền vững (PTBV). Có thể kể ra đây những kết quả chính như sau:

1. Phát triển hệ thống thể chế phù hợp với yêu cầu PTBV

          Chủ trương PTBV được các cơ quan lãnh đạo Đảng và Quốc Hội tích cực hưởng ứng và PTBV đã trở thành một quan điểm chủ đạo trong đường lối và chính sách phát triển dài hạn của Việt Nam thông qua việc lồng ghép một số chỉ tiêu cơ bản vào kế hoạch phát triển KT-XH 5 năm 2006-2010. Một số biện pháp về tổ chức và thể chế cho PTBV đã được thành lập: sự hình thành Hội đồng PTBV quốc gia theo quyết định số 1032/QĐ/TTg ngày 27/9/2005 của Thủ tướng Chính phủ và Văn phòng PTBV đặt trong Bộ KH&ĐT(Văn phòng 21) có nhiệm vụ giúp Thủ tướng Chính phủ tổ chức, hướng dẫn và chỉ đạo thống nhất việc thực hiện trong phạm vi cả nước Chiến lược PTBV.

2. Tăng cường năng lực quản lý PTBV của đội ngũ cán bộ

          Trong những năm qua  nhiều cuộc hội thảo, lớp tập huấn đã được tổ chức ở tất cả các vùng, miền trong cả nước để phổ biến nội dung của Định hướng Chiến lược PTBV. Đặc biệt ở 6 tỉnh tiến hành thí điểm (Thái Nguyên, Sơn La, Ninh Bình, Quảng Nam, Lâm Đồng, Bến Tre).

3. Huy động được một bộ phận dân chúng tham gia thực hiện PTBV

4. Xây dựng và thực hiện chương trình hành động về PTBV của ngành và địa phương

           

Cụ thể, Thông tư hướng dẫn các Ngành và địa phương xây dựng Chương trình nghị sự 21 cấp Ngành và địa phương đã được Bộ KH &ĐT ban hành 2005 (Thông tư 01/2005/TT-BKH ngày 9/3/2005). Theo tinh thần của Thông tư này, 6 tỉnh nói trên đã  được Dự án VIE/01/021- Bộ KH&ĐT triển khai thí điểm thực hiện quy trình mẫu xây dựng CTNS21 của tỉnh. Các tỉnh còn lại, trong đó có Hà Nội, một số cũng đã và đang tiến hành xây dựng CTNS21 của địa phương mình. Tại các tỉnh làm thí điểm đã thành lập Uỷ Ban PTBV do 1 Phó Chủ tịch tỉnh làm chủ nhiệm, Giám đốc Sở KH&ĐT làm Phó Chủ nhiệm. Tại những địa phương, hoặc ngành này nhiều mô hình trình diễn về PTBV đã được thực hiện và VACNE đã tổng kết để phổ biến (bảng 1).

          Cụ thể, mô hình xây dựng Hương ước làng bản về PTBV, phổ biến các mô hình nông nghiệp kết hợp với bảo vệ rừng ở tỉnh Sơn La; phổ biến các phương thức thực hiện nông nghiệp bền vững trong việc trồng trọt và chế biến chè sạch ở 2 tỉnh Thái Nguyên và Lâm Đồng; xây dựng Quy ước cộng đồng để thực hiện du lịch sinh thái bền vững ở Ninh Bình; phổ biến quy trình tạo năng lượng sạch trong cộng đồng nghèo ở Quảng Nam; phương thức nuôi tôm sinh thái ở Bến Tre; kết hợp phát triển ngành nghề để xoá đói giảm nghèo với việc bảo tồn các giá trị văn hoá dân tộc thiểu số ở Lâm Đồng…

5. Tăng cường hợp tác quốc tế và khu vực trong lĩnh vực PTBV và BVMT

Với sự hợp tác và hỗ trợ của cộng đồng quốc tế, nhiều Dự án quan trọng đang thực hiện nhằm xoá đói giảm nghèo, nâng cao bình đẳng giới, BVMT, giảm nhẹ tác động của thiên tai, cải cách thể chế và quản trị…

