Cập nhật nội dung chi tiết về 13 Giải Pháp Đào Tạo Nhân Lực Công Nghệ Cao mới nhất trên website Photomarathonasia.com. Hy vọng thông tin trong bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu ngoài mong đợi của bạn, chúng tôi sẽ làm việc thường xuyên để cập nhật nội dung mới nhằm giúp bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.
Trong bối cảnh đại khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu, Việt Nam muốn từng bước ngăn chặn suy giảm kinh tế, tạo tiền đề bước vào giai đoạn phát triển mới với chất lượng cao hơn trong tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, chúng ta phải tái cơ cấu lại nền kinh tế, trong đó đổi mới công nghệ đặc biệt là ứng dụng CNC vào một số lĩnh vực kinh tế mũi nhọn là một yếu tố hết sức quan trọng.
Vấn đề đặt ra là làm thế nào để có nguồn nhân lực có chất lượng cao đáp ứng yêu cầu của nhiệm vụ đó. Cuộc hội thảo Đào tạo nhân lực CNC theo nhu cầu xã hội do Bộ GD&ĐT và Bộ KH&CN phối hợp tổ chức vừa qua tại Bình Dương nhằm tìm lời giải đáp cho câu hỏi đó.
Thực trạng … Từ đầu những năm 1990, chúng ta đã tập trung nguồn lực vào phát triển 4 lĩnh vực CNC là công nghệ thông tin (CNTT), công nghệ sinh học (CNSH), công nghệ vật liệu mới và tự động hóa (CNVLM&TĐH) qua nhiều chương trình trọng điểm cấp Nhà nước và một số chương trình kinh tế kỹ thuật với mục tiêu nghiên cứu ứng dụng, tiếp thu để tiến tới làm chủ các công nghệ nhập tiên tiến, sáng tạo công nghệ trong nước phục vụ các ngành kinh tế quốc dân và đã làm chủ được một số CNC trong các lĩnh vực điện tử-tin học-viễn thông, thăm dò khai thác dầu khí, công nghệ tạo giống cây trồng vật nuôi, y tế… Tuy nhiên, theo Thứ trưởng Bộ GD&ĐT Bành Tiến Long: Việt Nam chưa sở hữu hay làm chủ được bất kỳ công nghệ nguồn, công nghệ cốt lõi nào thuộc lĩnh vực CNC mà mới chỉ dừng ở mức độ làm chủ được một vài công đoạn, một số quá trình hoặc một số yếu tố CNC nào đó mang tính chuyên ngành, CNC hầu như còn vắng bóng ở hầu hết các ngành kinh tế. Theo khảo sát của Sở KH&CN chúng tôi phần lớn các doanh nghiệp trên địa bàn đều nhập các thiết bị lạc hậu, xuất xứ từ Trung Quốc, Đài Loan, và ngay cả một số doanh nghiệp có vốn nước ngoài cũng sử dụng những thiết bị có trình độ công nghệ ở mức trung bình.
Khái niệm nhân lực công nghệ cao Theo qui định của Luật CNC thì Nhân lực CNC được hiểu “đội ngũ những người có trình độ và kỹ năng đáp ứng được yêu cầu của hoạt động nghiên cứu, phát triển, ứng dụng CNC, dịch vụ CNC, quản lý hoạt động CNC, vận hành các thiết bị, dây chuyền sản xuất sản phẩm CNC”. Trong cơ cấu nhân lực CNC, những chuyên gia, nhà khoa học… chỉ chiếm khoảng từ 5-10%, còn lại là công nhân, kỹ thuật viên, lao động phổ thông.
Thực trạng này do một số nguyên nhân như phát triển CNC đòi hỏi chi phí rất lớn trong khi đầu tư cho nghiên cứu phát triển của ta còn thấp, các hướng nghiên cứu chưa được định hướng đúng, chưa có mối liên kết chặt chẽ trong nghiên cứu triển khai giữa viện, trường và các doanh nghiệp… nhưng trước hết là do nguồn nhân lực CNC còn thiếu, yếu về năng lực thực hành, mà việc chúng ta không đáp ứng được yêu cầu tối thiểu về nhân lực để Intel triển khai xây dựng nhà máy tại Việt Nam và việc cho đến nay hầu như chưa có nhân lực để triển khai dự án nhà máy điện hạt nhân là những ví dụ điển hình. Thứ trưởng Bộ KH&CN Nguyễn Văn Lạng cho biết, theo điều tra tiềm lực KH&CN năm 2006 của Bộ KH&CN, tuổi đời của cán bộ khoa học khá cao, trong đó giáo sư và phó giáo sư gần 60 tuổi, số dưới 50 tuổi chỉ có 12%. Số lượng tiến sĩ là hơn 10.000 người nhưng trình độ so với chuẩn quốc tế rất thấp. Chỉ có khoảng 25% số cán bộ khoa học có thể sử dụng thành thạo tiếng Anh. Đặc biệt là thiếu các chuyên gia và tổng công trình sư. Điều đáng lưu ý nữa là cơ cấu nguồn nhân lực mất cân đối nghiêm trọng giữa công nhân, kỹ sư thực hành, bộ phận quản lý giữa các ngành KHCN so với kinh tế và KHXH&NV.