6. Xu hướng tích cực trong chính sách đảm bảo công nghiệp hoá sạch

          Xu hướng tích cực trong chính sách đảm bảo công nghiệp hoá sạch là sản xuất sạch hơn đã được chú ý thúc đẩy áp dụng ở quy mô cả nước. Chỉ thị số 08/CT-BCN ngày 10/7/2007 của Bộ trưởng Bộ công nghiệp về việc áp dụng sản xuất sạch hơn trong các cơ sở công nghiệp đã chỉ đạo các tập đoàn, tổng công ty và doanh nghiệp công nghiệp nghiên cứu, phổ biến và áp dụng.

Đến nay đã có hơn 30% số cơ sở công nghiệp áp dụng. Tuy chưa kèm theo những công cụ điều chỉnh pháp lý, khuyến khích kinh tế và hỗ trợ kỹ thuật để hiện thực hoá Chỉ thị, song đây là bước tiến về nhận thức của giới lãnh đạo công nghiệp với vai trò sản xuất sạch hơn.

7. Văn kiện Định hướng Chiến lược PTBV đặt phát triển bền vững nông nghiệp và nông thôn như là một lĩnh vực ưu tiên hàng đầu

          Bên cạnh đó, Đề án ” Vấn đề nông nghiệp, nông thôn và nông dân” được Hội nghị BCH Trung ương lần thứ 7 (năm 2008) thông qua đã vạch ra những kết quả, những tồn tại và giải pháp. Tuy có nhiều khó khăn thực hiện PTBV ở nông thôn do chủ yếu sản xuất tiêu nông, nhưng trong những năm gần đây đã gặt hái nhiều thành công trong chuyển giao công nghệ, trong xây dựng các mô hình sản xuất bền vững như VAC, mô hình canh tác bền vững trên đất dốc (SALT), mô hình làng kinh tế sinh thái…và phong trào làm hầm biogas đã cải thiện đáng kể bộ mặt nông thôn và ở mức độ nào đó đã thể hiện tính bền vững.

III. NHỮNG THÁCH THỨC

1. Phát triển hệ thống thể chế phù hợp với yêu cầu PTBV

          Quá trình thực hiện PTBV đã bắt đầu được các cơ quan nhà nước và chính quyền địa phương chú ý và đã có những bước tiến đáng kể. Tuy vậy, tiến độ thực hiện còn chậm so với mong đợi và vì vậy tình hình phát triển kinh tế vẫn đang tiếp tục gây suy thoái môi trường và nhiều lĩnh vực xã hội yếu kém vẫn chưa được cải thiện. Những ví dụ điển hình là các vụ gây ô nhiễm môi trường trầm trọng của Công ty Vedan Việt Nam, Công ty Miwon, gần 1500 làng nghề nông thôn phát triển không bền vững, vẫn tiếp tục sản xuất theo phương thức cũ gây ô nhiễm môi trường. Một số trung tâm làng nghề ở Bắc Ninh, Hưng Yên đã hình thành, nhưng công tác quản lý yếu kém dẫn đến việc các hộ chuyển cả gia đình ra sống ở các trung tâm và chiếm dụng luôn đất đai.

          – Quyết định số 685/QĐ-BKH ngày 28/6/2004 của Bộ KH&ĐT về việc thành lập văn phòng PTBV.

          – Quyết định số 1032/QĐ-TTg ngày 27/9/2005 của Thủ tướng Chính Phủ về việc thành lập Hội đồng PTBV Quốc gia.

          – Quyết định số 248/QĐ-TTg ngày 24/2/2009 của Thủ tướng Chính phủ về việc điều chỉnh chức năng, nhiệm vụ, cơ cấu tổ chức của Hội đồng PTBV Quốc gia.

          – Thông tư số 01/2005/TT-BKH ngày 09/3/2005 của Bộ KH&ĐT về việc triển khai thực hiện Quyết định của Thủ tướng Chính phủ về Định hướng chiến lược PTBV ở Việt Nam.

2. Về tổ chức

          Văn phòng PTBV đã qua 4 năm hoạt động, nhưng đội ngũ cán bộ mỏng và năng lực yếu. Văn phòng chưa thực hiện được tất cả các chức năng quản lý cũng như triển khai thực hiện, đặc biệt là công tác đôn đốc, giám sát, đánh giá kết quả hoạt động PTBV. Một số tỉnh thí điểm tuy có tổ chức Uỷ ban phát triển bền vững nhưng hoạt động như thế nào là tuỳ thuộc vào từng địa phương, khâu kiểm tra, đánh giá còn yếu.

          Hội đồng PTBV quốc gia được thành lập từ 2005, ban đầu quá cồng kềnh (gồm 44 thành viên đại diện lãnh đạo các Bộ, Ngành, đoàn thể, tổng công ty lớn). Chính vì vậy, tháng 2/2009 Chính phủ đã có quyết định điều chỉnh tổ chức của Hội đồng với chức năng và nhiệm vụ tập trung hơn, cơ cấu tổ chức gọn hơn (gồm 30 thành viên).

3. Về Thông tư hướng dẫn triển khai CTNS21

          Tuy đã được phổ biến tới tất cả các tỉnh và Bộ, Ngành, nhưng mới chỉ có những tỉnh thành nằm trong diện thí điểm, được Dự án VIE/01/021 cấp kinh phí thì khởi động, tuyệt đại đa số các tỉnh, thành còn lại chưa  thực hiện đầy đủ. Lý do có thể là:

          – PTBV và CTNS21 là những vấn đề mới nên rất cần những hướng dẫn về việc xây dựng Chương trình nghị sự 21 cho các địa phương. Cần phải có sự hỗ trợ qua tập huấn, bồi dưỡng cán bộ và tư vấn về các phương pháp tiến hành công việc.

          – Chương trình nghị sự 21 quốc gia mới chỉ mang tính chất khung định hướng và chưa có văn bản nào quy định phải bắt buộc tuân thủ tất cả các Điều trong đó.

5. Định hướng Chiến lược PTBV mới chỉ dừng lại ở phạm trù lý luận, chưa thực sự đi vào thực tiễn cuộc sống. Quá trình chuyển sang phát triển theo chiều sâu hầu như không có như định hướng chiến lược đã đề ra là  chuyển tăng trưởng từ chiều rộng sang chiều sâu bằng cách áp dụng công nghệ mới, nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm, nâng cao hiệu quả…Các cấp chính quyền hiện vẫn theo đuổi  tốc độ tăng trưởng kinh tế thông qua các chính sách thu hút đầu tư “thoáng” bằng cách xây dựng cơ sở hạ tầng ở những địa điểm thuận tiện, hạ giá cho thuê đất, ưu đãi thuế, đơn giản hoá thủ tục…Nếu xét theo các tiêu chí PTBV thì chính sách này là không bền vững, là nới lỏng những tiêu chuẩn sử dụng tiết kiệm tài nguyên quý hiếm như đất đai, khoáng sản, năng lượng và hạ thấp tiêu chuẩn BVMT. Tình trạng lãng phí đất ở các khu công nghiệp (tỷ lệ lấp đầy diện tích các khu công nghiệp trên cả nước chưa đến 50%), đã chuyển đổi gần 400.000 ha đất nông nghiệp màu mỡ  thành các khu công nghiệp, đô thị, sân golf, cho  phép đầu tư các nhà máy có nguy cơ gây ô nhiễm cao, khai thác và hối hả khai thác các loại khoáng sản để xuất khẩu thô hiện đang là những vấn đề bức xúc trong xã hội. Những ví dụ điển hình là như dự án khai thác bauxite Tây Nguyên đã thể hiện rõ nét những khía cạnh tiêu cực về kinh tế, xã hội, tài nguyên và môi trường. Việc cả nước hiện có 141 sân golf ở 39 tỉnh sử dụng 49.268 ha đất trong đó có 2.625 ha đất trồng lúa, sân golf đã trở thành một hiện tượng đang bùng nổ, là sát thủ của nhà nông, đe dọa an ninh lương thực quốc gia, mất việc làm của một bộ phận không nhỏ nông dân và gây ô nhiễm môi trường do dùng nhiều nước và hoá chất bảo vệ mặt cỏ.