… và giải pháp Trong hoàn cảnh hiện nay của ta, để ứng dụng và phát triển CNC trong một số lĩnh vực kinh tế, Phó Thủ tướng Nguyễn Thiện Nhân cho rằng trước hết cần phải chuyển giao và ứng dụng nhanh công nghệ của nước ngoài vào Việt Nam; có cơ chế chính sách phù hợp để nghiên cứu sáng tạo CNC trong nước với chi phí thấp (thực tế ở chúng tôi năm 2002 các nhà khoa học đã thiết kế chế tạo được 50 thiết bị bán cho các doanh nghiệp với giá chỉ bằng 10% đến 60% giá nhập, tiết kiệm được hơn 50 tỉ đồng so với nhập khẩu); tiếp đến là các viện nghiên cứu, trường ĐH tiếp nhận CNC cần có giải pháp phổ biến rộng CNC đó cho các ngành kinh tế và nghiên cứu, đào tạo nguồn nhân lực CNC đáp ứng yêu cầu của xã hội. Các giải pháp này chỉ có thể mang lại hiệu quả khi có mối liên kết, hợp tác chặt chẽ giữa viện, trường và các doanh nghiệp và có một chính sách phát triển nguồn nhân lực CNC căn cứ vào chiến lược phát triển kinh tế – xã hội của đất nước – Phó Thủ tướng nhấn mạnh.
Trong khuôn khổ hội thảo lần này, Bộ GD&ĐT, Bộ KH&CN cùng các DN lớn và một số trường đại học uy tín đã tổ chức ký kết hợp tác đào tạo về nhân lực CNC cho một số ngành trọng điểm với tầm nhìn 2015-2020.
Ngoài những chính sách đối với nhân lực CNC trước đây đã được thể hiện trong các văn bản Luật, trong tham luận tại hội thảo, Thứ trưởng Bộ KH&CN Nguyễn Văn Lạng cho rằng cần bổ sung và cụ thể hóa một số chính sách có tính đột phá như chính sách tiền lương, chính sách ưu đãi đối với các nhà khoa học (kể cả những nhà khoa học Việt kiều), chính sách hỗ trợ kinh phí từ các quỹ đào tạo nhân lực CNC theo các dự án, đề tài… đặc biệt là chính sách xã hội hóa đào tạo với chủ thể là sự liên kết chặt chẽ giữa viện-trường-doanh nghiệp. Một ví dụ cụ thể cho sự liên kết này là dự án khu đô thị Đại học Bình Dương với diện tích 630ha nhằm đáp ứng nhu cầu nguồn nhân lực cho phát triển kinh tế – xã hội của Bình Dương đến năm 2020 và các tỉnh thuộc khu vực phía Nam do UBND tỉnh Bình Dương giới thiệu tại hội thảo. Để đạt được mục tiêu từ nay đến năm 2020 có được số lượng lớn nhân lực CNC đáp ứng được nhu cầu phát triển kinh tế – xã hội của đất nước, Phó Thủ tướng cho rằng cần nỗ lực thúc đẩy các chương trình đào tạo CNC hiện có và quyết tâm xây dựng những chương trình mới. Theo đó, Phó Thủ tướng đã đề xuất một số giải pháp cụ thể hóa về đào tạo nhân lực CNC. P.V
13 giải pháp đào tạo nguồn nhân lực CNC 1. Cụ thể hóa chương trình đào tạo nhân lực theo nhu cầu xã hội của Chính phủ. 2. Khuyến khích và đẩy mạnh hình thành việc đào tạo có chất lượng quốc tế ở các trường đại học để có thể phục vụ được các nhu cầu đào tạo CNC. 3. Đẩy mạnh việc đào tạo theo hợp đồng, thử nghiệm các cơ chế đào tạo nhân lực cho tập đoàn Intel. 4. Khẩn trương đưa trung tâm hỗ trợ đào tạo, cung cấp nhân lực của Bộ GD&ĐT vào hoạt động. 5. Sớm hình thành các chuỗi phòng thí nghiệm trong cả nước, qua đó để có thể chuyển giao công nghệ nhanh cho các doanh nghiệp. 6. Có chính sách khuyến khích các doanh nghiệp tham gia thành lập trường học trên cơ sở Nghị định 69 của Chính phủ. 7. Hình thành và tiếp tục phát huy các trung tâm dự báo nhu cầu nhân lực và thông tin thị trường lao động. 8. Đẩy mạnh chương trình đào tạo 2 vạn tiến sĩ, đặc biệt chú ý tỷ lệ của nhóm ngành CNC. 9. Xây dựng chính sách để khuyến khích nhân tài đi đào tạo ở nuớc ngoài sau đó trở về xây dựng khoa học CNC. 10. Hình thành các phương tiện thông tin đặc thù như tạp chí, bản tin chuyên ngành để có sự giao lưu giữa nhà đào tạo và các DN có nhu cầu đào tạo. 11. Sẽ tiến hành hội nghị quốc gia hằng năm về CNC, gắn nghiên cứu, đào tạo với sử dụng của DN trong nước và quốc tế. 12. Có cơ chế khen thưởng trong lĩnh vực này, khen thưởng các nhà khoa học, các nhà trường và các DN đã đóng góp công sức vào đào tạo CNC. 13. chương trình, cơ chế khuyến khích Việt kiều, các nhà khoa học và doanh nghiệp nước ngoài đến hỗ trợ đào tạo CNC ở Việt Nam.
Giải Pháp Đào Tạo Nhân Lực Công Nghệ Thông Tin Cho Cách Mạng Công Nghiệp 4.0
GD&TĐ – Sáng nay tại Hà Nội đã diễn ra Hội thảo tìm giải pháp cho đào tạo nhân lực Công nghệ thông tin (CNTT) cho cuộc cách mạng công nghiệp 4.0. Hội thảo đã quy tụ nhiều chuyên gia đến từ trong và ngoài nước, đặc biệt là các cơ sở đào tạo lĩnh vực này. Hội thảo do Bộ GD&ĐT phối hợp với Tập đoàn APTECH tổ chức.
Phó vụ trưởng Vụ GDĐH Phạm Như Nghệ phát biểu tại Hội thảo
Để thúc đẩy Cách mạng Công nghiệp 4.0 (CMCN 4.0), điều kiện tiên quyết là cần có những giải pháp cụ thể về phát triển nhân lực. Thiếu nhân lực, CMCN 4.0 sẽ khó khăn ngay từ những bước đi đầu tiên. Trong vài năm gần đây, CMCN 4.0 được nhắc đến nhiều ở Việt Nam. Tuy nhiên, những giải pháp chuẩn bị nhân lực cho CMCN 4.0 lại chưa được đề cập tương xứng với mức độ quan trọng của nó.
Nhằm có cái nhìn đa chiều về nhân lực cho CMCN 4.0 tại Việt Nam, đồng thời cũng để tiếp thu những tư vấn và giải pháp từ các tập đoàn công nghệ hàng đầu, đại diện các Tập đoàn công nghệ đã cùng chia sẻ kinh nghiệm về phát triển nhân lực, đóng góp các ý kiến, giải pháp để giúp Việt Nam chuẩn bị tốt nguồn nhân lực, phục vụ cho CMCN 4.0.
Nhiều ý kiến cho rằng, để hiện thực hóa và triển khai thành công CMCN 4.0, cần ưu tiên phát triển đội ngũ giảng viên đào tạo về các công nghệ 4.0 dưới sự hướng dẫn của các chuyên gia quốc tế. Tuy nhiên, việc mời các chuyên gia quốc tế gặp nhiều khó khăn vì chính các nước phát triển cũng đang khan hiếm chuyên gia trong lĩnh vực này, đồng thời chi phí để mời chuyên gia về giảng dạy tại Việt Nam rất cao.