6. Các nhà hoạch định chính sách và lập quy hoạch

còn xem nhẹ và chưa nhận thức đầy đủ sự cần thiết của việc gắn kết môi trường vào các quy hoạch phát triển.

Trong khi đó các nhà môi trường lại bị đứng ngoài quá trình xây dựng các quy hoạch phát triển đó. Nhiều ngành kinh tế phát triển nhanh gây áp lực lớn đến môi trường và xã hội, nhưng khi lập quy hoạch phát triển lại hầu như không đề cập đến PTBV theo khía cạnh môi trường và an sinh xã hội. Đa số các bản quy hoạch này thường nặng về phát triển kinh tế, chưa quan tâm đúng mức đến sinh kế của một bộ phận đông đảo dân cư và BVMT. Nói cách khác, nhận thức về PTBV mới chỉ dừng lại ở phạm trù lý thuyết chưa có tính thực tiễn, khoảng cách giữa nhận thức về lý luận và thực tiễn còn rất rộng. Ví dụ, công trình thuỷ điện Sơn La mang tầm cỡ Quốc gia tuy đã được tiến hành, nhưng kéo dài còn sơ sài, không xét tới tính bền vững. Việc tách riêng đánh giá tác động môi trường với tái định cư, với giao thông thuỷ bộ là không hợp lý, không thể hiện tính bền vững.

7. Công tác truyền thông về CTNS21

còn yếu ở Trung ương và địa phương, chỉ những cán bộ  quản lý chủ          chốt mới được thông tin, còn nhiều bộ phận cán bộ các Sở, Ban Ngành và cộng đồng đều thiếu thông tin. Do đó, quá trình lập quy hoạch thiếu sự tham gia của cộng đồng địa phương, dẫn đến hiệu quả và tính thực thi các quy hoạch rất thấp. Dự án VIE/01/021- Bộ KH&ĐTđã lựa chọn bộ chỉ tiêu khởi đầu gồm 58 CT. Trong đó lĩnh vực kinh tế gồm 12 CT, lĩnh vực xã hội: 17 CT; lĩnh vực TNMT 12 CT; lĩnh vực thể chế 3 CT, nhưng đến nay vẫn chưa được công bố chính thức. Một mặt khác, đến nay không có một văn bản nào  quy định về việc đưa vào giảng dạy CTNS21 ở các Trường Đại học và Cao đẳng, nếu có chỉ mang tính tự phát và theo yêu cầu của rất ít khối trường.

8. Những thách thức trong lĩnh vực xã hội:

          Thực hiện Định hướng Chiến lược PTBV, một số chính sách mới đã được ban hành trong các lĩnh vực dân số, xoá đói giảm nghèo, đô thị hoá, di dân, y tế và giáo dục là những định hướng ưu tiên. Tuy chưa tạo ra những đột phá về cơ chế, song những chính sách về xã hội cơ bản có tác dụng tích cực đối với ổn định xã hội, nâng cao thu nhập và phúc lợi của các nhóm yếu thế và nghèo, phát triển nguồn lực con người. Ví dụ điển hình là đã điều chỉnh ngưỡng nghèo theo hướng tích cực, với ngưỡng thu nhập cao hơn ở thành thị cũng như khu vực nông thôn. Nhưng do thay đổi về tổ chức, chuẩn bị không đồng bộ, quản lý bị buông lỏng nên đã tác động tiêu cực đến kết quả. Trong 5-6 năm trở lại đây, có tới 2 lần thay đổi tổ chức về công tác dân số gây xáo trộn rất lớn trong toàn bộ hệ thống chuyên trách dân số kế hoạch hoá gia đình ở các địa phương. Kết quả là, xu hướng gia tăng tốc độ tăng dân số và việc lựa chọn giới tính thai nhi đang là nỗi lo trong xã hội; mục tiêu giảm sinh năm 2007 đã không đạt chỉ tiêu của Quốc Hội. Theo báo cáo của Bộ Y tế vào tháng 6/2008, có 39/64 tỉnh thành có mức sinh tăng mạnh như Tp. HCM tăng 30%, Hà Nội tăng 27%, Sơn La tăng 40%, Sóc Trăng tăng 41%. Trong số này số trẻ là con thứ  ba tăng 17% so với cùng kỳ năm 2007.