Trong khuôn khổ của Hội nghị.đã diễn ra Lễ ký hợp tác triển khai khóa đào tạo đội ngũ giảng viên công nghệ làm nền tảng chuẩn bị nguồn nhân lực giúp Việt Nam phát triển CMCN 4.0. Khóa đào tạo này do Bộ GD&ĐT phối hợp APTECH tổ chức với chuyên đề Artificial Intelligence và Machine Learning dành riêng cho các trường Đại học tại Việt Nam dưới sự hướng dẫn của chuyên gia công nghệ 4.0 quốc tế.
Giải Pháp Đào Tạo Nguồn Nhân Lực Chất Lượng Cao Phù Hợp Cách Mạng Công Nghiệp 4.0
GD&TĐ – Ngày 21/7 tại Hà Nội, Trường Đại học Việt Nhật thuộc ĐHQGHN (VJU) và Trường Đại học Nguyễn Tất Thành (NTTU) phối hợp tổ chức Hội thảo “Giáo dục khai phóng: Giải pháp đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao phù hợp Cách mạng công nghiệp 4.0”. Tham dự đông đảo các nhà khoa học, giảng viên đến từ nhiều trường đại học trong và ngoài nước.
Giáo dục khai phóng là hướng mở cho chất lượng đào tạo thời 4.0
Cách mạng công nghiệp 4.0 hình thành từ các cường quốc công nghệ và đang lan tỏa, tác động các quốc gia đang phát triển như Việt Nam. Trường Đại học Việt Nhật và Trường Đại học Nguyễn Tất Thành nằm trong số ít trường đại học ở Việt Nam theo đuổi áp dụng triết lý giáo dục khai phóng vào đào tạo thế hệ trẻ có khả năng thích ứng, phát triển sự nghiệp trong thời đại cách mạng công nghiệp 4.0.
GS. FURUTA Motoo – Hiệu trưởng Trường Đại học Việt Nhật, cho rằng; Chúng ta đang sống trong thế giới thay đổi nhanh, thời đại cách mạng công nghệ 4.0. Có người ước đoán rằng trí thông minh nhân tạo sẽ tiêu diệt một nửa công việc hiện tại. Chúng ta phải đào tạo nguồn nhân tài không bị trí thông minh nhân tạo tiêu diệt, ngược lại, làm chủ được trí thông minh nhân tạo.
Thế thì cần phải có một nền giáo dục đào tạo nguồn nhân lực có tầm nhìn rộng, khả năng sáng tạo phong phú, nền tảng kiến thức liên ngành và khả năng thích ứng với thay đổi. Đó chính là giáo dục khai phóng. Theo kinh nghiệm Nhật Bản, đại học coi trọng giáo dục khai phóng và đại học coi trọng đào tạo chuyên môn hẹp song song tồn tại là chuyện bình thường.
GS Furuta Motoo đã đưa ra kinh nghiệm giáo dục khai phóng trong nền giáo dục đại học của Nhật Bản và triển vọng áp dụng giáo dục khai phóng vào Việt Nam. Trong đó, Trường Đại học Việt Nhật nêu cao triết lý giáo dục khai phóng, áp dụng mô hình Trường Đại cương Đại học Tokyo, không ngoài mong muốn: Tương lai không xa, giáo dục khai phóng sẽ chiếm vị trí nhất định trong nền giáo dục đại học ở Việt Nam, sẽ có nhiều trường đại học áp dụng triết lý này một cách cơ bản và toàn diện.
Các tham luận của Giáo sư Uchida Kátuichi, nguyên Phó Giám đốc Đại học Waseda; GS Nguyễn Ngọc Thành đến từ Đại học Bách khoa Wroclaw (Ba Lan); GS David Camacho của Đại học Autonomous University of Madrid (Tây Ban Nha); GS Nguyễn Lộc – Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Nguyễn Tất Thành; TS Nguyễn Hoàng Oanh – Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Việt Nhật; GS Aizawa Masuo, cố vấn Chủ tịch cơ . Khoa học và Công nghệ Nhật Bản, nguyên Giám đốc Đại học Công nghệ Tokyo; GS Cassim Monte – nguyên Hiệu trưởng Đại học APU (Nhật Bản).
Những nhận định xu hướng, bài học kinh nghiệm thực tiễn và gợi ý triển khai giáo dục khai phóng của các chuyên gia, nhà lãnh đạo uy tín đến từ châu Âu, Nhật Bản và Việt Nam, đều là những kinh nghiệm hay cho các trường đại học ở Việt Nam muốn thực hiện triết lý giáo dục Khai Phóng.