9. Những thách thức trong lĩnh vực tài nguyên, môi trường:

          Lĩnh vực BVMT gắn bó mật thiết với PTBV. Vì vậy các Bộ luật và các chính sách về tài nguyên – môi trường là một bộ phận không tách rời của quá trình phát triển. Theo thống kê của Bộ Tư pháp, Việt Nam đã ban hành khoảng 300 văn bản pháp luật BVMT. Đó là những cố gắng lớn, phát huy tác dụng tích cực trong quản lý, sử dụng tài nguyên và BVMT. Tuy nhiên, hệ thống văn bản trong lĩnh vực này còn thiếu nhiều quy định cần được xem xét và bổ sung trong bối cảnh môi trường nước ta ngày càng xuống cấp nghiêm trọng. Thiếu những văn bản về chi trả dịch vụ môi trường (PES), thiếu chính sách cụ thể khuyến khích công nghệ sản xuất sạch hơn. Các chính sách còn thiếu tính hệ thống và thiếu đồng bộ. Nhiều Bộ Luật thiếu chi tiết đòi hỏi văn bản hướng dẫn thi hành Luật dài hơn so với Luật; tính ổn định không cao vì thay đổi quá nhanh, như Nghị định 80/2006/NĐ-CP về việc quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số Điều của Luật BVMT, được ban hành năm 2006, qua 1 năm áp dụng đã phải sửa đổi, bổ sung(ngày 28/02/2008, Chính Phủ đã ban hành Nghị định số 21/2008/NĐ- CP về sửa đổi, bổ sung Nghị định 80 đối với các quy định về thời hạn và quy trình nghiệm thu báo cáo ĐTM); tác dụng răn đe của các hệ thống pháp luật thấp, chế tài xử phạt còn quá nhẹ, chỉ là những giải pháp tạm thời có tính chất cảnh cáo. Mức phạt cao nhất là 70 triệu đồng. So với chi phí để đầu tư thiết bị xử lý ô nhiễm hàng tỷ đồng, thì với mức phạt này nhiều cơ sở công nghiệp sẵn sàng nộp phạt để tiếp tục xả thải các chất thải không qua xử lý ra môi trường; 10% tổng lượng hoá chất bảo vệ thực vật dùng trong nông nghiệp không rõ xuất xứ, chủng loại và có tính độc cao vẫn tràn vào nước ta theo đường tiểu ngạch, sử dụng bừa bãi gây ô nhiễm môi trường và các vụ ngộ độc thực phẩm. Có thể đánh giá rằng, các chính sách thưởng phạt yếu, việc thực thi Luật pháp không đầy đủ và nghiêm túc làm cho các chính sách BVMT không có hiệu cao như mong đợi.

IV. NHỮNG GIẢI PHÁP CẦN THỰC HIỆN TRONG THỜI GIAN TỚI ĐỂ TIẾP TỤC THỰC HIỆN CTNS21

Định hướng Chiến lược PTBV quốc gia cần phải được thực hiện thông qua hàng loạt chính sách, chương trình, dự án và biện pháp cụ thể ở quy mô toàn quốc. Tất cả các hoạt động như xây dựng thể chế, truyền thông và giáo dục cho toàn dân, đào tạo và nâng cao năng lực quản lý PTBV cho cán bộ, cho các tổ chức tham gia CTNS21 đều  phải được tiếp tục mở rộng quy mô hoạt động và tăng hiệu quả của tác động. Cụ thể:

          1. Các cơ quan lãnh đạo và điều phối hoạt động PTBV là Hội đồng PTBV quốc gia và văn phòng PTBV phải được tổ chức tốt để hoạt động tích cực, định hướng và chỉ đạo có hiệu quả sự phối hợp hoạt động giữa các ngành, các địa phương nhằm đảm bảo sự kết hợp hài hoà giữa tăng trưởng kinh tế nhanh với phát triển xã hội và BVMT. Trong bối cảnh hiện nay các cơ quan điều phối hoạt động PTBV phải ý thức được vấn đề lồng ghép các quy hoạch phát triển và các chính sách và hướng dẫn các ngành, các địa phương lập quy hoạch của riêng mình với vấn đề biến đổi khí hậu toàn cầu.

          2. Để đưa Định hướng PTBV vào thực tiễn cuộc sống, sự hỗ trợ từ bên ngoài  về tài chính, kinh nghiệm, tài liệu, phương pháp tiến hành, đào tạo nguồn nhân lực là cực kỳ quan trọng nên phải có giải pháp để thu hút sự hỗ trợ tối đa của các tổ chức Quốc tế, hoặc dưới dạng các Hiệp định đa phương, song phương. Phải đặt vấn đề hội nhập vào trào lưu quốc tế, một mặt tranh thủ sự giúp đỡ, nhưng mặt khác để các Liên doanh, các Dự án 100% vốn nước ngoài phải tôn trọng tính truyền thống về PTBV của nước ta và thiết thực đóng góp vào tiến trình thực thi CTNS21 của Việt Nam, tránh không để hiện tượng Công ty Vedan và Miwon lặp lại lần nữa.

          3. Đẩy mạnh công tác giáo dục, truyền thông nhằm nâng cao nhận thức của mọi người về PTBV. Đặc biệt phải làm cho PTBV trở thành cách suy nghĩ của mọi cơ quan và tất cả những người chịu trách nhiệm lập kế hoạch và quản lý sự PTBV ở các cấp. Cách tiếp cận PTBV phải được cụ thể hoá thành các chính sách, biện pháp, tổ chức bộ máy thích hợp và có những công cụ hành chính, kinh tế, tài chính phù hợp để thực hiện. Làm tốt công tác giáo dục, truyền thông đồng nghĩa với việc hình thành phong trào tham gia của các tầng lớp nhân dân vào quá trình ra quyết định phương hướng phát triển, thực hiện và giám sát việc thực hiện các kế hoạch và quy hoạch đảm bảo các tiêu chí của PTBV.

          4. Có các giải pháp đào tạo nguồn nhân lực, huy động, phân bổ và sử dụng các nguồn lực trong xã hội một cách hợp lý để các ngành, các địa phương có bộ phận chuyên trách, tích cực và chủ động xây dựng và thực hiện chương trình hành động PTBV của mình và hợp tác với nhau đảm bảo sự PTBV ở quy mô liên vùng, liên ngành và quy mô cả nước, nhằm phát huy được hiệu quả kinh tế, xã hội và môi trường cao nhất.

          5. Phải nhanh chóng hình thành cơ chế theo dõi, báo cáo, giám sát, thu thập và công bố rộng rãi thông tin về quá trình thực hiện những nội dung của Định hướng chiến lược PTBV. Có những biện pháp khuyến khích và tạo cơ chế để lôi kéo cộng đồng cùng tham gia vào tiến trình thực hiện CTNS21, kiểm tra, theo dõi và đánh giá những kết quả thu được.

                                                                    Hà Nội, tháng 5 năm 2009

Bạn đang đọc nội dung bài viết 4 Giải Pháp Phát Triển Bền Vững Thị Trường Bảo Hiểm Việt Nam trên website Photomarathonasia.com. Hy vọng một phần nào đó những thông tin mà chúng tôi đã cung cấp là rất hữu ích với bạn. Nếu nội dung bài viết hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!