GS Furuta Motoo: Sử dụng khái niệm giáo dục khai phóng thì vẫn còn nhiều ý kiến khác nhau ở Việt Nam, nhưng chúng ta có nhất trí cao về sự cần thiết những con người có tầm nhìn rộng, khả năng sáng tạo phong phú, nền tảng kiến thức liên ngành và khả năng thích ứng với thay đổi. Tôi cho đây chính là giáo dục khai phóng. Tôi tin rằng trong tương lai không xa giáo dục khai phóng sẽ chiếm vị trí nhất định trong nền giáo dục đại học Việt Nam.
Đổi Mới Đào Tạo Nghề, Nâng Cao Chất Lượng Nguồn Nhân Lực
Lao động qua đào tạo nghề đạt gần 40%
– Hà Nội là trung tâm lớn về văn hóa, khoa học, giáo dục, kinh tế và giao dịch quốc tế. Theo ông, chất lượng nguồn nhân lực Thủ đô đã đáp ứng yêu cầu này chưa? – Theo thống kê, hằng năm, TP Hà Nội có gần 80.000 người bước vào tuổi lao động và dự báo đến năm 2020, nhu cầu lao động cho nền kinh tế Thủ đô vào khoảng hơn 4,5 triệu người. Tính đến tháng 9-2017, tỷ lệ lao động qua đào tạo ở Hà Nội đạt 60,66%, trong đó lao động qua đào tạo nghề đạt gần 40%, cao hơn nhiều so với mặt bằng chung của cả nước. Tuy nhiên, số lao động có trình độ chuyên môn, kỹ thuật phân bố không đều, tập trung ở khu vực đô thị; tỷ lệ lao động qua đào tạo nghề ở khu vực nông thôn còn thấp.
Ngoài ra, lao động qua đào tạo nói chung, đào tạo nghề nói riêng còn gặp khó khăn trong quá trình tìm kiếm việc làm phù hợp. Một số ngành, nghề thiếu hụt lao động trình độ cao do nhiều lao động ở Hà Nội cũng như cả nước chưa đáp ứng yêu cầu về ngoại ngữ, kỹ năng làm việc theo nhóm, tính kỷ luật…
– Những năm qua, TP Hà Nội đã quan tâm đến công tác đào tạo nghề như thế nào, thưa ông? – Trong quá trình xây dựng, phát triển Thủ đô, công tác đào tạo nghề là nội dung được các cấp ủy Đảng, chính quyền, tầng lớp nhân dân đặc biệt quan tâm. Nghị quyết Đại hội Đảng bộ TP Hà Nội lần thứ XVI đã xác định: “Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, xây dựng người Hà Nội thanh lịch, văn minh và phát triển toàn diện, đáp ứng yêu cầu của thời kỳ mới” là một trong 3 khâu đột phá. Chương trình số 04-CTr/TU ngày 26-4-2016 của Thành ủy và Kế hoạch số 165/KH-UBND ngày 31-8-2016 của UBND thành phố đã giao nhiệm vụ cụ thể cho ngành Lao động – Thương binh và Xã hội (LĐ-TB&XH) và các địa phương phải giải quyết việc làm cho 140.000 người/năm; nâng tỷ lệ lao động qua đào tạo lên từ 70% đến 75% vào năm 2020…
Đặc biệt, năm 2013, HĐND thành phố đã thông qua Nghị quyết 23/2013/NQ-HĐND về “Quy hoạch phát triển mạng lưới trường cao đẳng nghề, trường trung cấp nghề, trung tâm dạy nghề TP Hà Nội đến năm 2020, định hướng đến năm 2030”, tạo điều kiện cho hệ thống cơ sở dạy nghề phát triển cả về quy mô và chất lượng. UBND TP Hà Nội cũng ban hành nhiều chương trình, kế hoạch, nhằm nâng cao chất lượng đào tạo nghề nói chung, đào tạo nghề cho lao động nông thôn nói riêng.
Cùng với các chủ trương, chính sách, TP Hà Nội khuyến khích, tạo điều kiện cho các tổ chức, cá nhân trong nước, nước ngoài, nhất là các doanh nghiệp, hợp tác xã, các cơ sở sản xuất, kinh doanh thành lập cơ sở dạy nghề tư thục, mở rộng mạng lưới đào tạo nghề. Các trường nghề đã chủ động đầu tư nâng cấp hệ thống cơ sở vật chất, đổi mới phương pháp giảng dạy, nâng cao hiệu quả đào tạo. Các địa phương chú trọng dạy nghề cho lao động nông thôn với phương châm “Dạy nghề dân cần, giúp dân sống được bằng nghề”.
Nâng cao hiệu quả hoạt động
– Ông có thể cho biết kết quả nổi bật của công tác đào tạo nghề trong những năm gần đây?
– Trên địa bàn TP Hà Nội hiện có 371 đơn vị trong hệ thống cơ sở giáo dục nghề nghiệp hoặc có hoạt động giáo dục nghề nghiệp, trong đó 108 đơn vị do Hà Nội quản lý. Trung bình mỗi năm, hệ thống cơ sở giáo dục nghề nghiệp tuyển sinh, đào tạo khoảng 150.000 – 180.000 lượt người. Từ đầu năm đến nay, riêng các cơ sở đào tạo thuộc Hà Nội đã tuyển sinh, đào tạo gần 40.000 lượt người. Số học sinh, sinh viên tốt nghiệp các trường công lập thuộc TP Hà Nội trong năm 2016 và 9 tháng năm 2017 được doanh nghiệp tuyển dụng theo đặt hàng đào tạo lên đến gần 7.000 người. Một số ngành, nghề thuộc lĩnh vực cơ khí, kỹ thuật, điện, điện tử, may mặc,… còn thiếu chỉ tiêu so với nhu cầu đặt hàng của doanh nghiệp.
Những năm gần đây, công tác đào tạo nghề gắn với nhu cầu tuyển dụng của doanh nghiệp và thị trường lao động được TP Hà Nội xác định là giải pháp quan trọng để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Sở LĐ-TB&XH Hà Nội đã tham mưu cho UBND thành phố ban hành Kế hoạch 66/KH-UBND ngày 15-3-2017 hướng dẫn các đơn vị triển khai mô hình đào tạo theo nhu cầu tuyển dụng. Đến nay, 5 cơ sở đào tạo nghề đã xây dựng kế hoạch triển khai và xác định được 21 doanh nghiệp phối hợp đào tạo.
Đối với lĩnh vực đào tạo nghề nông nghiệp và phi nông nghiệp, trong giai đoạn 2010-2016, TP Hà Nội đã hỗ trợ đào tạo gần 160.000 lao động. Nhiều lao động sau học nghề tìm được việc làm hoặc tạo ra năng suất lao động, hiệu quả kinh tế cao hơn do ứng dụng tiến bộ kỹ thuật mới vào sản xuất.
– Ông có thể cho biết việc xây dựng trường chất lượng cao, nghề trọng điểm được thực hiện thế nào?
– Đến thời điểm này, TP Hà Nội đã xây dựng 3 trường cao đẳng nghề công lập trở thành trường chất lượng cao, đó là: Trường Cao đẳng nghề Công nghiệp Hà Nội, Trường Cao đẳng nghề Công nghệ cao Hà Nội và Trường Cao đẳng nghề Việt Nam – Hàn Quốc Hà Nội. Trong đó, Trường Cao đẳng nghề Công nghiệp Hà Nội đầu tư 5 nghề trọng điểm, trong đó 3 nghề công nghệ ô tô theo tiêu chuẩn Đức; kỹ thuật máy lạnh và điều hòa không khí, cơ điện tử theo tiêu chuẩn Australia… Trường Cao đẳng nghề Công nghệ cao Hà Nội đầu tư 4 nghề trọng điểm, như: Điện tử công nghiệp, thiết kế đồ họa theo tiêu chuẩn Australia… Trường Cao đẳng nghề Việt Nam – Hàn Quốc Hà Nội lựa chọn nghề điện công nghiệp, điện tử công nghiệp, cơ điện tử công nghệ ô tô… để đầu tư.
Để hiện thực hóa mục tiêu một số trường nghề chất lượng cao đạt chuẩn khu vực và quốc tế vào năm 2020, giai đoạn 2011-2015, TP Hà Nội đã hỗ trợ mua sắm trang thiết bị dạy nghề trọng điểm với kinh phí hơn 87 tỷ đồng cho Trường Cao đẳng nghề Công nghiệp Hà Nội, Trường Cao đẳng nghề Công nghệ cao Hà Nội, Trường Trung cấp nghề Giao thông công chính Hà Nội. Năm 2016 và năm 2017, thành phố tiếp tục đầu tư 29 tỷ đồng cho một số trường nâng cấp trang thiết bị để triển khai đào tạo thí điểm theo chương trình mới. Điều đáng mừng là một số trường đã khai giảng và số lượng tuyển sinh liên tục tăng; tỷ lệ học viên ra trường có việc làm cao hơn nhiều so với những năm trước.
Từng bước chuẩn hóa đào tạo nghề
– TP Hà Nội đã thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp, song chất lượng đào tạo nghề nói riêng, chất lượng nguồn nhân lực Thủ đô nói chung vẫn chưa chuyển biến như kỳ vọng. Theo ông, đâu là nguyên nhân?
– Tôi cho rằng, muốn tạo sự chuyển biến về công tác đào tạo nghề cần có sự tham gia của nhiều ngành, nhiều phía. Ở góc độ đào tạo nghề, không khó để nhận thấy việc tuyển sinh tại các cơ sở hoạt động giáo dục nghề nghiệp gặp nhiều khó khăn. Hằng năm, các cơ sở dạy nghề chỉ nhận được hồ sơ đăng ký sau khi các trường đại học hoàn thành chỉ tiêu tuyển sinh. Việc phân luồng học sinh tốt nghiệp trung học cơ sở, trung học phổ thông tham gia học nghề chưa được triển khai cụ thể…
Việc xây dựng trường chất lượng cao, nghề trọng điểm được quan tâm, nhưng nguồn lực đầu tư chưa đáp ứng nhu cầu. Cơ sở vật chất, trang thiết bị đào tạo của nhiều cơ sở dạy nghề còn lạc hậu so với sự phát triển của khoa học công nghệ. Đào tạo nghề cho lao động nông thôn được triển khai rộng rãi, nhưng chưa sâu và chưa bám sát thực tế. Bản thân người lao động và xã hội chưa quan tâm đúng mức đến việc học nghề, dạy nghề…
– Thời gian tới, ngành LĐ-TB&XH sẽ thực hiện những giải pháp gì để nâng cao chất lượng giáo dục nghề nghiệp, đáp ứng nhu cầu về nguồn nhân lực phục vụ phát triển kinh tế – xã hội của Thủ đô và đất nước, thưa ông? – Trước hết, chúng tôi tiếp tục đẩy mạnh tuyên truyền các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước và TP Hà Nội đối với công tác dạy nghề, học nghề; ưu tiên các nguồn lực đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy nghề cho các trường dạy nghề công lập của thành phố theo hướng hiện đại. Mô hình thí điểm đào tạo nghề gắn với doanh nghiệp sử dụng lao động; liên kết đào tạo với các cơ sở nước ngoài uy tín sẽ được mở rộng, phát triển. Ngành LĐ-TB&XH luôn khuyến khích các cơ sở đào tạo nghề theo địa chỉ sử dụng lao động; tạo điều kiện thuận lợi để các doanh nghiệp tham gia quá trình đào tạo nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực đòi hỏi công nghệ sản xuất hiện đại.
Ngành LĐ-TB&XH sẽ triển khai “Đề án rà soát, sắp xếp nâng cao chất lượng đào tạo nghề các cơ sở giáo dục nghề nghiệp” ngay sau khi được UBND thành phố phê duyệt. Theo chủ trương chung, các cơ sở giáo dục nghề nghiệp sẽ tự chủ, tự chịu trách nhiệm. Những đơn vị hoạt động kém hiệu quả sẽ giải thể hoặc sáp nhập. Đội ngũ cán bộ, giáo viên các cơ sở đào tạo nghề từng bước được chuẩn hóa; năng lực của giáo viên được đánh giá thông qua chất lượng đầu ra của học sinh. Công tác tư vấn, hướng nghiệp cũng được quan tâm nhiều hơn…
Với những giải pháp nêu trên, tôi tin chất lượng dạy nghề, học nghề từng bước được cải thiện, góp phần “Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, xây dựng người Hà Nội thanh lịch, văn minh và phát triển toàn diện, đáp ứng yêu cầu của thời kỳ mới”.
– Trân trọng cảm ơn ông!
Bạn đang đọc nội dung bài viết 13 Giải Pháp Đào Tạo Nhân Lực Công Nghệ Cao trên website Photomarathonasia.com. Hy vọng một phần nào đó những thông tin mà chúng tôi đã cung cấp là rất hữu ích với bạn. Nếu nội dung bài viết hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!